Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật
QUYỂN THỨ HAI MƯƠI CHÍN

Hán dịch: Pháp Sư Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Tịnh

PHẨM BÌNH ĐẲNG THỨ TÁM MƯƠI SÁU

          Ngài Tu Bồ Ðề bạch đức Phật:
          Bạch đức Thế-Tôn! Người thấy thiệt chẳng cấu chẳng tịnh. Người thấy chẳng thiệt cũng chẳng cấu chẳng tịnh. Tại sao? Vì tất cả pháp tánh vô sở hữu.
          Bạch đức Thế-Tôn! Trong vô sở hữu không có cấu không có tịnh. Trong sở hữu cũng không có cấu không có tịnh.
          Bạch đức Thế-Tôn! Trong vô sở hữu, trong hữu usở hữu cũng không có cấu không có tịnh.
          Bạch đức Thế-Tôn! Tại sao người như thiệt ngữ chẳng cấu chẳng tịnh, người chẳng thiệt ngữ cũng chẳng cấu chẳng tịnh?
          Ðức Phật dạy:
          Này Tu Bồ Ðề! Tướng các pháp bình đẳng ấy ta nói là tịnh.
          Này Tu Bồ Ðề! Những gì là các pháp bình đẳng? Ðó là như, bất dị, bất cuống, pháp tướng, pháp tánh, pháp trụ, pháp vị, thiệt tế. Có Phật hay không Phật, pháp tánh thường trụ, đó gọi là tịnh.
          Ðây là vì thế đế mà nói, chớ chẳng phải đệ nhứt nghĩa.
          Ðệ nhứt nghĩa vượt qua tất cả ngữ ngôn, luận nghị, âm thanh.
          Bạch đức Thế-Tôn! Nếu tất cả pháp rỗng không chẳng thể nói được như mộng, như hưởng, như diệm, như ảnh, như huyễn, như hóa. Tại sao? Ðại Bồ-Tát dùng những pháp như mộng, như hưởng, như diệm, như ảnh, như huyễn, như hóa? Làm sao phát được tâm vô thượng bồ đề mà nguyện rằng: Tôi sẽ đầy đủ sáu ba la mật, tôi sẽ đầy đủ thần thông ba la mật, tôi sẽ đầy đủ trí ba la mật, tôi sẽ đầy đủ bốn thiền, bốn tâm, bốn vô sắc định, bốnniệm xứ nhẫn đến tám phần thánh đạo, tôi sẽ đầy đủ  ba giải thoát môn, tám bội xả, chín định thứ đệ, tôi sẽ đầy đủ mười trí lực nhẫn đến đầy đủ mười tám pháp bất cộng, tôi sẽ đầy đủ ba mươi hai tướng tám  mươi tùy hình hảo, tôi sẽ đầy đủ các môn Ðà la ni, các môn tam muội, tôi sẽ phóng quang minh chiếu khắp mười phương, biết tâm niệm chúng sanh thuyết pháp thích ứng?
          Này Tu Bồ Ðề! Ý ông nghĩ sao? Các pháp của ông nói có như mộng, như hưởng, như diệm, như ảnh, như huyễn như hóa chăng?
          Bạch đức Thế-Tôn! Vâng.
          Bạch đức Thế-Tôn! Nếu tất cả pháp như mộng đế như hóa, thì làm sao đại Bồ-tát hành Bát-Nhã ba la mật.
          Như mộng đến như hóa là hư vọng chẳng thiệt, chẳng nên dùng pháp hư vọng chẳng thiệt để có thể được đầy đủ Ðàn na ba la mật nhẫn đến mười tám pháp bất cộng?
          Này Tu Bồ Ðề! Ðúng như vậy. Pháp hư vọng chẳng  thiệt chẳng có thể được đầy đủ Ðàn na ba la mật nhẫn đến mười tám pháp bất cộng. Hành pháp hư vọng chẳng thiệt ấy chẳng thể được vô thượng bồ đề.
          Này Tu Bồ Ðề! Tất cả pháp ấy đều là pháp tạo tác ức tưởng tư duy. Dùng pháp tạo tác ức tưởng ntư duy ấy chẳng có thể được Nhứt thiết chủng trí.
          Này Tu Bồ Ðề! Tất cả pháp ấy có thể trợ giúp đạo phap1 mà chẳng có thể thêm íchcho quả, các pháp ấy kông có sanh, không có xuất, không có tướng.
          Từ lúc ban sơ phátt âm đến nay, đại Bồ-Tát thật hành nghiệp lành như là Bố thí ba la mật nhẫn đến Nhứt thiết chủng trí.
