Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật
QUYỂN THỨ HAI MƯƠI TÁM

Hán dịch: Pháp Sư Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Tịnh

PHẨM THẬT TẾ THỨ TÁM MƯƠI

          Ngài Tu Bồ Ðề bạch đức Phật:
          Bạch đức Thế-Tôn! Nếu chúng sanh rốt ráo bất khả đắc thì Bồ-Tát vì ai mà thật hành Bát-Nhã ba la mật?
          Ðức Phật bảo ngài Tu Bồ Ðề:
          Bồ-Tát vì thật tế mà hành Bát-Nhã ba la mật.
          Này Tu Bồ Ðề! Nếu thật tế cùng chúng sanh tế dị biệt thì Bồ-Tát chẳng hành Bát-Nhã ba la mật. Nhưng vì thật tế chúng sanh tế chẳng dị biệt nên đại Bồ-Tát vì lợi  ích chúng sanh mà hành Bát-Nhã ba la mật.
          Lại nữa, này Tu Bồ Ðề! Lúc hành Bát-Nhã ba la mật, đại Bồ-Tát vì chẳng phá hoại thật tế mà kiến lập chúng sanh trong thật tế.
          Bạch đức Thế-Tôn! Nếu thật tế tức là chúng sanh tế thì là Bồ-Tát kiến lập thật tế ở nơi thật tế.
          Bạch đức Thế-Tôn! Nếu kiến lập thật tế ở nơi thật tế thì là kiến lập tự tánh ở nơi tự tánh.
          Bạch đức Thế-Tôn! Chẳng được kiến lập tự tánh ở nơi tự tánh.
          Bạch đức Thế-Tôn! Tại sao lúc hành Bát-Nhã ba la mật đại Bồ-Tát kiết lập chúng sanh ở nơi thật tế?
          Này Tu Bồ Ðề! Thật tế chẳng thể kiến lập ở thật tế,, tự tánh chẳng thể lập kiện ở tự tánh.
          Nay đại Bồ-Tát lúc hành Bát-Nhã ba la mật vì sức phương tiện nên kiến lập chúng sanh ở thật tế.
          Thật tế chẳng khác chúng sanh tế. Thật tế cùng chúng sanh tế không hai không khác.
          Bạch đức Thế-Tôn! Những gì là sức phương tiện của đại Bồ-Tát? Dùng sức phương tiện ấy, đại Bồ-Tát lúc hành Bát-Nhã ba la mật kiến lập chúng sanh ở thật tế, cũng chẳng phá hoại tướng thật tế.
          Này Tu Bồ Ðề! Lúc hành Bát-Nhã ba bla mật, đại Bồ-Tát vì sức phương tiện nên kiến lập chúng sanh ở nơi bố thí. Kiến lập xong, Bồ-Tát nói bố thí rốt ráo rỗng không: bố thí như vậy trước sau chặn giữa đều rỗng không, người thí rỗng không, quả báo rỗng không, kẻ thọ nhận cũng rỗng không. Này các người! Trong thật tế, tất cả pháp ấy đều bất khả đắc. Các người chớ quan niệm bố thí khác, người thí khác, quả báo bố thí khác, kẻ thọ nhận khác. Nếu các người chẳng quan niệm dị biệt thì bố thí có thể đưa đến mùi vị cam lồ, được quả vị cam lồ. Vì bô thí như thế nên các người chớ chấp trước sắc, chớ c hấp trước thọ tưởng hành thức. Tại sao? Bố thí ấy, tướng bố thí rỗng không. Người thí, người thí rỗng không. Quả báo thí, quả báo thi 1rỗng không. Kẻ thọ nhận, kẻ thọ nhận rỗng không. Trong rỗng không mà bố thí thì bố thí bất khả đắc, người thí bất khả đắc, quả báo thí bất khả đắc, kẻ thọ nhận bất khả đắc. Tại sao? Vì các pháp ấy rốt ráo tự tánh rỗng không vậy.
