Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật
QUYỂN THỨ HAI

Hán dịch: Pháp Sư Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Tịnh
PHẨM TAM GIẢ THỨ BẢY

            Ðức Phật bảo ngài Tu Bồ Ðề: "Ông nên dạy chư đại Bồ-Tát về Bát-Nhã ba la mật đúng như chư đại Bồ-Tát đáng phải thành tựu.
            Liền đó toàn thể chúng hội Bồ-Tát Thanh Văn chư Nhơn Thiên đều nghĩ rằng ngài Tu Bồ Ðề sẽ tự dùng trí huệ của ngài hay là nương thần lực của đức Phật mà giảng thuyết Bát-Nhã ba la mật cho chư đại Bồ-Tát?
            Biết quan niệm của chúng hội, ngài Tu Bồ Ðề nói với ngài Xá-Lợi-Phất: Phàm hàng Thanh Văn đệ tử có thuyết pháp có giáo thọ đều là nương thần lực của đức Phật cả.
            Lời của Phật giảng dạy chẳng trái với pháp tướng, như ngọn đèn sáng. Các thiện nam tử tu học theo pháp ấy được chứng pháp ấy.
            Hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật thiệt không có khả năng giảng thuyết Bát-Nhã ba la mật cho chư đại Bồ-Tát.
            Ngài Tu Bồ Ðề bạch Phật: "Bạch đức Thế-Tôn! Chư Bôò-Tát đã nói đó, pháp gì gọi là Bồ Tát?
            Chúng con chẳng thấy pháp chính xác nào gọi là Bồ-Tát thời thế nào dạy Bồ-Tát về Bát-Nhã ba la mật?
            Ðức Phật nói: "Này Tu Bồ Ðề! Thật ra cũng chỉ có danh tự gọi là Bát-Nhã ba la mật. Bồ Tát cùng tên Bồ Tát cũng chỉ có danh tự mà thôi. Danh tự này chẳng ở trong chẳng ở ngoài chẳng ở trung gian.
           Này Tu Bồ Ðề! Ví như nói ngã, chúng sanh, thọ giả, mạng giả, sanh giả, tri giả, kiến giả, tác giả, khởi giả, đều là những pháp do hòa hiệp mà có. Những tên gọi đây vốn là bất sanh, bất diệt, chỉ dùng danh tự thế gian để nói.
            Cũng vậy, Bát-Nhã ba la mật cùng Bồ Tát và tên Bồ Tát đều do hòa hiệp mà có, cũng vốn là bất sanh, bất diệt, chỉ dùng danh tự thế gian để nói.
            Ví như thân thể do hòa hiệp mà có, sắc thọ tưởng hành thức cũng do hòa hiệp mà có, đều là bất sanh, bất diệt, chỉ dùng danh tự thế gian để nói. Bát-Nhã ba la lmật cùng Bồ Tát và tên Bồ Tát cũng vậy.
            Này Tu Bồ Ðề! Ví như nhã, nhĩ, tĩ, thiệt, thân, ý; sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, nhãn giới, nhĩ giới nhẫn đến ý thức, tất cả thập nhị xứ cùng thập bát giới ấy, đều do hòa hiệp mà có, vốn là bất sanh bất diệt chỉ dùng danh tự thế gian để nói. Những thứ ấy chẳng ở trong chẳng ở ngoài chẳng ở trung gian.
           Cũng vậy, Bát-Nhã ba la mật cùng Bồ Tát và tên Bồ Tát đều do hòa hiệp mà có, vốn là bất sanh, bất diệt, chỉ dùng danh tự thế gian để nói, chẳng ở trong chẳng ở ngoài chẳng ở trung gian.
          Này Tu Bồ Ðề! Ví như nội thân gọi là đầu cổ vai cánh lưng hông vế chân, ngoại vật gọi là cỏ cây nhánh lá cộng mắt đều do hòa hiệp mà có, vốn là bất sanh bất diệt, chỉ dùng danh tự thế gian để nói, cũng chẳng ở trong chẳng ở ngoài chẳng ở trung gian.
            Bát-Nhã ba la mật cùng Bồ Tát và tên Bồ Tát cũng như vậy, đều do hòa hiệp mà có, vốn là bất sanh bất diệt, chỉ dùng danh tự thế gian để nói, chẳng ở trong chẳng ở ngoài chẳng ở trung gian.
