Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật
QUYỂN THỨ BA

Hán dịch: Pháp Sư Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Tịnh


PHẨM HÀNH TƯỚNG THỨ MƯỜI

            Ngài Tu Bồ Ðề bạch đức Phật: "Bạch đức Thế-Tôn! Ðại Bồ-Tát nếu không phương tiện mà muốn thật hành Bát-Nhã ba la mật, nếu duyên nơi sắc nếu duyên nơi thọ tưởng hành thức thời là hành tướng, nếu duyên nơi sắc thọ tưởng hành thức hoặc thường hay vô thường hoặc lạc hay khổ hoặc hữu hay không hoặc ngã hay vô ngã hoặc ly hoặc tịch diệt, đây đều là hành tướng cả.
            Nếu đại Bồ-Tát không phương tiện mà duyên nơi tứ niệm xứ, nhẫn đến duyên nơi mười tám pháp bất cộng, đây là hành tướng.
            Nếu lúc thật hành Bát-Nhã ba la mật, đại Bồ-Tát nghĩ rằng: tôi có thật hành Bát-Nhã ba la mật, đây là hành tướng. Hoặc lại nghĩ rằng có thể thật hành như vậy thời là tu hành Bát-Nhã ba la mật, đây cũng là hành tướng. Nên biết đại Bồ-Tát này không có phương tiện mà thật hành Bát-Nhã ba la mật.
            Ngài Tu Bồ Ðề lại nói với ngài Xá-Lợi-Phất: "Lúc thật hành Bát-Nhã ba la mật, nếu đại Bồ-Tát phân biệt duyên nơi sắc, vì vấn đề sắc mà khởi hạnh. Nếu vì vấn đề sắc mà khởi hạnh thời chẳng có thể thoát ly sanh lão bệnh tử ưu bi khổ não và khổ quả đời sau. Như sắc, với thọ tưởng hành thức cũng vậy.
            Như ngũ ấm, với lục căn lục trần thập bát giới, với tứ niệm xứ nhẫn đến mười tám pháp bất cộng cũng vậy. Nếu đại Bồ-Tát phân biệt duyên nơi pháp bất cộng, vì vấn đề pháp bất cộng mà khởi hạnh. Nếu vì vấn đề pháp bất cộng mà khởi hạnh thời chẳng có thể thoát ly sanh lão bệnh tử ưu bi khổ não và khổ quả đời sau.
            Bồ-Tát như đây còn chẳng thể chứng bực Thanh Văn Bích Chi Phật huống là có thể được vô thượng bồ đề.
            Nên biết Bồ-Tát như vậy là không phương tiện mà thật hành Bát-Nhã ba la mật.
            Ngài Xá-Lợi-Phất hỏi: "Thế nào biết đại Bồ-Tát thật hành Bát-Nhã ba la mật mà có phương tiện?"
            Ngài Tu Bồ Ðề nói: "Lúc muốn thật hành Bát-Nhã ba la mật, đại Bồ-Tát chẳng duyên nơi sắc, chẳng duyên nơi thọ tưởng hành thức, chẳng duyên nơi tướng của sắc, chẳng duyên nơi tướng của thọ tưởng hành thức, cũng chẳng duyên nơi sắc thọ tưởng hành thức là thường là vô thường là lạc là khổ là ngã là vô ngã là không là vô tướng là vô tác là ly là tịch diệt. Với tấtcả, đại Bồ-Tát đều chẳng duyên."
            Tại sao vậy?
            Này ngài Xá-Lợi-Phất! Sắc không đây thời là chẳng phải sắc, rời ngoài không cũng chẳng có sắc, rời ngoài sắc cũng chẳng có không, sắc tức là không, không tức là sắc. Thọ tưởng hành thức cũng như vậy.
            Nhẫn đến mười tám pháp bất cộng, pháp bất-cộng-không thời là chẳng phải pháp bất cộng, rời không chẳng có pháp bất cộng, rời pháp bất cộng cũng chẳng có không, pháp bất cộng tức là không, không tức là pháp bất cộng.