          Lại nữa, này Tu Bồ Ðề! Lúc hành Bát-Nhã ba la mật, đại Bồ-Tát vì sức phương tiện nên dạy chúng sanh trì giới, bảo họ rằng các người từ bỏ sát sanh nhẫn đến trừ bỏ tà kiến. Tại sao? Vì pháp mà các người phân biệt không có tánh như vậy. Các người nên suy nghĩ kỹ: những gì là chúng sanh  mà muốn giết chết? Dùng những vật gì để giết chết? Nhẫn đến tà kiến cũng suy nghĩ kỹ như vậy.
          Này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát dùng sức phương tiện như vậy thành tựu chúng sanh.
          Ðại Bồ-Tát này liền vì chúng sanh mà nói quả báo bố thí, trì giới. Quả báo bố thí, trì giới ấy tự tánh rỗng không.
          Biết quả báo bố thí, trì giới tự tánh rỗng không rồi, trong ấy chẳng chấp trước. Vì chẳng chấp trước nên tâm chẳng tán loạn hay sanh trí huệ. Dùng trí huệ ấy diệt tất cả kiết sử phiền não nhập vô dư Niết-Bàn.
          Trên đây là pháp thế tục, chẳng phải đệ nhứt thiệt nghĩa. Tại sao? Vì trong rỗng không, không có diệt cũng không có kẻ diệt. Các pháp rốt ráo không chính đó là Niết-Bàn.
          Lại nữa, này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát thấy chúng sanh tâm phiền não giận hờn bèn dạy rằng: người lại đây! Người nên tu hạnh nhẫn nhục, làm người nhẫn nhục, người nên thích nhẫn nhục. Sân hận của người tự tánh nó rỗng không. Người nên suy nghĩ kỹ như vầy: tôi ở trong pháp nào mà giận? Ai là người giận? Người bị giận là ai? Pháp ấy đều không. Pháp tánh không ấy không có lúc nào là chẳng rỗng không. Rỗng không ấy chẳng phải do Phật, Bồ-Tát, Thanh Văn Bích Chi Phật làm ra, cũng  chẳng phải do chư Thiên hay qủy thần làm ra.
          Người nên suy nghĩ như vầy: giận ai? Ai là người giận? Những gì là sự giận? Tất cả pháp ấy tự tánh rỗng không. Pháp rỗng không không có chỗ giận.Như vậy, này Tu Bồ Ðề! Lúc hành Bát-Nhã ba la mật, đại Bồ-Tát dùng pháp nhơn duyên ấy kiến lập chúng sanh nơi tánh không, thứ lớp lần lần chỉ dạy cho họ được lợi ích vui mừng, cho họ được vô thượng bồ đề. Ðây là pháp thế tục, chẳng phải đệ nhứt thiệt nghĩa. Tại sao? Vì trong tánh không ấy không có n gười được, không có pháp được không có chỗ được.
          Này Tu Bồ Ðề! Ðó gọi là pháp thật tế tánh không.
          Ðại Bồ-Tát vì chúng sanh mà hành pháp ấy.
          Chúng sanh ấy cũng bất khả đắc. Tại sao? Vì tất cả pháp rời lìa tướng chúng sanh vậy.
          Lại nữa, này TuBồ Ðề! Lúc hành Bát-Nhã ba la mật, đại Bồ-Tát vì sức phương tiện nên thấy chúng sanh giãi đãi, dạy cho họ thân tinh tấn, tâm tinh tiến, bảo họ rằng: này các người! Trong tánh không của các pháp không có giãi đãi, không có người giãi đãi, không có sự giãi đãi, tánh của tất cả pháp này đều không, không gì vượt qua tánh không. Các người sanh thântinh tiến tâm tinh tiến. Vì ssanh pháp lành nên chớ có giãi đãi. Ðây là pháp lành: hoặc bố thí, hoặc trì giới, hoặc nhẫn nhục, hoặc tinh tiến, hoặc thiền định, hoặc trí huệ, hoặc các thiền định giải thoát tam muội, hoặc tứ niệm xứ đến bát thánh đạo, hoặc không vô tướng vô tác giải thoát môn đến mười tám pháp bất cộng. Chớ có giãi đãi.
