Thư Viện Chùa Dược Sư
CÁC BÀI VIẾT VỀ VU LAN
MẸ... NHỮNG ÂM BẢN
Nguyễn Hữu Hồng Minh
--- o0o ---
 
Đỗ Trung Quân là gương mặt Đôn Kisôt poème thập kỷ tám mươi, chín mươi và cho đến bây giờ, những năm trước thềm giao thừa thế kỷ. Chưa từng có một tuyên bố về thơ, nhưng thơ ông đi qua những tuyên bố rồi rụng xuống như những cánh hoa đẹp, buồn bã trên một sân thơ có quá nhiều kẻ giành chỗ. Chưa kịp đối thoại ông đã bỏ đi. Để cho chính những kẻ đòi gây hấn với ông một sự ngẩn ngơ; và kể từ đó, trong chính họ thơ ông cũng đã có mặt. Viết về Mẹ là đề tài trung tâm kết lực mạnh mẽ của ông, đã thu hút nhiều người. Trong tác phẩm L'être et Néant (Hữu thể và vô thể) xuất bản năm 1943, J. P. Sartre có viết : "Ce qui compte dans un vase, cést le vide du milieu" tạm dịch có nghĩa là : "Điều đáng kể của chiếc lục bình chính là cái trống rỗng ở giữa". Có thể nói, cái khoảng rỗng đáng kể của chiếc lục bình ấy đôi khi là những móc xích quan trọng thầm kín để hiểu thơ của Đỗ Trung Quân. Bài thơ Mẹ ông viết khoảng giữa năm 1986. Lúc ấy mẹ ông vẫn còn sống. Tính nghịch đảo của bài thơ là ở chỗ ông viết Mẹ để sám hối, tạ tội trước mẹ cho một ngày ông biết chắc chắn rằng mình sẽ mất mẹ (?!). Một điều vô lý nhưng ngẫm kỹ lại rất có lý và hợp lý. Điều đó mở đầu một cái khoảng rỗng thường trực ở ông, và len lỏi bàng bạc trong thơ ông. Đây là một style của họ Đỗ. Đâu phải đương nhiên ông cảm thấy xa lạ trước "Những dòng sông trôi đi có trở lại bao giờ?" (Mẹ). 
Thiết nghĩ từ triết lý đảo này có thể hoài lại một cảm giác của ông, cảm giác hoang mang mà Albert Camus mô tả rất tài tình đó là nỗi cô đơn của thân phận con người, mãi mãi bị lưu đày trên quê nhà để ngóng vọng một vương quốc khải vọng nào đó (L'Exil et le Royaume). Đỗ viết : "Không đi đâu. Không viễn xứ. Mà suốt đời hoài hương" (Chân dung thơ - Nxb Trẻ 1993). Tâm trạng này cũng chính là tâm trạng của Trịnh Công Sơn : "Trong khi ta về lại nhớ ta đi... Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt" (Một cõi đi về). Đó chính là cái chông chênh của kiếp người nghệ sĩ. Như vậy giữa Mất và Tìm, sinh sôi và hòa lẫn là những phạm trù chống đối nhau nhưng đã giải quyết lẫn nhau, nương tựa vào nhau. Đó là nguyên lý hợp nhất, căn bản nhất của triết học cổ đại Ấn Độ, thần hủy diệt (Vishnu) cũng chính là gương mặt của vị thần xây dựng. Đỗ nhìn thấy trong những tháng ngày rơi rớt của mẹ lúc về chiều là bóng tà huy của những tháng ngày không còn nữa. Để ông quyết liệt chống trả với tiếng vọng khắc khoải nặng nề đến và gõ đều ký ức : "Con không đợi một ngày kia khi mẹ mất đi mới giật mình khóc lóc... Con hốt hoảng với thời gian khắc nghiệt. Chạy điên cuồng qua tuổi mẹ già nua". Con đang khóc ở tận trong tim con đây bởi con biết rồi đây con sẽ vắng mẹ. Tương tự như thế, Phạm Thế Mỹ - Nhất Hạnh nương đỡ những đứa con sớm bất hạnh ấy bằng một bông hồng cài áo, "Một bông hồng cho những ai không còn mẹ". Để chịu đựng cú huých phi thường ấy, Đỗ âm thầm xa vắng chuẩn bị. Như trước một cuộc vắng mặt dài ngày của người thân, chúng ta không thể không hoài vọng, tưởng nhớ. 