            Nên biết đây là đại Bồ-Tát thật hành Bát-Nhã ba la mật có phương tiện vậy.
            Thật hành Bát-Nhã ba la mật mà có phương tiện như vậy, đại Bồ-Tát này có thể được vô thượng bồ đề.
            Lúc thật hành Bát-Nhã ba la mật, đại Bồ-Tát này chẳng nhận lấy thật hành, chẳng nhận lấy chẳng thật hành, chẳng nhận lấy thật hành chẳng thật hành, cũng chẳng nhận lấy chẳng phải thật hành chẳng phải chẳng thật hành. Chẳng nhận lấy cũng chẳng chẳng nhận lấy.
            Ngài Xá-Lợi-Phất hỏi: "Duyên cớ gì mà đại Bồ-Tát chẳng nhận lấy?"
            Ngài Tu Bồ Ðề nói: "Vì tự tánh bất khả đắc nên chẳng nhận lấy.
            Tại sao vậy? Vì không có tánh chính đó là Bát-Nhã ba la mật. Thế nên đại Bồ-Tát với tất cả đều chẳng nhận lấy. Với chẳng nhận lấy cũng chẳng nhận lấy.
            Tại sao vậy? Vì pháp tánh là vô sở hữu nên chẳng duyên nơi pháp cũng chẳng nhận lấy các pháp tướng.
            Ðây gọi là tác dụng quảng đại của chư pháp-vô-sở-thọ tam muội của đại Bồ-Tát. Tam muội này chẳng cùng chung với hàng Thanh Văn Bích Chi Phật.
            Ðại Bồ-Tát thường thật hành tam muội này mà chẳng rời mau được vô thượng bồ đề.
            Ngài Xá-Lợi-Phất hỏi: "Chỉ chẳng rời tam muội này mà đại Bồ-Tát mau được vô thượng bồ đề, hay là còn những tam muội khác?"
            Ngài Tu Bồ Ðề nói: "Những tam muội sau đây cũng làm cho đại Bồ-Tát mau được vô thượng bồ đề. Như là thủ-lăng-nghiêm tam muội, bửu ấn tam muội, sư-tử-du-hí tam muội, diệu nguyệt tam muội, nguyệt-tràng-tướng tam muội, xuất-chư-pháp-ấn tam muội, quán đảnh tam muội, tất pháp tánh tam muội, tất-tràng-tướng tam muội, kim cang tam muội, nhập-pháp-ấn tam muội, tam muội vương an lập tam muội, vương ấn tam muội, phóng quang tam muội, lực tấn tam muội, xuất sanh tma muội, tấ-nhập-biện-tài tam muội, nhập-danh-tự tam muội, quán phương tam muội, đà la ni ấn ma muội, bất vong tam muội, nhiếp-chư-pháp-hải-ấn tam muội, biến-phú-hư-không tam muội, kim-cang-luân tam muội, bửu đoạn tam muội, năng-chiếu-diệu tam muội, bất cầu tam muội, tam muội vô-xứ-trụ tam muội, vô tâm tam muội, tịnh đăng tam muội, vô-biên-minh tam muội, năng tác minh tam muội, phổ-chiếu-minh tam muội, kiên-tịnh-chư-tam-muội tam muội, vô cấu minh tam muội, tác nhạc tam muội, điển quang tam muội, vô tịnh tam muội, oai đức tam muội, ly tận tam muội, bất động tam muội, trang nghiêm tam muội, nhựt quang tam muội, nguyệt tịnh tam muội, tịnh minh tam muội, tác hành tam muội, tri tướng tam muội, như-kim-cang tam muội, tâm trụ tam muội, biến chiếu tam muội, an lập tam muội, bửu đảnh tam muội, diệu-pháp-ấn tam muội, pháp đẳng