Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật
QUYỂN THỨ HAI MƯƠI LĂM


Hán dịch: Pháp Sư Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Tịnh
PHẨM TAM THỨ ĐỆ HÀNH BẢY MƯƠI LĂM
 
            Lúc ấy ngài Tu Bồ Ðề bạch đức Phật:
            Bạch đức Thế-Tôn! Nếu có pháp tướng hãy còn chẳng được thuận nhẫn huống là đắc đạo.
            Bạch đức Thế-Tôn! Nếu không pháp tướng thì sẽ được thuận nhẫn chăng? Thì sẽ được các bực này chăng? hoặc càn huệ địa, hoặc tánh địa, hoặc bát nhơn địa, hoặc kiến địa, hoặc bạc địa,, hoặc  ly dục địa, hoặc dĩ biện địa,, hoặc Bích Chi Phật địa, hoặc Bồ-Tát địa, hoặc Phật địa, hoặc tu đạo, do tu đạo này sẽ dứt được phiền não chăng?  Vì những phiền não ấy nên chẳng vượt qua được bực Thanh Văn, bực Bích Chi Phật để nhập Bồ-Tát vị. Nếu chẳng nhập Bồ-Tát vị thì chẳng được Nhứt thiết chủng trí. Nếu chẳng được Nhứt thiết chủng trí thì chẳng dứt được tất cả tập khí phiền não.
            Bạch đức Thế-Tôn! Nếu không có pháp tướng thì những đạo pháp ấy chẳng phát sanh. Nếu chẳng phát sanh, những đạo pháp ấy thì chẳng thể được Nhứt thiết chủng trí.
            Ðức Phật bảo ngài Tu Bồ Ðề:
            Ðúng như vậy. Nếu người không có pháp thì có thuận nhẫn cho đến dứt tất cả tập khí phiền não.
            Bạch đức Thế-Tôn! Lúc hành Bát-Nhã ba la mật, đại Bồ-Tát có pháp tướng chăng? Ðó là tướng sắc đến tướng thức, tướng nhãn đến tướng ý, tướng sắc đến tướng  pháp, tướng nhãn giới đến tướng ý thức giới, tướng tứ niệm xứ đến tướng Nhứt thiết chủng trí, tướng sắc tướng sắc đoạn đến tướng thức tướng thức đoạn, tướng thập nhị xứ, tướng thập nhị thức đoạn, tướng thập bát giới tướng thập bát giới đoạn, thập nhị nhơn duyên tướng thập nhị nhơn duyên đoạn, tướng tham dục tướng tướng tham dục đoạn, tướng sân tướng sân đoạn, tướng si tướng si đoạn, tướng tứ đế tướng tứ đế đoạn, nhẫn đến tướng Nhứt thiết chủng trí, tướng đoạn tất cả tập khí phiền não.
            Không. Này Tu Bồ Ðề! Lúc hành Bát-Nhã ba la mật, đại Bồ-Tát không có tướng pháp và tướng phi pháp, chính đây là thuận nhẫn.
            Nếu không có tướng pháp và tướng phi pháp thì là tu đạo, là đạo quả.
            Này Tu Bồ Ðề! Nơi đại Bồ-Tát, có pháp là Bồ-Tát đạo, không pháp là Bồ-Tát quả. Vì như vậy nên phải biết tất cả pháp đều không có tánh.
            Bạch đức Thế-Tôn! Nếu tất cả pháp không c ó tánh, thì làm sao đức Phật do vì biết tất cả pháp không tánh mà được thành Phật có sức tự tại nơi tất cả pháp?
            Này Tu Bồ Ðề! Ðúng như vậy. Tất cả pháp không có tánh.
            Ngày trước lúc ta hành đạo Bồ-Tát, ta tu sáu ba la mật, lìa các ái dục, lìa các pháp ác bất thiện, có giác có quán lìa dục ái sanh hỉ lạc nhập sơ thiền, nhẫn đến nhập tứ thiền. Nơi các thiền ấy cùng những chỉ thiền, ta nắm lấy tướng của nó, ta chẳng nghĩ là có các thiền ấy, ta chẳng hưởng thọ thiền vị cũng chẳng thấy được thiền, ta hành bốn thiền mà vẫn thanh tịnh không nhiễm trước. Nnơi các thiền ấy ta chẳng nhận lấy quả báo. Y trụ nơi bốn thiền ta phát khởi năm thần thông: thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, túc mạng thông, tha tâm không và thân thông. Nơic ác thần thông ấy ta chẳng nắm lấy tướng, chẳng nghĩ là có thần thông ấy, chẳng hưởng thọ thần thông vị, chẳng thấy được thần thôong, nơi năm thần thông ấy ta chẳng phân biệt.