Ở đây Đỗ hoàn toàn đi ngược lại với trạng thái hư vô chủ nghĩa mà William Faulkner đã từng chỉ trích nó, khi nó tràn ngập trong văn chương. William Faulkner viết : "Sự sợ hãi, ngày nào con người hết sợ hãi thì ngày đó họ (người nghệ sĩ) sẽ lại khởi sự viết những kiệt tác, những tác phẩm ở lại lâu dài...". Sợ hãi ngày mẹ mất, sợ hãi phải đối diện những bấp bênh đang dần có mặt, đang xâm thực phần cuộc đời. Nỗi ám ảnh đó là "người xa lạ quen biết" (Biélinski) : "Anh đã bao lần dừng lại trên phố quen. Ngả nón đứng chào xe tang qua phố. Ai mất mẹ sao lòng anh hoảng sợ. Ngày tháng kia bao lâu nữa của mình ?". Sự sợ hãi bắt đầu cho một ám ảnh. Nhưng khi đã trở thành ám ảnh thì có thể không còn sợ hãi nữa. Ám ảnh gần như một sự thúc giục dốc đổ, khiến người nghệ sĩ quên mình, dấn thân vào cuộc sáng tạo. Tác phẩm ra đời là những âm bản của nỗi ám ảnh ấy. "Nghìn bài thơ chất ngập cả tâm hồn. Đau khổ - chia lìa - buồn vui - hạnh phúc". Đỗ lại phát hiện thêm khoảng rỗng thứ hai sau cái khoảng rỗng thường trực : "Ai níu nổi thời gian ? Ai níu nổi ?". Để ông bình thản nhận ra vòng tuần hoàn của cuộc sống, của vũ trụ này sống - chết, xanh non - cỗi già, tái tạo - rồi xuôi chảy mãi về một phía. Như dòng sông đã khởi nguồn tìm về biển cả. "Cuộc hành trình thầm lặng phía hoàng hôn". Cuộc hành trình phân rữa. Ông chuẩn bị vì nỗi hoang mang cực độ bởi vẻ đẹp lạnh lùng tàn nhẫn của hoa hồng cài áo. Đại văn hào H. Balsac đã không nói : "Sự đau đớn là vô cùng, sự vui mừng là hữu hạn". Bởi, trước cái chết dường như chuẩn bị rồi, cũng như chưa chuẩn bị. Một vỡ òa vượt ra khỏi những chiều kích đã định sẵn. Đỗ cứ ngỡ hình dung "xe tang qua phố" để bớt bàng hoàng, hóa ra khi chạm mặt với bàng hoàng lại càng bàng hoàng hơn. Những âm bản lại chồng lên âm bản. Đứng trên cái cheo leo, cạn hẹp của đời sống ấy, cái Tôi - bản ngã đã hóa thành cái Ta chung cho mỗi người. Từ cái Tôi cá nhân đi đến cái Ta của đồng loại : Mẹ ta tro bụi trên sông. Xuôi bèo hoa nẻo hư không mẹ về (Trắng). Cuộc hóa thân đã tới. Mẹ, khởi nguyên ra đi từ cát bụi, mẹ lại trở về với cát bụi - sự trung chuyển của cát bụi hóa kiếp. Nhìn lại quá trình chuẩn bị vì sự đi của mẹ để thấy ông bất lực không được quyền can dự gì hết. Ông bị ném trả giữa cho và nhận. Ông lưu lạc giữa bộn bề và trống trải - "Chiều hoa trắng rợn bốn bề. Trần gian thêm một kẻ về mồ côi". "Thêm một" là cách nói của im lặng mặc khải. Im lìm trong thế giới vọng tưởng. 
            Mẹ là những cánh hoa đẹp trong thơ Đỗ Trung Quân. Cánh hoa ấy về sau đã được ông hóa thành hồn quê chung của đất nước, Tổ quốc. "Quê hương mỗi người chỉ một. Như là chỉ một mẹ thôi. Quê hương nếu ai không nhớ. Sẽ không lớn nổi thành người" (Quê hương - nhạc Giáp Văn Thạch, thơ Đỗ Trung Quân) . Mỗi người chỉ có một Mẹ và tình yêu thương đó không bờ bến, không biên giới. Tất cả những dòng sông đều chảy và tất cả những dòng sông đó đều qui hợp để hướng về ngọn nguồn dâu bể. Đứng trên điểm này lại thấy thêm một khoảng rỗng lớn lao của thơ Đỗ Trung Quân. Khoảng rỗng đó nhường chỗ cho tiếng nói thời đại, dân tộc. Một khoảng rỗng để nhìn ra Mẹ trong Tổ quốc, Tổ quốc ở trong Mẹ. Nhưng tuyệt nhiên từ phía của thi sĩ, Đỗ vẫn chưa hề đối thoại gì cả. Đây chỉ là những độc thoại của một người chung cuộc. Một người có mẹ vừa qua đời từ hôm qua và hôm nay mùa Vu Lan đang tới. 
Kính dâng hương hồn Mẹ,
Thương gởi về các em 
(7-1998)
Mẹ
Thơ của Đỗ Trung Quân
Con không đợi một ngày kia khi mẹ mất đi mới giật mình khóc lóc
Những dòng sông trôi đi có trở lại bao giờ
Con hốt hoảng trước thời gian khắc nghiệt
Chạy điên cuồng qua tuổi mẹ già nua
Mỗi ngày qua con lại thấy ngẩn ngơ
Ai níu nổi thời gian ? Ai níu nổi ?
Con mỗi ngày một lớn thêm
Mẹ mỗi ngày thêm già cỗi
Cuộc hành trình thầm lặng phía hoàng hôn
Con sẽ không đợi một ngày kia có người cài lên áo cho con
Một nụ bạch hồng
Mới thảng thốt nhận ra mình mất mẹ
Mỗi ngày đi qua đang cài cho con những bông hồng
Hoa đẹp đấy - cớ sao lòng hoảng sợ ?
Ta ra đi mười năm xa vòng tay của mẹ
Sống tự do như một cánh chim bằng
Ta làm thơ cho đời và cho biết bao người con gái
Có bao giờ thơ cho mẹ ta không ?
Nghìn bài thơ chất ngập cả tâm hồn
Đau khổ - chia lìa - buồn vui - hạnh phúc
--o0o--