          Tại sao? Vì đại Bồ-Tát ấy biết các pháp như mộng nhẫn đến như hóa, các pháp như vậy chẳng có được Bố thí ba la mật nhẫn đến Nhứt thiết chủng trí, chẳng thành tựu chúng snah được, chẳng tịnh Phật quốc độ được, chẳng được vô thượng bồ đề.
          Ðại Bồ-Tát ấy thật hành nghiệp lành Bố thí ba la mật nhẫn đến Nhứt thiết chủng trí, biết như mộng nhẫn đến biết như  hóa, cũng biết tất cả chúng sanh như đi trong mộng nhẫn đến  như đi trong hóa. Ðại Bồ-Tát ấy chẳng nắm lấy Bát-Nhã ba la mật là pháp có. Do vì chẳng nắm lấy như vậy nên được Nhứt thiết chủng trí biết các  pháp như mộng, không chỗ nắm lấy được, nhẫn đến biết các pháp như hóa không chỗ nắm lấy được.
          Tại sao vậy?
          Vì Bát-Nhã ba la mật không thể nắm lấy tướng được,  Thiền ba la mật nhẫn đến mười tám pháp bất cộng chẳng thể nắm lấy tướng được.
          Ðại Bồ-Tát ấy biết tất cả  pháp là chẳng thể nắm lấy tướng được rồi phát tâm cầu vô thượng bồ đề.
          Tại sao vậy?
          Tất cả pháp chẳng thể nắm lấy tướng được, không có căn bổn định thiệt, nó như mộng  nhẫn đến như hóa.
          Dùng pháp chẳng thể nắm lấy tướng không thể được pháp chẳngthể nắm lấy tướng. Chỉ vì chúng sanh chẳng biết chẳng thấy các pháp tướng như vậy, nênđại Bồ-Tát ấy vì chúng sanh mà cầu vô thượng bồ đề!
          Từ lúc mới phát tâm đến nay, đại Bồ-Tát ấy chỗ có bố thí là vì tất cả chúng sanh, nhẫn đến chỗ có tu trí huệ đều vì tất cả chúng sanh chẳng phải vì chính thân mình.
          Cầu vô thượng bồ đề, đại Bồ-Tát chẳng vì sự khác mà chỉ vì tất cả chúng sanh.
          Lúc hành Bát-Nhã ba la mật, đại Bồ-Tát thấy chúng sanh không có chúng sanh mà trụ trong tướng chúng sanh, nhẫn đến không có trí giả không có kiến giả mà trụ trong tướng tri tướng kiến. Ðại Bồ-Tát ấy làm cho chúng sanh xa rời điên đảo, rời xa rồi an trí chúng sanh trụ trong pháp tánh cam lồ không có tướng hư vọng, đó là không có tướng chúng sanh  nhẫn đến không có tướng tri giả, tướng kiến giả.
          Lúc bấy giờ Bồ-Tát ấy đều rời bỏ tâm động, tâm có niệm, tâm hí luận mà thường  hành tâm chẳng động, tâm chẳng niệm, tâm chẳng hí luận.
          Này Tu Bồ Ðề! Do sức phương tiện như vậy, lúc hành Bát-Nhã ba la mật, đại Bồ-Tát tự mình không chỗ nắm lấy cũng dạy cho chúng sanh cho họ được không chỗ nắm lấy. Ðó là thế đế chớ chẳng phải đệ nhứt nghĩa đế.
          Bạch đức Thế-Tôn! Lúc được vô thượng bồ đề, đức Thế-Tôn được các Phật pháp, đó là do thế đế mà được, hay do đệ nhứt nghĩa đế mà được?
          Này Tu Bồ Ðề! Do vì thế đế mà nói đức Phật được pháp ấy.
          Trong pháp ấy không có pháp gì có thể gọi được là người ấy được pháp ấy.
          Tại sao ? Vì người ấy được pháp ấy là hữu sở đắc. Nếu dùng pháp nhị thì không có đạo không có quả.
          Bạch đức Thế-Tôn! Nếu hành pháp nhị thì không có đạo không có quả, còn hành pháp bất nhị thì có đạo có quả chăng?
          Này Tu Bồ Ðề! Hành pháp nhị không đạo không  quả, hành pháp bất nhị cũng không đạo không quả.
          Nếu không có pháp nhị, không có pháp bất nhị tức là đạo, tức là quả.
          Tại sao vậy?
          Dùng pháp như vậy đắc đạo đắc quả, dùng pháp như vậy chẳng đắc đạo chẳng đắc quả đó là hí luận.
          Trong các pháp bình đẳng không có hí luận. Tướng không có hí luận là các pháp bình đẳng.
          Bạch đức Thế-Tôn! Các pháp không có tánh, trong đó những gì là bình đẳng?