            Này Tu Bồ Ðề! Khi ấy ta dùng một niệm tương ưng huệ được vô thượng chánh giác, đó là khổ thánh đế, tập thánh đế, diệt thánh đế, đạo thánh đế, thành tựu mười trí lực, bốn vô úy, bốn trí vô ngại, mười tám pháp bất cộng, đại từ đại bi, được thành bực Phật biết rõ ba tụ chúng sanh: chánh định tụ, tà định tụ, và bất định tụ.
            Bạch đức Thế-Tôn! Ở trong các pháp không có tánh, làm sao đức Thế-Tôn phát khơỉ bốn thiền, năm thần thông? chúng sanh cũng không có, sao lại phân biệt làm ba tụ?
            Này Tu Bồ Ðề! Nếu các pháp dục ác bất thiện có tánh tự tánh tha thì lúc làm hạnh Bồ-Tát trước kia, ta không thể quán các pháp dục ác bất thiện là không có tánh để nhập sơ thiền.
            Bỡi các pháp dục ác bất thiện không có tánh tự tánh tha, đều là không có tánh, nên lúc làm hạnh Bồ-Tát trước kia, ta rời lìa các pháp dục ác bất thiện nhập sơ thiền nhẫn đến nhập tứ thiền.
            Này Tu Bồ Ðề! Nếu các thần thông có tánh tự tánh tha thì ta không thể biết được các thần thông là không có tánh để chứng vô thượng bồ đề.
            Bỡi các thần thông không có tánh tự tánh tha đều là không có tánh. Vì thế nên chư Phật ở nơi các thần thông biết là không có tánh mà được vô thượng bồ đề.
            Bạch đức Thế-Tôn! Nếu đại Bồ-Tát biết các pháp không có tánh, nhơn tứ thiền và ngũ thần thông mà được vô thượng bồ đề, thì hàng tân học Bồ-Tát ở trong các pháp không có tánh, sao lại thứ đệ  hành, thứ đệ học, thứ đệ đạo, rồi do thứ đệ hành, thứ đệ học và thứ đệ đạo mà được vô thượng bồ đề?
            Này Tu Bồ Ðề! Bồ-Tát lúc ban sơ hoặc từ chư Phật mà được nghe, hoặc từ nơi sự cúng dường nhiều chư Phật chư Bồ-Tát mà được nghe, hoặc từ chư A La Hán, chư A Na Hàm, chư Tư Ðà Hàm, chư Tu Ðà Hoàn mà được nghe, rằng vì được vô sở hữu nên là Phật, vì được vô sở hữu nên là A La Hán, là A Na Hàm, là Tư Ðà Hàm, là Tu Ðà Hoàn. Rằng tất cả Hiền Thánh đều vì được vô sở hữu mà có danh hiệu. Tất cả pháp hữu vi tạo tác đều không có tánh, nhẫn đến không có mảy may như chừng lông tơ.
            Bồ-Tát đó được nghe như vậy rồi nghĩ rằng nếu tất cả  pháp đều không có tánh, vì được tánh vô sở hữu nên là Phật vì được vô sở hữu tánh nên là A La Hán là A Na Hàm, là Tư Ðà Hàm, là Tu Ðà Hoàn.
            Tôi sẽ được vô thượng bồ đề nếu tôi chẳng được tất cả pháp thường, không có tánh. Tại sao tôi không phát tâm được vô thượng bồ đề!
            Tôi được vô thượng bồ đề rồi, tất cả chúng sanh đi trong hữu tướng, tôi sẽ làm cho họ an trụ trong vô sở hữu.
            Này Tu Bồ Ðề! Sau khi suy nghĩ như vậy rồi, Bồ-Tát phát tâm vô thượng bồ đề, để độ tất cả chúng sanh, chỗ làm thứ đệ hành, thứ đệ h ọc và thứ đệ đạo của Bồ-Tát đó đúng như chỗ làm của quá khứ chư Bồ-Tát được vô thượng bồ đề.