tam muội, lập-sanh-hỉ tam muội, đáo-pháp-đảnh tam muội, năng tán tam muội, hoại chư pháp xứ tam muội, tự-đẳng-tướng tam muội, ly tự tam muội, đoạn duyên tam muội, bất hoại tam muội, vô chủng tướng tam muội, vô-xứ-hành tam muội, ly ám tam muội, vô khứ tam muội, độ duyên tam muội, tập chư đức tam muội, trụ-vô-tâm tam muội, tịnh-diệu-hoa tam muội, giác ý tam muội, vô lượng biện tam muội, vô-đẳng-đẳng tam muội, độ-chư-pháp tam muội, phân-biệt-chư-pháp tam muội, tán nghi tam muội, vô-trụ-xứ tam muội, nhứt tướng tam muội, sanh hạnh tam muội, nhứt hạnh tam muội, bất-nhứt-hạnh tam muội, diệu hạnh tam muội, đạt-nhứt-thiết-hữu-để-tán tam muội, nhập ngôn-ngữ tam muội, ly-âm-thanh-tự-ngữ tam muội, nhiên cự tam muội, tịnh tướng tam muội, phá tướng tam muội, nhứt-thiết-chủng-như-túc tam muội, bất-hỉ-khổ-lạc tam muội, bất-tận-hành tam muội, đa đà la ni tam muội, thủ-chư-tà-chánh-tướng tam muội, diệt-tắng-ái tam muội, nghịch thuận tam muội, tịnh quang tam muội, kiên cố tam muội, mãn-nguyện-tịnh-quang tam muội, đại-trang-nghiêm tam muội, năng-chiếu-nhứt-thiết-thế tam muội, đẳng tam muội, vô-tránh-hạnh tam muội, vô trụ xứ lạc tam muội, như trụ định tam muội, hoại thân tam muội, hoại-ngữ-như-hư-không tam muội, ly trước như hư-không-bất-nhiễm tam muội.
            Này ngài Xá-Lợi-Phất! Ðại Bồ-Tát thật hành các môn tam muội trên đây cùng vô lượng vô số môn tam muội môn đà la ni đều có thể vô thượng bồ đề.
            Thuận theo ý của đức Phật, ngài Tu Bồ Ðề nói: "Nên biết rằng chư đại Bồ-Tát thật hành các tam muội này thời đã được chư Phật quá khứ thọ ký. Chư Phật hiện tại ở mười phương cũng thọ ký cho đại Bồ-Tát này.
            Chư đại Bồ-Tát này chẳng thấy chẳng nhớ những tam muội ấy, cũng chẳng nghĩ rằng tôi sẽ nhập đương nhập hay đã nhập những tam muội ấy. Chư đại Bồ-Tát này hoàn toàn không có quan niệm phân biệt.
            Ngài Xá-Lợi-Phất hỏi: "Ðại Bồ-Tát an trụ nơi những tam muội này, có phải đã được thọ ký từ chư Phật quá khứ chăng?
            Ngài Tu Bồ Ðề nói: "Không phải. Tại sao vậy? Này ngài Xá-Lợi-Phất! Bát-Nhã ba la mật chẳng khác những tam muội. Những tam muội chẳng khác Bát-Nhã ba la mật. Bồ-Tát chẳng khác Bát-Nhã ba la mật và tam muội. Bát-Nhã ba la mật và tam muội chẳng khác Bồ-Tát. Bát-Nhã ba la mật tức là tam muội. Tam muội tức là Bát-Nhã ba la mật. Bồ-Tát tức là Bát-Nhã ba la mật và tam muội. Bát-Nhã ba la mật và tam muội tức là Bồ-Tát.
            Ngài Xá-Lợi-Phất hỏi: "Nếu tam muội chẳng khác Bồ-Tát, Bồ-Tát chẳng khác tam muội, tam muội tức là Bồ-Tát. Bồ-Tát tức là tam muội, thời Bồ-Tát thế nào biết tất cả pháp là tam muội?"