          Này Tu Bồ Ðề! Nếu không pháp có, không pháp không, cũng chẳng nói các pháp tướng bình đẳng, trừ bình đẳng không còn pháp nào khác rời lìa tất cả pháp tướng bình đẳng.
          Tướng bình đẳng ấy, hoặc phàm phu hoặc thánh nhơn đều không thể đi được, không thể đến được.
          Bạch đức Thế-Tôn! Cho đên đức Phật cũng chẳng thể đi chẳng thể đến ư?
          Này Tu Bồ Ðề! Các pháp bình đẳng ấy tất cả thánh nhơn đều chẳng thể đi chẳng thể đến dầu là Phật.
          Bạch đức Thế-Tôn! Ðức Phật có sức tự tại đi trong tất cả pháp, sao lại nói đức Phật chẳng thể đi cũng chẳng thể đến?
          Này Tu Bồ Ðề! Nếu các pháp bình đẳng cùng với Phật có khác nhau thì nên hỏi như vậy.
          Nay hàng phàm phu bình đẳng, các thánh nhơn Tu Ðà Hoàn, Tư Ðà Hàm, A Na Hàm, A La Hán, Bích Chi Phật, đại Bồ-Tát, chư Phật và thánh pháp đều bình đẳng, là bình đẳng duy nhứt không có hai.
          Nghĩa là hàng phàm phu ấy, Tu Ðà Hoàn nhẫn đến chư Phật ấy ở trong tất cả pháp bình đẳng ấy đều là bất khả đắc.
          Bạch đức Thế-Tôn! Nếu trong các  pháp bình đẳng đều chẳng có được phàm phu nhẫn đến Phật, thì hàng phàm phu, Tu Ðà Hoàn nhẫn đến Phật không có sai khác nhau ư?
          Này Tu Bồ Ðề! Ðúng như vậy. Trong các pháp bình đẳng không có sai khác nhau, là  phàm phu, là Tu Ðà Hoàn nhẫn đến là Phật.
          Bạch đức Thế-Tôn! Nếu không có phàm phu, Tu Ðà Hoàn nhẫn đến Phật sai khác nhau, thì làm sao phân biệt có Tam bảo xuất hiện thế gian?
          Này Tu Bồ Ðề! Ý ông nghĩ sao Phật bảo Pháp bảo và Tăng bảo cùng các pháp bình đẳng có khác nhau chăng?
          Bạch đức Thế-Tôn! Như chỗ tôi được nghe ý nghĩa từ đức Phật dạy thì Tam bảo cùng các pháp bình đẳng không khác nhau.
          Bạch đức Thế-Tôn! Phật bảo Pháp bảo và Tăng bảo ấy tức là bình đẳng, pháp ấy đều chẳng hiệp chẳng tan, không sắc không hình không đối là nhứt tướng, nghĩa là vô tướng.
          Ðức Phật có trí lực ấy có thể phân bi ệt được nơi chỗ các pháp vô tướng: là  phàm phu, là Tu Ðà Hoàn, là Tư Ðà Hàm, là A Na Hàm, là A La Hán, là Bích Chi Phật, là Bồ-Tát, là chư Phật.
          Này Tu Bồ Ðề! Ðúng như vậy. Ý ông  nghĩ sao. Nếu chư Phật được vô thượng bồ đề mà chẳng phân biệt các pháp thì sẽ biết là địa ngục, là ngạ quỷ, là súc sanh, là nhơn, là thiên, là trời Tứ thiên vương, nhẫn đến là trời Phi tưởng phi phi tưởng, là bốn niệm xứ nhẫn đến là tám phần thánh đạo, là nội không, nhẫn đến là vô pháp hữu  pháp không, là phật thập lực, nhẫn đến mười tám pháp bất cộng chăng?
          Bạch đức Thế-Tôn! Sẽ chẳng biết vậy.
          Này Tu Bồ Ðề!  Vì thế nên bni ết rằng đức Phật có đại ân lực ở trong các pháp bình đẳng chẳng động mà phân biệt các pháp.
          Bạch đức Thế-Tôn! Như đức Phật ở trong các pháp bìnhđẳng chẳng động, người  phàm phu ở trong các pháp bình đẳng cũng chẳng động, Tu Ðà Hoàn nhẫn đến Bích Chi Phật ở trong các pháp bình đẳng cũng chẳng động.
          Bạch đức Thế-Tôn! Nếu tướng các pháp bình đẳng tức là tướng người  phàm phu, tức là tướng Tu Ðà Hoàn, nhẫn đến chư Phật tức là tướng bình đẳng.
