| 
           
      
  
           
  |               
             
               TẬP SAN DƯỢC SƯ
            
            
            
              
            
              
                
                   - 
                  
                  Vô Minh & Hành
 
                
                
                   - Thông Trí
 
                
                
                   - --o0o--
 
                
                -  
 
                
                   - 
                  
                  Vô Minh & Hành là hai trong Mười Hai Nhân Duyên, là một trong 
                  những phần giáo lý căn bản của đạo Phật. Trong phạm vi giới 
                  hạn chúng tôi không thể trình bày một giáo lý vừa sâu sắc vừa 
                  thâm diệu như vậy. Ở đây chúng tôi chỉ xin được giới thiệu một 
                  phần nhỏ nồng cốt nào đó của giáo lý duyên sanh nầy. Căn cứ 
                  theo lời dạy của Ðức Phật, Pháp Duyên Sanh không phải là một 
                  giáo lý mà chúng ta có thể lãnh hội được bằng cách tìm tòi 
                  nghiên cứu và lý luận suông, mà chúng ta cần phải có một quá 
                  trình thực nghiệm. Phải biết rằng pháp này tuy căn bản nhưng 
                  vô cùng thâm diệu, vì vậy nếu không thấu triệt và thông suốt 
                  thì chúng ta sẽ thấy thế gian tựa hồ như một cuồn chỉ rối. Và 
                  vì không thấu triệt và thông suốt giáo lý này, cho nên con 
                  người không thể vượt qua khỏi trạng thái đau khổ, và mãi mãi 
                  luân chuyển trong vòng luân hồi. Có người cho rằng giáo lý 
                  Duyên Khởi là Điểm Đầu Tiên của sự vật. Cũng có người cho rằng 
                  giáo lý Duyên Khởi phát sinh có điều kiện. Vậy bây giờ chúng 
                  ta thử tìm hiểu từng quan điểm một.
 
                
                
                   - 
                  
                  A- Khái Niệm Về Nguyên Nhân Đầu Tiên
 
                
                - 
                
                Có một số người vì không thấu hiểu được ý nghĩa thật sự của giáo 
                lý vô cùng quan trọng này, cho nên họ cứ cho rằng đây là định 
                luật nhân quả có tánh cách máy móc, tự động, hay chỉ giản dị là 
                một sự phát sanh đồng thời. Có người cũng cho rằng đây là một 
                điểm đầu tiên của muôn loài vạn vật. Lẽ tất nhiên ai cũng có 
                quyền suy nghĩ như thế, nhưng chúng ta là người khọc Phật nên 
                ghi nhận và lắng nghe lời Phật dạy:
 
                - 
                
                - Trong tư tưởng Phật Giáo không có một cái gì gọi là Nguyên 
                Nhân Ðầu Tiên, và Pháp Duyên Sanh nầy cũng không nhằm đào sâu 
                hay tìm kiếm một nguyên nhân đầu tiên. 
 
                - 
                
                Đó là lý do Ðức Phật quả quyết rằng khởi điểm đầu tiên của kiếp 
                người là một cái gì không thể quan niệm được, và tất cả những ý 
                niệm, những khảo sát, và những tranh luận về một sự vật được coi 
                là khởi điểm đầu tiên đều sai lầm.
 
                
                   - 
                  
                  Thật sự như vậy, bởi vì nếu chúng ta quả quyết phải có một 
                  nguyên nhân đầu tiên, tức nhiên chúng ta cũng phải có quyền 
                  đòi hỏi một nguyên nhân cho cái gọi là nguyên nhân đầu tiên 
                  ấy. Nói như vậy là để xác định rằng: 
 
                
                
                   - 
                  
                  - Không có gì thoát ra khỏi sự chi phối của định luật điều 
                  kiện và nguyên nhân, hay nói cách khác muốn có sự phát sanh 
                  phải có cái gì khác tạo điều kiện. 
 
                
                
                   - 
                  
                  Đây là một định luật thiên nhiên bao gồm toàn thể những gì 
                  trong thế gian, ngoại trừ những người không trông thấy, không 
                  muốn thấy, hoặc thấy rồi nhưng muốn bưng bít sự thật. Theo ông 
                  Aldous Huxley:
 
                
                - 
                
                - Những ai đã lầm lạc tin tưởng một nguyên nhân đầu tiên nhứt 
                định không bao giờ có thể trở thành một nhà khoa học. Tuy nhiên, 
                vì không biết khoa học là gì cho nên họ không biết là họ đang 
                mất một cái gì. 
 