            Hàng tân học Bồ-Tát đó nên học sáu môn ba la mật: bồ thí ba la mật, trì giới ba la mật, nhẫn nhục ba la mật, tinh tiến ba la mật, thiền định ba la mật và Bát-Nhã ba lal mật.
            Bồ-tát lúc đó hành bố thí ba la mật: tự bố thí cũng dạy người bố thí, khen công đức bố thí và vui mừng ca ngợi người làm việc bố thí.
            Do nhơn duyên bố thí ấy mà Bồ-Tát được giàu có lớn. Bồ-Tát này rời xa lòng bỏn sẻn, đem đồ uống ăn, y phục, đồ nằm phòng nhà, đèn đuốc, hương hoa, chuỗi ngọc, những vật dụng sanh sống đều cung cấp cho tất cả chúng sanh.
            Bồ-Tát này hành bố thí, trì giới như vậy nên sanh trong  nhơn thiên được bực tôn qúy lớn. Do bố thí trì giới như vậy  nên được những thiền định. Do bố thí, trì giới thiền định như vậy nên được những trí huệ, những giải thoát, những giải thoát tri kiến, vượt hơn bực Thanh Văn,  Bích Chi Phật mà vào bực Bồ-Tát. Ðược vào bực Bồ-Tát rồi được tịnh Phật quốc độ. Ðược tịnh Phật quốc độ rồi được thành tựu chúng sanh. Ðược thành tựu chúng sanh rồi được Nhứt thiết chủng trí. Ðược Nhứt thiết chủng trí rồi chuyển pháp luân, đem pháp tam thừa độ chúng sanh thoát khỏi sanh tử.
            Này Tu Bồ Ðề! Bồ-Tát đem sự bố thí ấy mà thứ đệ hành, thứ đệ học, thứ đệ đạo dầu là bất khả đắc cả. tại sao? Vì tất cả pháp không có tự tánh vậy.
            Lại này Tu Bồ Ðề! Bồ-Tát từ lúc ban sơ phát tâm đến nay, tự trì giới, cũng dạy người trì giới, khen công đức trì giới, vui mừng ca ngợi người trì giới. Do nhơn duyên trì g iới nên sanh trong trời người được rất tôn qúy, thấy người  nghèo cùng ban cho của cải, thấy người chẳng trì giới dạy họ trì giới, thấy người loạn tâm dạy họ thiền định, thấy  người si mê dạy họ trí huệ, thấy người không giải thoát dạy họ giải thoát, thấy người không giải thoát tri kiến dạy họ giải thoát tri kiến. Do sự trì giới, thiền, định trí huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến nên vượt hơn bực Thanh Văn, Bích Chi Phật mà vào bực Bồ-Tát. Vào bực Bồ-Tát rồi được tịnh Phật quốc độ. Ðược tịnh Phật quốc độ rồi thành tựu chúng sanh. Thành tựu chúng sanh rồi được Nhứt thiết chủng trí. Ðược Nhứt thiết chủng trí rồi chuyển pháp luân, đem pháp ba thừa độ chúng sanh thoát khỏi sanh tử.
            Này Tu Bồ Ðề! Dùng trì giới ấy, Bồ-Tát thứ đệ hành, thứ đệ học, thứ đệ đạo như vậy, sự đó đều bất khả đắc. Tại sao? Vì tất cả pháp không có tự tánh vậy.
            Lại này Tu Bồ Ðề! Bồ-Tát từ lúc ban sơ phátt âm đến nay, tự hành nhẫn nhục, cũng dạy người nhẫn nhục, khen công đức nhẫn nhục, vui mừng ca ngợi người nhẫn nhục. Lúc hành nhẫn nhục ba la mật như vậy, Bồ-Tát bố thí cho chúng sanh được đầy đủ, dạy họ trì giới, dạy họ thiền định, dạy họ trí huệ, dạy họ giải thoát, dạy họ giải thoát tri kiến. Do nhơn duyên bố thí, trì giới, thiền định,, trí huệ như vậy nên vượt hơn bực Thanh Văn Bích Chi Phật mà vào bực Bồ-Tát. Ðược vào bực Bồ-Tát rồi được tịnh Phật quốc độ. Ðược tịnh Phật quốc độ rồi thành tựu chúng sanh. Thành tựu chúng sanh rồi được Nhứt thiết chủng trí. Ðược Nhứt thiết chủng trí rồi chuyển pháp luân đem ba thừa độ chúng sanh thoát khỏi sanh tử.