            Ngài Tu Bồ-Ðề nói: "Lúc Bồ-Tát nhập tam muội này chẳng nghĩ rằng tôi dùng pháp này để nhập tam muội này. Do duyên cớ đây nên đối với các tam muội, Bồ-Tát chẳng biết chẳng nhớ.
            Ngài Xá-Lợi-Phất hỏi: "Tại sao chẳng biết chẳng nhớ?
            Ngài Tu Bồ Ðề nói: "Vì các tam muội vô sở hữu nên Bồ-Tát chẳng biết chẳng nhớ.
            Ðức Phật khen: "Lành thay, lành thay! Này Tu Bồ Ðề! Ðúng như lời của Phật từng nói ông là người thật hành vô tránh tam muội đệ nhứt được tương ứng với nghĩa này.
            Ðại Bồ-Tát phải theo nghĩa này mà học sáu ba la mật tứ niệm xứ nhẫn đến mười tám pháp bất cộng.
            Ngài Xá-Lợi-Phất thưa: "Bạch đức Thế-Tôn! Ðại Bồ-Tát học như vậy có phải là học Bát-Nhã ba la mật chăng?
            Ðức Phật nói: "Ðại Bồ-Tát học như vậy chính là học Bát-Nhã ba la mật vì pháp ấy là bất khả đắc. Cũng chính là học năm ba la mật kia cùng tứ niệm xứ nhẫn đến m ười tám pháp bất cộng, vì pháp ấy là bất khả đắc vậy.
            Ngài Xá-Lợi-Phất thưa: "Bạch đức Thế-Tôn! Ðại Bồ-Tát học Bát-Nhã ba la mật như vậy, có phải pháp ấy là bất khả đắc chăng?
            Ðức Phật nói: "Ðại Bồ-Tát học Bát-Nhã ba la mật như vậy, pháp ấy là bất khả đắc.
            Ngài Xá-Lợi-Phất thưa: "Bạch đức Thế-Tôn! Những pháp gì là bất khả đắc?
            Ðức Phật nói: "Ngã là bất khả đắc, nhẫn đến tri giả kiến giả là bất khả đắc, vì rốt ráo thanh tịnh vậy. Ngũ ấm thập nhị xứ thập bát giới là bất khả đắc, vì rốt ráo thanh tịnh như vậy. Tứ đế thập nhị nhơn duyên là bất khả đắc, vì rốt ráo thanh tịnh vậy. Dục giới sắc giới vô sắc giới là bất khả đắc vì rốt ráo thanh tịnh vậy. Tứ niệm xứ nhẫn đến mười tám pháp bất cộng là vô sở đắc, vì rốt ráo thanh tịnh vậy. Sáu ba la mật là vô sở đắc, vì rốt ráo thanh tịnh vậy. Tu Ðà Hoàn Tư Ðà Hàm A Na Hàm A La Hán Bích Chi Phật là vô sở đắc, vì rốt ráo thanh tịnh vậy.
            Ngài Xá-Lợi-Phất hỏi: "Bạch đức Thế-Tôn! Những gì là rốt ráo thanh tịnh?
            Ðức Phật nói: "Chẳng xuất chẳng sanh, không được không làm, đây gọi là rốt ráo thanh tịnh.
            - Bạch đức Thế-Tôn! Nếu đại Bồ-Tát học như vậy, đó là học những pháp gì?
            - Này Xá-Lợi-Phất! Ðại Bồ-Tát học như vậy, với các pháp, là vô sở học. Tại sao vậy? Này Xá Lợi Phất! Các pháp tướng chẳng phải như chỗ chấp trước của kẻ phàm phu.
            - Bạch đức Thế-Tôn! Các pháp thiệt tướng thế nào c ó?
            - Này Xá-Lợi-Phất! Các pháp vô sở hữu. Hữu như vậy, vô sở như vậy, nơi sự này mà chẳng biết nên gọi là vô minh.