          Này các người! Trong tánh không của tất cả pháp ấy phải biết không có tướng đối ngại. Trong pháp không đối ngại ấy, không có  người giãi đãi, không có pháp giãi đãi.
          Như vậy, này Tu Bồ Ðề! Lúc hành Bát-Nhã ba la mật, đại Bồ-Tát dạy chúng sanh cho họ an trụ tánh không, chẳng rơi vào pháp có hai. Tại sao? Vì trong tánh không ấy, không có hai, không có dị biệt vậy. Pháp không hai ấy không có chỗ chấp trước được.
          Lại nữa, này Tu Bồ Ðề! Lúc hành tánh không Bát-Nhã ba la mật, đại Bồ-Tát dạy chúng sanh cho họ tinh tiến, bảo họ rằng: này các người! Phải siêng năng tinh tiến hoặc bố thí, hoặc trì giới, hoặc nhẫn nhục, hoặc tinh tiến, hoặc thiền định, hoặc trí huệ, hoặc thiền định tam muội, hoặc tứ niệm xứ đến bát thánh đạo phần, hoặc không vô tướng vô tác giải thoát môn, hoặc Phật thập lực, hoặc tứ vô úy, hoặc tứ vô ngại trí, hoặc mười tám pháp bất cộng, hoặc đại từ, đại bi. Với các pháp ấy các người chớ quan niệm là tướng hai, cũng chớ quan niệm là tướng chẳng hai.
          Tại sao? Vì tánh các pháp ấy đều không. Pháp tánh không này, chẳng nên dùng tướng hai để quan niệm, cũng chẳng nên dùng tướng chẳng hai để quan niệm.
          Như vậy, này Tu Bồ Ðề! Lúc hành Bát-Nhã ba la mật, đại Bồ-Tát vì sức phương tiện nên thành tựu chúng sanh. Thành tựu chúng sanh xong, thứ đệ dạy họ được quả Tu Ðà Hoàn, quả Tư Ðà Hàm, quả A Na Hàm, quả A La Hán, đạo Bích Chi Phật, nhập Bồ-Tát vị, được vô thượng bồ đề.
          Lại nữa, này Tu Bồ Ðề! Lúc hành Bát-Nhã ba la mật, đại Bồ-Tát thấy chúng sanh loạn tâm bèn dùng sức phương tiện vì lợi ích chúng sanh nên bảo họ rằng: này các người! Phải tu thiền định, các người chớ sanh loạn tưởng, phải sanh nhứt tâm. Tại sao? Tánh của các pháp ấy đều là tánh không.  Trong tánh rỗng không ấy không có pháp để được, hoặc là loạn hoặc là nhứt tâm. Các người an trụ trong tam  muội ấy, chỗ có những tác nghiệp hoặc là thân, là khẩu, là ý, hoặc bố thí, trì giới, nhẫn nhục, hoặc siêng tinh tiến, hành thiền định, tu trí huệ, hoặc hành tứ niệm xứ đến bát thánh đạo phần, hoặc hành các giải thoát, các định thứ đệ,  hoặc hành Phật thập lực đến đại từ đại bi, hoặc hành ba mươi hai tướng, tám mươi tùy hình hảo, hoặc Thanh Văn đạo, hoặc Bích Chi Phật đạo, Bồ-Tát đạo, Phật đạo, hoặc quả Tu Ðà Hoàn, quả Tư Ðà Hàm, quả A Na  Hàm, quả  A La Hán, hoặc đaọ Bích Chi Phật, hoặc Nhứt thiết chủng trí, hoặc thành tựu chúng sanh, hoặc tịnh Phật quốc độ. Các người  phaỉi tùy theo sở nguyện của mình mà thật hành để được an trụ tánh không.
          Như vậy, này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát hành Bát-Nhã ba la mật dùng sức phương itện vì làm lợi  ích chúng sanh nên từ khi sơ phát tâm trọn chẳng lười bỏ, thường cầu pháp lành để lợi ích chúng sanh, từ một cõi Phật đến một cõi Phật cúng dường chư Phật,, theo chư Phật nghe pháp, bỏ thân thọ thân nhẫn đến vô thượng bồ đề trọn chẳng quên mất.