            Này Tu Bồ Ðề! Dùng nhẫn nhục ba la mật, Bồ-Tát thứ đệ hành, thứ đệ học, thứ đệ đạo như vậy. Sự đó đều bất khả đắc. Tại sao? Vì tất cả pháp không có tự tánh vậy.
            Lại này Tu Bồ Ðề! Bồ-Tát từ lúc ban sơ phát tâm đến nay, tự hành tinh tiến ba la mật, cũng dạy người tinh tiến, khen công đức tinh tiến, vui mừng ca ngợi người tinh tiến. Lúc hành tinh tiến ba la mật như vậy, Bồ-Tát bố thí cho chúng sanh được đầy đủ, dạy  họ trì giới, thiền định, trí huệ giải thoát, giải thoát tri kiến. Do nhơn duyên đó nên vượt bực Thanh Văn, Bích Chi Phật mà vào bực Bồ-Tát. Vào bực Bồ-Tát rồi được tịnh Phật quốc độ. Tịnh Phật quốc độ rồi thành tựu chúng sanh. Thành tựu chúng sanh rồi được Nhứt thiết chủng trí. Ðược Nhứt thiết chủng trí rồi chuyển pháp luân, đem pháp ba thừa giáo hóa chúng snah thoát khỏi sanh tử.
            Này Tu Bồ Ðề! Dùng tinh tiến ba la mật, Bồ-Tát thứ đệ hành thứ đệ học, thứ đệ đạo như vậy. Sự đó đều bất khả đắc. Tại sao? Vì tất cả pháp không có tự tánh vậy.
            Lại này Tu Bồ Ðề! Bồ-Tát từ lúc ban sơ pháp tâm, tự nhập thiền, tự nhâp vô lượng tâm, nhập vô sắc định cũng dạy người nhập thiền định, khen công đức nhập thiền định, vui mừng ca ngợi người nhập thiền định. Trụ những thiền định, Bồ-Tát bố thí cho chúng sanh được đầy đủ, dạy  họ trì giới, thiền định, trí huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến. Do nhơn duyên đó nên vượt bực Thanh Văn, Bích Chi Phật mà vào bực Bồ-Tát. Vào bực Bồ-Tát rồi được tịnh Phật quốc độ. Tịnh Phật quốc độ rồi thành tựu chúng sanh. Thành tựu chúng sanh rồi được Nhứt thiết chủng trí. Ðược Nhứt thiết chủng trí rồi chuyển pháp luân, đem pháp ba thừa độ chúng sanh thoát khỏi sanh tử.
            Này Tu Bồ Ðề! Dùng thiền định ba la mật, Bồ-Tát thứ đệ hành, thứ đệ học, thứ đệ đạo như vậy. Sự đó đều bất khả đắc. Tại sao? Vì tất cả pháp không có tự tánh vậy.
            Lại này Tu Bồ Ðề! Bồ-Tát từ lúc ban sơ phát tâm đến nay, tự hành Bát-Nhã ba la mật, bố thí cho chúng sanh được đầy đủ, dạy họ trì giới, thiền định, trí huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến. Lúc hành Bát-Nhã ba la mật như vậy, Bồ-Tát tự hành sáu ba la mật, cũng dạy người hành sáu ba la mật, khen công đức người hành sáu, vui mừng ca ngợi người hành sáu ba la mật. Bồ-Tát do  nhơn duyên bố thí ba la mật, trì giới ba la mật, nhẫn nhục ba la mật, tinh tiến ba la mật, thiền định ba la mật, Bát-Nhã ba la mật như vậy và sức phương tiện nên vượt hơn bực Thanh Văn, Bích Chi Phật mà vào bực Bồ-Tát. Vào bực Bồ-Tát rồi được tịnh Phật quốc độ. Tịnh Phật quốc độ rồi thành tựu chúng sanh. Thành tựu chúng sanh rồi được Nhứt thiết chủng trí. Ðược Nhứt thiết chủng trí rồi chuyển pháp luân, đem pháp ba thừa độ chúng sanh thoát khỏi sanh tử.