            Này Tu Bồ Ðề! Ví như danh hiệu của chư Phật quá khứ do hòa hiệp mà có cũng là bất sanh bất diệt chỉ dùng danh tự để nói, chẳng ở trong chẳng ở ngoài chẳng ở trung gian. Bát-Nhã ba la mật cùng Bồ Tát và tên Bồ Tát cũng như vậy.
            Ví như bóng vang mộn ảo diệm hóa đều do hòa hiệp mà có chỉ dùng danh tự để nói, những thứ ấy cùng danh tự vốn là bất sanh bất diệt, chẳng ở trong chẳng ở ngoài chẳng ở trung gian. Bát-Nhã ba la mật cùng Bồ-Tát và tên Bồ-Tát cũng như vậy, đều do hòa hiệp mà có, là bất sanh bất diệt, chẳng ở trong chẳng ở ngoài chẳng ở trung gian.
            Này Tu Bồ Ðề! Phải học tập như vầy: Ðại Bồ-Tát thật hành Bát-Nhã ba la mật, danh tự của Bát-Nhã ba la mật cùng sự nhẫn thọ của Bát-Nhã ba la mật và chính pháp Bát-Nhã ba la mật đều là giả-thi-thiết cả.
            Lúc thật hành Bát-Nhã ba la mật, đại Bồ-Tát chẳng thấy sắc danh tự, cùng thọ, tưởng, hành, thức, danh tự, là thường, là vô thường, là khổ, là lạc, là ngã, là vô ngã, là cấu, là tịnh, cũng chẳng thấy danh tự năm uẩn này là không, là vô tướng, là vô tác, là tịch diệt, là sanh, là diệt, là ở trong, ở ngoài, ở trung gian.
            Như năm uẩn, nhãn căn sắc trần, nhãn thức, nhãn xúc, cùng nhơn duyên của nhãn xúc sanh ra những cảm thọ, nhẫn đến ý căn pháp trần, ý thức, ý xúc cùng nhơn duyên của ý xúc sanh ra những cảm thọ cũng vậy. Ðại Bồ-Tát đều chẳng thấy là thường là vô thường nhẫn đến chẳng thấy ở trung gian.
            Tại sao vậy? Vì lúc thật hành Bát-Nhã ba la mật, đại Bồ-Tát ở trong tánh hữu vi, trong tánh vô vi đều không thấy Bát-Nhã ba la mật cùng Bồ-Tát và tên Bồ-Tát. Ðối với những pháp này, đại Bồ-Tát chẳng móng niệm phân biệt.
            Thật hành Bát-Nhã ba la mật, đại Bồ-Tát này an trụ trong bất hoại pháp, lúc tu tứ niệm xứ cho đến lúc tu mười tám pháp bất cộng, chẳng thấy Bát-Nhã ba la mật, chẳng thấy Bồ-Tát cùng danh tự của Bồ-Tát.
            Lúc thật hành Bát-Nhã ba la mật, đại Bồ-Tát chỉ biết thiệt tướng của các pháp. Thiệt tướng này là chẳng cấu chẳng tịnh.
            Lúc thật hành Bát-Nhã ba la mật, đại Bồ-Tát phải biết danh tự là giả thi thiết. Ðã biết danh tự là giả thi thiết rồi thời chẳng chấp trước nơi sắc, thọ, tưởng, hành, thức, chẳng chấp trước nơi nhãn, nhĩ, tĩ, thiệt, thân, ý, sắc thanh hương vị xúc pháp, chẳng chấp trước nơi nhãn giới đến ý thức giới, chẳng chấp trước nơi nhãn xúc cùng nhơn duyên của nhãn xúc đến ý xúc cùng nhơn duyên của ý xúc sanh ra sự cảm thọ hoặc khổ hoặc lạc hoặc bất khổ bất lạc, chẳng chấp trước tánh hữu vi tánh vô vi, chẳng chấp trước đàn na thi la sằn đề tỳ lê gia thiền na và Bát-Nhã ba la mật, chẳng chấp trước ba mươi hai tướng, chẳng chấp trước thân Bồ-Tát, chẳng chấp trước nhục nhãn thiên nhãn huệ nhãn pháp nhãn Phật nhãn, chẳng chấp trước trí ba la mật thần thông ba-la-mật, chẳng chấp trước nội không nhẫn đến vô pháp hữu pháp không, chẳng chấp trước thành tựu chúng sanh, chẳng chấp trước thanh tịnh Phật độ, chẳng chấp trước pháp phương tiện.