          Chư Bồ-Tát ấy thường được các Ðà La Ni, các căn đầy đủ, đó là thân căn, ngữ ăn và ý căn.
          Tại sao? Vì đại Bồ-Tát này thường tu Nhứt thiết chủng trí. Vì tu Nhứt thiết chủng  trí nên tất cả đạo hạnh đều tu, hoặc là đạo Thanh Văn, đạo Bích Chi Phật, hoặc là đạo Bồ-Tát thần thông. Lúc hành đạo thần thông, Bồ-Tát thường lợi ích chúng sanh trọn chẳng quên mất. Bồ-Tát ấy an trụ nơi báo đắc thần thông làm lợi ích chúng sanh, vào trong năm loài sanh tử mà trọn chẳng hao mất.
          Như vậy, này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát hành Bát-Nhã ba la mật an trụ tánh không dùng thiền định lợi ích chúng sanh.
          Lại nữa, này Tu Bồ Ðề!  Ðại Bồ-Tát hành Bát-Nhã ba la mật an trụ tánh không vì sức phương tiện nên lợi ích chúngsanh, bảo họ rằng: này các người! Phải quán tất cả pháp tánh khônog. Các người nên làm các nghiệp: hoặc thân nghiệp, hoặc khẩu nghiệp, hoặc ý nghiệp hướng đến mùi vị am lồ, được quả cam lồ. Trong tánh khônog không có pháp thối lui. Tại sao? Tánh không chẳng có thối lui, cũng không có người thối. Bỡi tánh không chẳng phải là pháp cũng chẳng phải là phi pháp. Ở trong pháp vô sở hữu sao lại có thối.
          Này Tu Bồ Ðề! Lúc hành Bát-Nhã ba la mật đại Bồ-Tát dạy bảo chúng sanh như vậy, thường chẳng lười bỏ.
          Bồ-Tát này tự thật hành thập thiện cũng dạy người khác làm thập thiện. Vời năm giới bát giới trai cũng vậy.
          Bồ-Tát này tự hành tứ thiền cũng dạy người khác hành tứ thiền. Thường tự hành từ bi hỉ xả, tự hành bốn định vô sắc, tự hành tứ  niệm xứ đến tám phần thánh đạo, tự hành Phật thập lực đến mười tám pháp bất cộn, đến tám mươi tùy hình hảo, cũng dạy người  khác hành từ tâm nhẫn đến hành tám mươi tùy hình hảo như vậy.
          Bồ-Tát này ở trong quả Tu Ðà Hoàn sanh trí huệ nhưng chẳng an trụ trong quả ấy, cùng người  khác được quả Tu Ðà Hoàn, nhẫn đến A La Hán cũng vậy.
          Bồ-Tát này tự ở trong đạo Bích Chi Phật sanh trí huệ nhưng chẳng an trụ trong đó cũng dạy người khác được đạo Bích Chi Phật.
          Bồ-Tát này tự mình đến  đạo vô thượng bồ đề, cũng dạy người khác đến đạo vô thượng bồ đề.
          Như vậy, này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát hành Bát-Nhã ba la mật vì sức phương tiện nên trọn chẳng lười bỏ.
          Ngài Tu Bồ Ðề bạch đức Phật:
          Bạch đức Thế-Tôn! Nếu tánh các pháp thường không. Trong tánh thường rỗng không ấy, chúng sanh bất khả đắc, pháp và phi pháp cũng bất khả đắc, thì đại Bồ-Tát thế nào cầu Nhứt thiết chủng trí?
          Ðức Phật bảo ngài Tu Bồ Ðề:
          Ðúng như vậy. Ðúng như lời ông nói tánh các pháp đều không. Trong tánh không ấy, chúng sanh bất khả đắc, pháp và phi pháp cũng bất khả đắc.
          Này Tu Bồ Ðề! Nếu tất cả pháp tánh chẳng không thì đại Bồ-Tát chẳng y cứ tánh không thành vô thượng bồ đề và vì chúng sanh nói pháp tánh không.