          Bạch đức Thế-Tôn! Nay các pháp đều riêng tướng. Nghĩa là tướng sắc khác, tướng thọ, tưởng, hành, thức khác, tướng nhĩ, tĩ, thiệt, thân, ý khác, tướng địa khác, tướng thủy, hỏa, phong, không thức khác, tướng tham khác, tướng sân, si khác, tướng tà kiến khác, tướng thiền khác, tướng vô lượng tâm khác, tướng v ô tướng vô sắc định khác, tướng tứ niệm xứ khác, nhẫn đến tướng bát thánh đạo phần khác, tướng Bố thí ba la mật khác,, tướng Bát-Nhã ba la mật khác, tướng ba giải tho át môn khác, tướng mười tám không khác, tướng Phật thập lực khác, tướng bốn vô úy khác, tướng bốn trí vô ngại khác, tướng mười tám pháp bất cộng khác, tánh pháp hữu vi tánh pháp vô vi khác.
          Tướng người phàm phu khác, nhẫn đến tướng Phật khác, các pháp đều riêng tướng khác như vậy, làm mthế nào lúc hành Bát-Nhã ba la mật, đại Bồ-Tát ở trong các tướng sai khác mà chẳng sanh phân biệt. Nếu chẳng sanh phân biệt thì chẳng thể  hành Bát-Nhã ba la mật. Nếu chẳng hành Bát-Nhã ba la mật thì chẳng thể từ một địa đến một địa. Nếu chẳng thể từ một địa đến một địa thì chẳng thể vào Bồ-Tát vị. Vì chẳng thể vào Bồ-Tát vị nên chẳng thể vượt qua Thanh Văn địa, Bích Chi Phật địa. Vì chẳng thể vượt qua Thanh Văn Bích Chi địa nên chẳng đầy đủ được thần thông ba la mật. Vì chẳng đầy đủ được thần thônog ba la mật nên chẳng đầy đủ được Bố thí ba la mật nhẫn đến chẳng đầy đủ Bát-Nhã ba la mật, từ một Phật quốc đến một Phật quốc cúng dường chư  Phật, ở chỗ chư Phật gieo các căn lành, dùng căn lành ấy có thể thành tựu chúng sanh tịnh Phật quốc độ.
          Này Tu Bồ Ðề! Như lời ông hỏi các tướng pháp ấy cũng là tướng người phàm phu, cũng là Tu Ðà Hoàn nhẫn đến Phật.
          Bạch đức Thế-Tôn! Các pháp ấy đều riêng tướng, nghĩa là tướng sắc khác, nhẫn đến tướng pháp hữu vi, tướng pháp vô vi khác, làm sao đại Bồ-Tát quán nhứt tướng chẳng khởi phân biệt?
          Này Tu Bồ Ðề! Ý ông nghĩ sao. Tướng sắc ấy có rỗng không chăng, nhẫn đến tướng chư Phật có rỗng không chăng?
          Bạch đức Thế-Tôn! Thiệt rỗng không.
          Này Tu Bồ Ðề! Trong rỗng không các pháp tướng riêng khác có thể có được chăng? Nghĩa là tướng sắc nhẫn đến tướng Phật.
          Bạch đức Thế-Tôn! Chẳng thể có được.
          Này Tu Bồ Ðề! Vì lẽ ấy nên phải biết rằng trong các pháp bình đẳng chẳng phải người phàm phu, cũng chẳng rời lìa người phàm phu, nhẫn đến chẳng phải Phật cũng chẳng rời lìa Phật.
          Bạch đức Thế-Tôn! Bình đẳng ấy là pháp hữu vi hay pháp vô vi?
          Này Tu Bồ Ðề! Chẳng phải pháp hữu vi, chẳng phải pháp vô vi.
          Tại sao vậy?
          Rời lìa pháp hữu vi thì chẳng có được pháp vô vi. Rời lìa pháp vô vi thì chẳng có được pháp hữu vi.
          Này Tu Bồ Ðề! Tánh hữu vi, tánh vô vi ấy, cả hai pháp ấy chẳng hiệp chẳng tan, không sắc không hình, không đối, là nhứt tướng, nghĩa là vô tướng.
          Ðức Phật cũng dùng thế đế để nói chớ chẳng phải lấy đệ nhứt nghĩa.
          Tại sao?
          Trong đệ nhứt nghĩa không có thân hành, không có khẩu hành, không có ý hành, cũng chẳng rời lìa thân khẩu ý hành mà được đệ nhứt nghĩa.
          Tướng bình đẳng của các pháp hữu vi vô vi ấy, tức là đệ nhứt nghĩa.
          Lúc hành Bát-Nhã ba la mật, đại Bồ-Tát ở trong đệ nhứt nghĩa chẳng động mà làm việc Bồ-Tát làm lợi ích cho chúng sanh.

 

--o0o--