                - 
                
                Ở phương Tây, lối giải thích các hiện tượng bằng cách qui chiếu 
                về một nguyên nhân đầu tiên quả không còn hợp thời nữa, dầu ở 
                trường hợp nào... Theo chiều hướng nầy chúng ta thấy quan niệm 
                về một tự ngã, một thần linh, một đấng tạo hóa cầm quyền thưởng 
                phạt cho những hành động thiện và ác của những gì mà chính đấng 
                tạo hóa ấy tạo nên, quả thật không có chỗ đứng trong tư tưởng 
                Phật Giáo. Sự xác định mạnh mẻ nầy rất có thể đối với những 
                người chủ trương có thần linh, tin tưởng rằng chính tạo hóa toàn 
                năng đã tạo nên chúng sanh và các diễn biến trên thế gian không 
                hài lòng. Có thể những người ấy sẽ quả quyết rằng đó là ý muốn 
                của tạo hóa, và sẽ khép vào tội bất kính đối với những ai nêu 
                lên thắc mắc về quyền lực của đấng tạo hóa mà họ tin tưởng là 
                đấng toàn năng toàn thiện. Có thể nói rằng ý niệm về thần linh 
                ấy đã bóp nghẽn tự do của những người có khuynh hướng tìm hiểu, 
                phân tách tìm kiếm tỉ mỉ, và muốn nhìn xem cái gì nằm phía sau 
                tầm thấy của cặp mắt thường, muốn tìm hiểu coi cái gì đã làm 
                chậm trễ cái tuệ giác tư duy và sự giác ngộ của chúng ta.
 
                - 
                
                Theo quan điểm của Phật Giáo chủ trương rằng mọi sự, mọi vật 
                phát sanh, không phải do một nguyên nhân duy nhất, hay không 
                nguyên nhân mà là do nhiều nguyên nhân. Cá nhân con người cũng 
                vậy, mà cả đến vũ trụ cũng vậy, tất cả đều hoàn toàn nằm trong 
                sự chi phối của định luật thiên nhiên. Định luật thiên nhiên mà 
                chúng tôi muốn nói ở đây chính là định luật nhân quả, và duyên 
                sanh, và định luật này không có khởi điểm, và cũng không có chỗ 
                tận cùng, nghĩa là chúng ta không biết nó bắt đầu từ lúc nào, và 
                chấm dứt khi nào. Bởi vì có tính cách bàn bạc, cho nên chúng ta 
                có thể đưa vào mọi khía cạnh thì chúng ta sẽ thấy: 
 
                - 
                
                - Mỗi Quả đều trở thành Nhân, và Nhân đó sanh trở nên Quả. Cứ 
                như thế diễn tiến mãi mãi triền miên. 
 
                - 
                
                Nghĩa là ngày nào mà ái dục và vô minh còn cho phép, thì nó vẫn 
                tiếp diễn không ngừng. Thí dụ:
 
                - 
                
                - Như hạt cam là nguyên nhân chánh và gần nhất của một cây cam, 
                và chính cây cam này trở lại là nguyên nhân của nhiều trái cam 
                khác cứ thế mà tiếp diễn không ngừng... 
 
                - 
                
                Quả thật không thể quan niệm được một khởi điểm khởi đầu và nơi 
                điểm chấm dứt. Không ai có thể đi ngược dòng thời gian, để phăng 
                trở lên đến điểm khởi nguyên của bất luận vật gì, dầu là khởi 
                điểm của một hột bắp đi nữa, nói chi đến nguyên nhân của loài 
                người. Ði tìm khởi điểm của một quá khứ vô thủy quả thật là vô 
                ích và vô nghĩa lý. Bởi vì đời sống không phải là một thực thể 
                trường tồn, bất di bất dịch, mà là một sự trôi chảy luôn luôn 
                tiếp diễn của những biến đổi sinh lý và tâm lý, và môi trường 
                sống chung quanh của chúng ta. Điều nầy cho phép chúng ta nói 
                rằng: 
 
                - 
                
                - Không có lý do để giả định rằng thế gian có một khởi điểm.
                
 
                - 
                
                Nếu có, thì đó là ý niệm chủ trương sự vật phải có một khởi 
                điểm, của một số cá nhân nào thôi, chứ không phải của toàn khắp, 
                cũng có thể nói thật sự đó là sự phát sanh do trí tưởng tượng 
                nghèo nàn của một số người nào đó không có tuệ giác.
 