          Này Tu Bồ Ðề! Sắc tánh rỗng không, thọ tưởng hành thức tánh rỗng không. Lúc hành Bát-Nhã ba la mật, đại Bồ-Tát nói pháp ngũ ấm tánh không, pháp thập nhị nhập tánh không, pháp thập bát giới tánh không, pháp tứ tiền, tứ tâm, tứ vô sắc định tánh không, pháp tứ niệm xứ đến bát thánh đạo phần tánh không, pháp ba môn giải thoát,, tám bội xả, chín định thứ đệ, mười trí lực, bốn vô úy, bốn trí vô ngại, mười tám pháp bất cộng, đại từ đại bi, ba mươi  hai tướng, tám mươi tùy hình  hảo đều tánh không.
          Ðại Bồ-Tát cũng nói những pháp Tu Ðà Hoàn quả, Tư Ðà hàm quả, A Na Hàm quả, A La Hán quả, Bích Chi Phật đạo, Nhứt thiết chủng trí dứt tập chủng phiền não đều tánh không.
          Này Tu Bồ Ðề! Nếu nội không nhẫn đến vô pháp hữu pháp không mà tánh chẳng không thì phá hoại tánh không.
          Này Tu Bồ Ðề! Tánh không ấy chẳng thường chẳng đoạn. Tại sao? Vì tánh không ấy không chỗ trụ, cũng không chỗ từ đâu lại, cũng không chỗ từ đâu đi. Ðây gọi là tướng pháp trụ. Trong đây không có pháp, không có trụ, không có tán, không có tăng, không có giảm, không có sanh, không có diệt, không có cấu, không có tịnh. Ðây là các pháp tướng.
          Ðại Bồ-Tát an trụ trong các pháp tướng ấy phát tâm vô thượng bồ đề chẳng thấy pháp có chỗ phát, không có phát không có trụ. Ðây gọi là tướng pháp trụ.
          Lúc hành Bát-Nhã  ba la mật, đại Bồ-Tát ấy thấy tất cả pháp tánh không, chẳng thối chuyển vô thượng bồ đề. Tại sao? Vì Bồ-Tát ấy chẳng thấy có pháp hay chướng ngại thìở  chỗ nào mà sanh nghi. Ðây gọi là vô thượng bồ đề.
          Tánh không ấy, chẳng có chúng sanh, chẳng có ngã, ,chẳng có nhơn, chẳng có thọ, chẳng có mạng, nhẫn đến chẳng có tri giả kiến giả.
          Trong tánh không ấy, sắc bất khả đắc, thọ tưởng hànhthức bất khả đắc, nhẫn đến tám mươi tùy hình hảo bất khả đắc.
          Này Tu Bồ Ðề! Ví như đức Phật hóa làm tứ chúng: Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, rồi thường vì tứ chúng này mà thuyết pháp ngàn vạn ức kiếp chẳng dứt. Ý của ông nghĩ sao, hóa chúng ấy sẽ được quả Tu Ðà Hoàn, nhẫn đến sẽ được vô thượng bồ đề chăng?
          Bạch đức Thế-Tôn! Không. Tại sao? Vì các hóa chúng ấy không có căn bổn thiệt sự. Tất cả pháp tánh không cũng không có căn bổn thiệt sự. Thì có những chúng sanh nào được quả Tu Ðà Hoàn nhẫn đến được thọ ký vô thượng bồ đề.
          Này Tu Bồ Ðề! Cũng như vậy, đại Bồ-Tát vì chúng sanh nói pháp tánh không. Chúng sanh ấy thiệt bất khả đắc. Vì chúng sanh rơi vào trong điên đảo nên cứu vớt chúng sanh khiến họ an trụ nơi chẳng điên đảo.
          Ðiên đảo tức là không điên đảo.
          Ðiên đảo và không điên đảo đều là một tướng mà có nhiều điên đảo, có ít chẳng điên đảo.
          Trong chỗ không điên đảo thì không có ngã, không có chúng sanh, nhẫn đến không có tri giả kiến giả.