            Tại sao vậy? Vì những pháp này đều là rổng không nên chẳng có người chấp trước, chẳng có pháp bị chấp trước, chẳng có chỗ chấp trước.
            Lúc thật hành Bát-Nhã ba la mật, đại Bồ-Tát chẳng chấp trước tất cả pháp bèn tăng ích sáu ba la mật lên bực Bồ-Tát bật thối chuyển, đủ đại thần thông đến Phật độ này đến Phật độ kia để cúng dường chư Phật độ thoát chúng sanh thanh tịnh Phật quốc, cũng để nghe chư Phật thuyết pháp. Nghe xong nhớ mãi đến lúc thành vô thượng bồ đề vẫn chẳng quên, được những môn đà la ni cùng những môn tam muội.
            Thế nên đại Bồ-Tát lúc thật hành Bát-Nhã ba la mật phải biết rõ các pháp danh tự là giả thi thiết.
            Này Tu Bồ Ðề! Sắc thọ tưởng hành thức có phải là Bồ-Tát chăng?
            - Không phải. Bạch đức Thế-Tôn
            - Này Tu Bồ Ðề! Nhãn nhĩ tĩ thiệt thân ý sắc thanh hương vị xúc pháp, nhãn thức nhĩ thức tĩ thức thiệt thức thân thức ý thức có phải là Bồ-Tát chăng?
            - Không phải. Bạch đức Thế Tôn.
            - Này Tu Bồ Ðề! Ðịa chủng, thủy chủng, hỏa chủng, phong chủng, không chủng, thức chủng có phải là Bồ-Tát chăng?
            - Không phải. Bạch đức Thế-Tôn.
            - Này Tu Bồ Ðề! Vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão, tử có phải là Bồ-Tát chăng?
            - Không phải. Bạch đức Thế-Tôn.
            - Này Tu Bồ Ðề! Rời ngoài ngũ uẩn thập nhị xứ thập bát giới, rời ngoài lục đại chủng thập nhị nhơn duyên có phải là Bồ-Tát chăng?
            - Không phải. Bạch đức Thế-Tôn.
            - Này Tu Bồ Ðề! Như như tướng của ngũ uẩn nhẫn đến như như tướng của Thập nhị nhơn duyên có phải là Bồ-Tát chăng?
            - Không phải. Bạch đức Thế-Tôn.
            - Này Tu Bồ Ðề! Rời ngoài như như tướng ấy có phải là Bồ-Tát chăng?
            - Không phải. Bạch đức Thế-Tôn.
            - Này Tu Bồ Ðề! Ông thấy nghĩa gì mà cho rằng tất cả những pháp kể trên và ly những pháp ấy không phải là Bồ-Tát như vậy?
            - Bạch đức Thế-Tôn! Chúng sanh còn rốt ráo bất khả đắc huống lại là Bồ-Tát. Sắc còn bất khả đắc huống là sắc hay rời sắc là Bồ-Tát, huống là như như tướng của sắc hay rời như như tướng của sắc là Bồ-Tát. Nhẫn đến thập nhị nhơn duyên còn bất khả đắc, huống là thập nhị nhơn duyên hay rời thập nhị nhơn duyên là Bồ-Tát, huống là như như tướng hay rời như như tướng của thập nhị nhơn duyên là Bồ-Tát.
            - Lành thay, lành thay! Ðúng như vậy. này Tu Bồ Ðề! Vì đại Bồ-Tát và chúng sanh bất khả đắc nên Bát-Nhã ba la mật cũng bất khả đắc. Cần phải học như vậy.
            Này Tu Bồ Ðề! Sắc thọ tưởng hành thức có phải là nghĩa của Bồ-Tát chăng?
            - Bạch đức Thế-Tôn! Không phải.
            - Này Tu Bồ Ðề! Sắc, thọ, tưởng, hành, thức, thường, vô thường, lạc, khổ, ngã, vô ngã, có phải là nghĩa của Bồ-Tát chăng?
            - Bạch đức Thế-Tôn! Không phải.
           Này Tu Bồ Ðề! Sắc thọ tưởng hành thức; không phi không; tướng, vô tướng, tác, vô tác có phải là nghĩa của Bồ-Tát chăng? Nhẫn đến lão tử cũng như vậy.