            Này Tu Bồ Ðề! Dùng sáu ba la mật, Bồ-Tát thứ đệ hành, thứ đệ học, thứ đệ đạo như vậy. Sự đó đều bất khả đắc. Tại sao? Vì tất cả pháp đều không có tự tánh vậy.
            Ðây gọi là Bồ-Tát ban sơ phát tâm thứ đệ hành, thứ đệ học, thứ đệ đạo.
            Lại này Tu Bồ Ðề! Bồ-Tát từ lúc ban sơ phát tâm đến nay, do tâm tương ứng Nhứt thiết chủng trí, tin hiểu các pháp khôong có tánh mà tu sáu niệm. Ðó là niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Xả, và niệm Thiên.
            Thế nào là Bồ-Tát tu niệm Phật?
            Này Tu Bồ Ðề! Bồ-Tát niệm Phật chẳng lấy sắc để niệm, chẳng lấy thọ tưởng hành thức để niệm. Tại sao? Vì sắc không tự tánh, thọ tưởng  hành thức không tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh đó là vô sở hữu. Tại sao? Vì không nhớ đó là niệm Phật.
            Lại này Tu Bồ Ðề! Bồ-Tát niệm Phật chẳng lấy ba mươi hai tướng để niệm, cũng chẳng lấy thân kim sắc, chẳng lấy vầng trượng quang, chẳng lấy tám mươi tùy hình hảo để niệm. Tại sao? Vì thân Phật đó không có tự tánh. Nếu pháp không có tánh, đó là vô sở hữu. Tại sao? Vì không nhớ, đó là niệm Phật.
            Lại này Tu Bồ Ðề! Chẳng nên lấy để niệm Phật. Chẳng nên lấy những định, những huệ những giải thoát, những giải thoát tri kiến để niệm Phật. Tại sao? Vì những giới vân vân ấy không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh đó là vô sở hữu. Tại sao? Vì không nhớ, đó là niệm Phật.
            Lại này Tu Bồ Ðề! Chẳng nên lấy mười trí lực, bốn vô s ở úy, bốn vô ngại trí, mười sáu pháp bất cộng, đại từ đại bi để niệm Phật. Tại sao? Vì không tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh, đó là vô sở hữu. Tại sao? Vì không nhớ, đó là niệm Phật.
            Lại này Tu Bồ Ðề! Chẳng nên lấy mười hai nhơn duyên để niệm Phật. Tại sao? Vì pháp nhơn duyên không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh, đó là vô sở hữu. Tại sao? Vì không nhớ, đó là niệm Phật.
            Này Tu Bồ Ðề! Lúc hành Bát-Nhã ba la mật, Bồ-Tát phải nên niệm Phật như vậy.
            Ðây là Bồ-Tát ban sơ phát tâm thứ đệ hành, thứ đệ học, thứ đệ đạo.
            Bồ-Tát đó an trụ trong thứ đệ hành, thứ đệ học, thứ đệ đạo hay đầy đủ tứ niệm xứ, tứ c  hánh cần, tứ  như ý túc, ngũ căn, ngũ lựa, thất giác phần, bát thánh đạo phần, tu hành không, vô tướng vô tác tam muội nhẫn đến Nhứt thiết chủng trí vì các pháp không có tánh vậy. Bồ-Tát đó biết các pháp không có tánh, trong ấy không tánh có, không tánh không.
            Thế nào là Bồ-Tát tu niệm pháp?
            Này Tu Bồ Ðề! Lúc hành Bát-Nhã ba la mật, Bồ-Tát chẳng niệm pháp thiện, chẳng niệm pháp bất thiện, chẳng niệm pháp ký, chẳng niệm pháp vô ký, chẳng niệm pháp thế gian, chẳng niệm pháp xuất thế gian, chẳng niệm pháp tịnh, chẳng niệm pháp bất tịnh, chẳng niệm pháp thánh, chẳng niệm pháp phàm, chẳng niệm pháp hữu lậu, chẳng  niệm pháp vô lậu, chẳng niệm pháp thuộc dục giới, thuộc sắc giới, thuộc vô sắc giới, chẳng niệm pháp hữu vi, pháp vô vi. Tại sao? Vì các pháp ấy không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh, đó là vô sở hữu. Tại sao? Vì không nhớ đó là niệm Pháp. Vì học trong pháp không có tánh nên sẽ được đầy đủ  tứ niệm xứ nhẫn đến sẽ được Nhứt thiết chủng trí. Lúc Bồ-Tát này được vô thượng chánh giác, được các pháp không có tánh. Trong không có tánh ấy: chẳng phải tướng có chẳng phải tướng không.