          Trong chỗ không điên đảo cũng không có sắc, không có thọo tưởng hành thức, không có mười hai nhập, nhẫn đến không có vô thượng bồ đề.
          Ðây gọi là các pháp tánh không.
          Lúc hành Bát-Nhã ba la mật, đại Bồ-Tát an trụ trong đây, ở nơi trong tướng chúng sanh điên đảo mà cứu vớt chúng sanh.
          Ðó là trong tướng không chúng sanh có chúng sanh mà cứu vớt ra. Nhẫn đến trong tướng tri giả kiến giả  mà cứu vớt ra. Ở trong tướng không sắc, thọ, tưởng, hành, thức mà cứu vớt chúng sanh. Mười hai nhập, mười tám giới nhẫn đến tất cả pháp hữu lậu cũng như vậy.
          Này Tu Bồ Ðề! Cũng có các pháp vô lậu. Ðó là tứ niệm xứ, tứ chánh cần, tứ như ý túc, ngũ căn, ngũ lực, thất giác phần, bát thánh đạo phần. Các pháp ấy đều là pháp vô lậu cũng chẳng bằng tướng đệ nhứt nghĩa.
          Tướng đệ nhứt nghĩa ấy vô tác,vô vi, vô sanh, vô tướng, vô thuyết. Ðây gọi là đệ nhứt nghĩa, cũng gọi là tánh không, cũng gọi là Phật đạo. Trong ấy chúng sanh bất khả đắc, nhẫn đến tri giả kiến giả bất khả đắc, sắc thọ tưởng hành thức bất khả đắc nhẫn đến tám mươi tùy hình hảo bất  khả đắc.
          Tại sao vậy?
          Vì đại Bồ-Tát chẳng vì đạo pháp mà cầu vô thượng bồ đề. Ðại Bồ-Tát vì chư pháp thiệt tướng tánh không mà cầu vô thượng bồ đề.
          Tánh không ấy, tiền tế hậu tế và trung tế đều tánh không. Thường là tánh không, chẳng có lúc nào chẳng là tánh rỗng không.
          Ðại Bồ-Tát hành tánh không Bát-Nhã ba la mật ấy, vì những chúng sanh chấp trước tướng chúng sanh, muốn cứu vớt họ mà cầu đạo chủng trí.
          Lúc cầu đạo chủng trí, đại Bồ-Tát thật hành khắp tất cả đạo như là Thanh Văn đạo, Bích Chi Phật đạo, Bồ-Tát đạo. Ðại Bồ-Tát ấy đầy đủ tất cả đạo cứu vớt chúng sanh ra khỏi tà tưởng chấp trước. Thanh tịnh cõi Phật xong, tùy theo thọ mạng được vô thượng bồ đề.
          Này Tu Bồ Ðề! Thuở quá khứ, đạo của chư Phật mười phương là tánh không. Thuở vị lai thuở hiện tại đạo của chư Phật mươì phương là tánh không. Rời tánh không, thế gian không có đạo, không c ó quả. Cần phải gần gũi chư Phật nghe dạy các pháp tánh không này. Hành pháp này chẳng mất Nhứt thiết chủng trí.
          Bạch đức Thế-Tôn! Rất là hi hữu. Chư đại Bồ-Tát có hành pháp tánh không ấy mà cũng chẳng phá hoại tướng tánh không. Ðó là sắc khác với tánh không, thọ tưởng, hành, thức khác với tánh không, nhẫn đến vô thượng bồ đề khác với tánh không.
          Này Tu Bồ Ðề! Sắc tức là tánh không, tánh không tức là sắc. Nhẫn đến vô thượng bồ đề tức là tánh không, tánh không tức là vô thượng bồ đề.
          Này Tu Bồ Ðề! Nếu sắc khác với tánh không, nhẫn đến vô thượng bồ đề khác với tánh không, thì đại Bồ-Tát chẳng thể được Nhứt thiết chủng trí.
          Nay sắc chẳng khác tánh không, nhẫn đến vô thượng bồ đề chẳng khác tánh không. Vì thế nên đại Bồ-Tát biết tất cả pháp tánh không, phát tâm cầu vô thượng bồ đề.