            - Bạch đức Thế-Tôn! Những gì là vô sở hữu, nơi sự này chẳng biêt nên gọi là vô minh?
            - Này Xá-Lợi-Phất! Ngũ ấm đến thập bát giới là vô sở hữu, tứ niệm xứ đến pháp bất cộng là vô sở hữu. Tại sao vậy? Vì là nội không nhẫn đến vô pháp hữu pháp không vậy.
            Ở trong đây, vì sức vô minh làm cho khát ái nên kẻ phàm phu vọng thấy phân biệt. Ðây gọi là vô minh. Kẻ phàm phu này bị nhị biên trói buộc nên chẳng biết chẳng thấy các pháp vô sở hữu. Do đây mà nhớ tưởng phân biệt chấp trước nơi sắc nhẫn đến pháp bất cộng.
            Nơi pháp vô sở hữu, vì chấp trước nên người này sanh ra sự phân biệt biết và thấy. Ðây là kẻ phàm phu chẳng biết chẳng thấy. Chẳng thấy chẳng biết những gì? Chẳng thấy chẳng biết sắc nhẫn đến chẳng thấy chẳng biết pháp bất cộng. Do cớ này mà sa vào hàng phàm phu, như trẻ nít.
            Người này chẳng ra khỏi. Chẳng ra khỏi chỗ nào? Chẳng ra khỏi dục giới sắc giới vô sắc giới, chẳng ra khỏi trong pháp của Thanh Văn Bích Chi Phật.
            Người này cũng chẳng tin. Chẳng tin những gì? Chẳng tin sắc không nhẫn dến chẳng tin pháp bất cộng không.
            Người này cũng chẳng an trụ. Chẳng an trụ nơi đâu? Chẳng an trụ nơi lục ba la mật, chẳng an trụ bực bất thối chuyển nhẫn đến chẳng an trụ pháp bất cộng.
            Do duyên cớ này mà gọi là phàm phu như trẻ nít. Cũng gọi là kẻ chấp trước. Chấp trước những gì? Chấp trước sắc nhẫn đến ý thức giới, chấp trước tham nhẫn đến tà kiến,chấp trước tứ niệm xứ nhẫn đến Phật đạo.
            - Bạch đức Thế-Tôn! Ðại Bồ-Tát học như vậy, có phải cũng là chẳng học Bát-Nhã ba la mật chẳng được nhứt thiết chủng trí chăng?
            - Này Xá-Lợi-Phất! Ðại Bồ-Tát học như vậy cũng là chẳng học Bát-Nhã ba la mật chẳng được nhứt thiết chủng trí.
            Tại sao vậy? Vì đại Bồ-Tát này không phương tiện nên nghĩ tưởng phân biệt chấp trước Bát Nhã thiền na tỳ lê gia sằn đề thi la và đàn na ba la mật, nhẫn đến phân biệt chấp trước pháp bất cộng và nhứt thiết chủng trí. Vì duyên cớ này nên đại Bồ-Tát học như vậy cũng là chẳng học Bát-Nhã ba la mật chẳng được nhứt thiết chủng trí.
            - Bạch đức Thế-Tôn! Nếu như vậy thời đại Bồ-Tát phải học Bát-Nhã ba la mật như thế nào mới là học Bát-Nhã bala mật được nhứt thiết chủng trí?
            - Này Xá-Lợi-Phất! Lúc học Bát-Nhã ba la mật, nếu đại Bồ-Tát chẳng thấy Bát-Nhã ba la mật thời là học Bát-Nhã ba la mật được nhứt thiết chủng trí, vì bất khả đắc vậy.
            - Bạch đức Thế-Tôn! Tại sao gọi là bất khả đắc?
            - Này Xá-Lợi-Phất! Vì tất cả pháp nội không nhẫn đến vô pháp hữu pháp không vậy.