            - Bạch đức Thế-Tôn! Không phải.
            - Này Tu Bồ Ðề! Ông thấy những nghĩa gì mà cho rằng ngũ uẩn đến thập nhị nhơn duyên không phải nghĩa của Bồ-Tát, ngũ uẩn đến thập nhị nhơn duyên thường vô thường nhẫn đến tác vô tác đều không phải nghĩa của Bồ-Tát?
            - Bạch đức Thế-Tôn! Ngũ uẩn đến thập nhị nhơn duyên còn rốt ráo bất khả đắc huống lại là ngĩa của Bồ-Tát. Ngũ uẩn đến thập nhị nhơn duyên thường đến vô tác còn rốt ráo bất khả đắc huống lại là nghĩa của Bồ-Tát. Lành thay, lành thay! Ðúng như vậy. Này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát thật hành Bát-Nhã ba la mật, nghĩa của sắc thọ tưởng hành thức nhẫn đến nghĩa vô tác đều bất khả đắc. Phải học Bát-Nhã ba la mật như vậy.
            Này Tu Bồ Ðề! Ông nói rằng ông không thấy có pháp chính xác nào gọi là Bồ-Tát.
            Phải biết rằng các pháp chẳng thấy các pháp. Các pháp chẳng thấy pháp tánh. Pháp tánh cũng chẳng thấy các pháp. Pháp tánh chẳng thấy địa chủng, địa chủng chẳng thấy pháp tánh, nhẫn đến thức chủng cũng như vậy. Pháp tánh chẳng thấy nhãn và sắc cùng nhãn thức tánh nhẫn đến ý thức tánh cũng chẳng thấy pháp tánh.
            Này Tu Bồ Ðề! Hữu-vi-tánh chẳng thấy vô-vi-tánh, vô-vi-tánh cũng chẳng thấy hữu-vi-tánh. Tại sao vậy? Vì rời hữu vi chẳng thể nói vô vi, rời vô vi chẳng thể nói hữu vi.
            Ðúng như vậy. Này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát thật hành Bát-Nhã ba la mật đối với các pháp đều không chỗ thấy. Bấy giờ Bồ-Tát không khinh sợ, chẳng hối tiếc, tâm cũng chẳng trầm-một.
            Tại sao vậy? Vì đại Bồ-Tát này chẳng thấy ngũ uẩn thập nhị xứ thập bát giới nhẫn đến chẳng thấy thập-nhị-nhơn-duyên, chẳng thấy ngã, chúng sanh nhẫn đến tri giả, kiến giả, chẳng thấy dục giới, sắc giới, vô sắc giới, chẳng thấy Thanh-Văn Bích Chi Phật, chẳng thấy Bồ-Tát và pháp của Bồ-Tát, chẳng thấy Phật Phật pháp và Phật đạo.
            Vì tất cả pháp đều chẳng thấy nên Bồ-Tát chẳng kinh sợ, chẳng hối tiếc, chẳng trầm một.
            - Bạch đức Thế-Tôn! Do cớ gì mà tâm của Bồ-Tát này chẳng hối tiếc, chẳng trầm một.
            Này Tu Bồ Ðề! Tất cả tâm và tâm sở của đại Bồ-Tát đều bất khả đắc và chẳng thể thấy. Vì thế nên tâm của Bồ-Tát chẳng trầm một chẳng hối tiếc.
            Bạch đức Thế-Tôn! Do cớ gì mà tâm của Bồ-Tát chẳng kinh sợ?
            Này Tu Bồ Ðề! Ý và ý thức của Bồ-Tát này đều bất khả đắc và chẳng thể thấy. Vì thế nên Bồ-Tát chẳng kinh chẳng sợ.
            Ðúng như vậy. Này Tu Bồ Ðề! Vì tất cả pháp bất khả đắc nên đại Bồ-Tát phải thật hành Bát-Nhã ba la mật.
            Này Tu Bồ Ðề! Tất cả nơi chỗ, đại Bồ-Tát chẳng thấy Bát-Nhã ba la mật, chẳng thấy Bồ-Tát, chẳng thấy danh tự Bồ-Tát cũng chẳng thấy tâm Bồ-Tát. Ðây chính là dạy hàng đại Bồ-Tát.