          Tại sao? Vì trong ấy không có pháp nào hoặc là thiệt hoặc là thường, chỉ vì hành phàm  phu chấp trước sắc, thọ, tưởng, hành, thức, nắm lấy tướng sắc, thọ, tưởng, hành, thức, có tâm chấp ngã trước nội pháp ngoại pháp, nên thọ lấyt hân ngũ ấm sắc, thọ, tưởng, hành, thức kế sau. Vì lẽ ấy mà chẳng thoát được sanh già bệnh chết sầu bi khổ não, qua lại năm loài.
          Vì cớ sự ấy nên đại Bồ-Tát hành Bát-Nhã ba la mật, chẳng phá hoại các tướng sắc, thọ vân vân hoặc không hoặc bất không.
          Tại sao? Vì tướng sắc tánh không chẳng phá hoại sắc, đó là sắc, là không, là thọ, tưởng, hành, thức nhẫn đếnvô thượng bồ đề cũng như vậy.
          Ví như hư không chẳng phá hoại hư không. Nội hư không chẳng phá hoại ngoại hư không, ngoại hư không chẳng phá hoại nội hư không.
          Như vậy, này Tu Bồ Ðề! Sắc chẳng phá hoaị tướng sắc không. Tướng sắc không chẳng phá hoại sắc. Tại sao? Vì hai pháp ấy không có tánh có thể có bị phá hoại, đó là không là chẳng phải không.
          Nhẫn đến vô thượng bồ đề cũng như vậy.
          Bạch đức Thế-Tôn! Nếu tất cả pháp rỗng không vô phân biệt, tại sao đại Bồ-Tát từ lúc mới phát tâm đến nay phát nguyện rằng tôi sẽ được vô thượng bồ đề?
          Bạch đức Thế-Tôn! Nếu tất cả pháp vô phân biệt, tại sao Bồ-Tát phát tâm rằng tôi sẽ được vô thượng bồ đề?
          Bạch đức Thế-Tôn! Nếu phân biệt các pháp chẳng thể được vô thượng bồ đề.
          Ðúng như vậy. Này Tu Bồ Ðề! Nếu đại Bồ-Tát hành hai tướng thì không có vô thượng bồ đề. Nếu phân biệt làm hai phần thì không có vô thượng bồ đề. Nếu chẳng hai chẳng phân biệt các pháp thì là vô thượng bồ đề.
          Bồ đề là tướng bất nhị, là tướng bất hoại.
          Này Tu Bồ Ðề! Bồ đề ấy chẳng hành trong sắc, chẳng hành trong thọ, tưởng, hành, thức. Nhẫn đến bồ đề chẳng hành trong bồ đề.
          Tại sao? Vì sắc tức là bồ đề, bồ đề tức là sắc, chẳng hai chẳng phân biệt. Nhẫn đến mười tám pháp bất cộng cũng như vậy.
          Bồ đề ấy chẳng phải vì lấy mà hành, chẳng phải vì bỏ mà hành.
          Bạch đức Thế-Tôn! Nếu đại Bồ-Tát, Bồ đề, chẳng phải vì lấy mà hành, chẳng phải vì bỏ mà hành, vậy đại Bồ-Tát, Bồ đề, chỗ nào mà hành?
          Như ý ông nghĩ sao? Như hóa nhơn của đức Phật biến hóa ra hành tại chỗ nào, là hành trong lấy, là hành trong bỏ?
          Bạch đức Thế-Tôn! Chẳng phải hành trong lấy, chẳng phải hành trong bỏ.
          Này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát, Bồ đề cũng như vậy, chẳng phải hành trong lấy, chẳng phải hảnh trong bỏ
          Này Tu Bồ Ðề! Như ý ông nghĩ sao? A La Hán trong chiêm bao, Bồ đề, hành chỗ nào? Là hành trong lấy, là hành trong bỏ?
          Bạch đức Thế-Tôn! Không. Chẳng phải hành trong lấy chẳng phải hành trong bỏ. Tại sao? Vì A La Hán rốt ráo không ngủ thì thế nào trong chiêm bao, Bồ đề là hành trong  lấy, là hành trong bỏ.