            Bồ-Tát phải nên tu niệm pháp như vậy. Ở trong pháp ấy, nhẫn đến không có chút niệm huống là niệm Pháp.
            Thế nào là Bồ-Tát tu niệm Tăng?
            Này Tu Bồ Ðề! Bồ-Tát niệm Tăng vì pháp vô vi nên phân biệt có chúng đệ tử Phật. Trong đó nhẫn  đến không có chút niệm huống là niệm Tăng. Bồ-Tát phải nên niệm Tăng như vậy.
            Thế nào là Bồ-Tát tu niệm Giới?
            Này Tu Bồ Ðề! Bồ-Tát từ ban sơ mới phát tâm đến nay phải niệm Thánh Giới: giới không khuyết, giới không hở, giới không tì, giới không đục, giới  không tính, giới tự tại, giới của bực trí khen giới cụ túc, giới theo chánh định. Phải niệm giới đó không có tự tánh, nhẫn đến không có chút niệm huống là niệm giới.
            Thế nào là Bồ-Tát tu niệm Xả?
            Này Tu Bồ Ðề! Bồ-Tát từ ban sơ mới phát tâm đến nay phải nên niệm Xả: hoặc niệm tự xả, hoặc niệm tha xả, hoặc xả tài, hoặc xả pháp, hoặc xả phiền não, vì quán sự xả ấy không có được, nhẫn đến không có chút niệm huống là niệm xả.
            Thế nào là Bồ-Tát tu niệm Thiên?
            Này Tu Bồ Ðề! Bồ-Tát nghĩ rằng chư Thiên cõi trời Tứ Thiên Vương có tín, giới, thí, văn, huệ. Ở tại đây chết sanh về cõi trời ấy. Tôi cũng có tín, giới, thí, văn, huệ đó. Nhẫn nđến   trời Tha Hóa trời Tự Tại có những tín giới thí văn huệ. Ở tại đây chết sanh về cõi trời ấy. Tôi cũng có tín giới thí văn huệ đó. Bồ-Tát phải nên niệm trong các cõi trơì không có tự tánh, còn không có chút niệm huống là niệm Thiên.
            Bồ-Tát hành sáu niệm như vậy thì gọi là thứ đệ hành, thứ đệ học, thứ đệ đạo.
            Bạch đức Thế-Tôn! Nếu tất cả pháp không có tánh, những là niệm sắc không có tánh, thọ, tưởng, hành, thức không có tánh, nhãn đến ý, sắc đến pháp đều không có tánh, nhãn giới đến ý thức giới không có tánh, Ðàn na ba la mật đến Bát-Nhã ba la mật, nội không đến vô pháp hữu  pháp không đều không có tánh, tứ niệm xứ đến Nhứt thiết chủng trí đều không c ó tánh.
            Bạch đức Thế-Tôn! Nếu tất cả pháp không có tánh thời không đạo không trí không quả?
            Này Tu Bồ Ðề! Người thấy sắc tánh đó có thiệt chăng? Nhẫn đến Nhứt thiết chủng trí tánh đó thiệt có chăng?
            Bạch đức Thế-Tôn! Không thấy có.
            Này Tu Bồ Ðề! Ngươi chẳng thấy các pháp thiệt có, sao lại hỏi như vậy?
            Bạch đức Thế-Tôn! Nơi đây tôi không dám có nghi, mà chỉ vì đời sau những Tỳ Kheo cầu Thanh Văn, Bích Chi Phật đạo, Bồ-Tát đạo sẽ bảo rằng: nếu tất cả pháp không có tánh thì ai cấu ai tịnh, ai triền phược, ai giải thoát? Vì chẳng hiểu biết, họ có thể phá giới, phá kiến, phá oai nghi, phá tịnh mạng. Vì phá như vậy họ sẽ đọa vào ba ác đạo.
            Bạch đức Thế-Tôn! Tôi sợ đời sau sẽ có sự tệ hại như vậy nên tôi hỏi đức Phật.
            Bạch đức Thế-Tôn! Ở trong pháp không có tánh, tôi tin hiểu, không  nghi ngờ, không ăn năn.