          Này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát vô thượng bồ đề cũng như vậy. Chẳng phải  hành trong lấy chẳng phải hành trong bỏ, chỗ gọi là hành trong sắc, nhẫn đến hành trong Nhứt tihết chủng trí.
          Bạch đức Thế-Tôn! Phải chăng đại Bồ-Tát chẳng  hành thập địa, chẳng hành sáu ba la mật, chẳng  hành ba mươi bảy pháp trợ đạo, chẳng hành mười tám không, chẳng hành các thiền giải thoát tam muội, chẳng hành mười trí lực, nhẫn đến chẳng hành tám mươi tùy hình hảo, trụ năm thần thông, tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sanh, được vô thượng bồ đề?
          Ðúng như vậy. Này Tu Bồ Ðề! Ðúng như lời ông nói, nay Bồ-Tát dầu Bồ đề không chỗ hành, nếu chẳng đầy đủ thập địa, sáu ba la mật, bốn thiền, bốn tâm vô lượng, bốn định vô sắc, bốn niệm xứ, nhẫn đến tám mươi tùy  hình hảo, hạnh thường xả,pháp chẳng hư cuống, pháp chẳng sai lầm, nếu chẳng đầy đủ những pháp ấy thì trọn chẳng được vô thượng bồ đề.
          Ðại Bồ-Tát ấy trụ trong tướng sắc, trụ trong tướng thọ, tưởng, hành, thức, nhẫn đến trụ trong tướng vô thượng bồ đề, có thể đầy đủ thập địa, nhẫn nđến được vô thượng bồ đề.
          Tướng ấy thường tịch diệt, không có pháp hay tăng, hay giảm, hay sanh, hay diệt, hay cấu, hay tịnh, có thể đắc đạo, có thể đắc quả.
          Vì pháp thế tục đế mà Bồ-Tát được vô thượng bồ đề chớ chẳng phải đệ nhứt thiệt nghĩa. Tại sao? Vì trong đệ nhứt nghĩa không có sắc, nhẫn đến không có vô thượng bồ đề, cũng không có người hành vô thượng bồ đề. Tất cả pháp ấy đều vì thế tục đế mà nói, chớ chẳng phải đệ nhứt nghĩa.
          Này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát từ lúc mới phát tâm đến nay hành vô thượng bồ đề, bồ đề cũng chẳng tăng thêm, chúng snah cũng chẳng giảm bớt, Bồ-Tát cũng không tăng  không giảm.
          Này Tu Bồ Ðề! Như ý ông nghĩ sao? Nếu người lúc ban dsơ đắc đạo trụ vô gián tam muội, được căn vô lậu thành tựu, hoặc quả Tu Ðà Hoàn, hoặc quả Tư Ðà Hàm, hoặc quả A Na Hàm, hoặc quả A La Hán. Lúc bấy giờ ông có sở đắc, hoặc là mộng, hoặc là tâm, hoặc là đạo, hoặc là đạo quả chăng?
          Bạch đức Thế-Tôn! Không  có chỗ được.
          Này Tu Bồ Ðề! Làm thế nào biết người được đạo A La Hán?
          Bạch đức Thế-Tôn! Vì thê 1tục đế nên phân biệt gọi là đạo A La Hán.
          Ðúng như vậy. Này Tu Bồ Ðề!  Vì thế tục đế nên gọi là Bồ-Tát, nên gọi là sắc, thọ, tưởng, hành, thức nhẫn đến Nhứt thiết chủng trí.
          Trong Bồ đề ấy không có pháp để được hoặc tăng hoặc giảm. Bỡi vì các pháp tánh không vậy.
          Các pháp tánh không còn là bất khả đắc huống là có được tâm sơ địa nhẫn đến tâm thập địa, huống là có sáu ba la mật, ba mươi bảy pháp trợ đạo nhẫn đến tất cả Phật pháp.
          Như vậy, này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát hành vô thượng bồ đề được pháp vô thượng bồ đề lợi ích chúng sanh như vậy.

 

--o0o--