                - 
                
                B- Sự Phát Sanh Do Điều Kiện  
 
                - 
                
                Thay vì nói về mọi sự mọi vật trong cuộc đời nầy mà có đều do 
                nguyên nhân đầu tiên, thì Ðức Phật đề cập đến sự phát sanh của 
                mọi sự mọi vật đều do điều kiện hổ tương tác dụng với nhau. 
                Nghĩa là:
 
                - 
                
                - Cái này phát sanh do cái kia tạo điều kiện. 
 
                - 
                
                Quả thật như vậy, tất cả mọi vật trong thế gian đều nằm dưới sự 
                chi phối của định luật nhân quả. Hay, nói cách khác, hành động 
                và hậu quả của hành động đều có sự hổ tương tác dụng với nhau. 
                Chúng ta không thể nghĩ đến một vật gì trong vũ trụ tự nhiên mà 
                khởi phát, mà không do một cái gì khác làm nguyên nhân hay tạo 
                điều kiện để hiện hữu. Điều nầy cho chúng ta biết rằng: 
                
 
                - 
                
                - Không có việc gì trong đời nầy gọi là sự rủi may. 
 
                - 
                
                Bởi vì mỗi diễn biến nầy đều là hậu quả của những diễn biến khác 
                xảy ra trước đó, mỗi việc xảy ra đều là hậu quả của nhiều nguyên 
                nhân trong quá khứ phối hợp lại, và nhân nào tạo thành quả nấy. 
                Luật nhân quả và luật tương đồng của vạn vật luôn luôn và ở nơi 
                nào cũng chiếm ưu thế. Phật Giáo dạy rằng: 
 
                - 
                
                - Tất cả các pháp hữu vi, tức các vật cấu tạo đều khởi sanh, 
                nhất thời tồn tại, và chấm dứt tùy thuộc những điều kiện và 
                những nguyên nhân phụ thuộc. 
 
                - 
                
                Mặc dầu là vắn tắt, nhưng những gợi ý trên là những danh từ đã 
                diễn đạt thuyết duyên sanh, hay phát sanh do điều kiện, một cách 
                rõ ràng, rành mạch, không thể lầm lẫn. Trong kinh điển có ghi 
                nhận rằng lúc Ðức Phật ngồi dưới cội bồ đề, tại Bồ Ðề Ðạo Tràng, 
                Ngài suy niệm về pháp Duyên Sanh như sau:
 
                - 
                
                a- Trong canh đầu Ðức Phật suy niệm về pháp Duyên Sanh theo 
                chiều sanh khởi của vạn pháp như sau: 
 
                - 
                
                - Khi có cái này, cái kia phát sanh. Với sự phát sanh của cái 
                này, cái kia phát sanh. 
 
                - 
                
                Tức là: 
 
                - 
                
                - Tùy thuộc nơi Vô Minh, có Hành. Tùy thuộc nơi Hành, có Thức .. 
                v.. v.. Ðó là sự phát sanh của toàn thể khối đau khổ này.
 
                - 
                
                b- Vào canh giữa của đêm ấy, Ðức Phật suy niệm về pháp Duyên 
                Sanh theo chiều chấm dứt của vạn pháp như sau: 
 
                - 
                
                - Khi cái này không có, cái kia không phát sanh. Với sự chấm dứt 
                của cái này, cái kia chấm dứt. 
 
                - 
                
                Tức là: 
 
                - 
                
                - Với sự chấm dứt rõ ràng của Vô Minh, thì Hành chấm dứt .. v.. 
                v.. Như vậy chấm dứt toàn thể khối đau khổ này.
 
                - 
                
                Cả hai yếu tố phát sanh và chấm dứt của pháp duyên sanh đều có 
                từ đầu đến cuối. Thí dụ, với sự phát sanh của Vô Minh, Hành phát 
                sanh  .. v.. v.. Với sự chấm dứt của Vô Minh, Hành chấm dứt .. 
                v.. v..
 
                
                   - 
                  
                  c- Trong canh cuối cùng, Ðức Phật suy niệm về pháp Duyên Sanh 
                  theo cả hai chiều, phát sanh và chấm dứt, của vạn pháp, như 
                  sau: 
 
                
                
                   - 
                  
                  - Khi có cái này, cái kia phát sanh. Với sự phát sanh của cái 
                  này, cái kia phát sanh. Khi cái này không có, cái kia không 
                  phát sanh. Với sự chấm dứt của cái này, cái kia chấm dứt.
                  
 
                
                
                   - 
                  
                  Tức là: 
 
                
                
                   - 
                  
                  - Tùy thuộc nơi Vô Minh, Hành phát sanh .. v.. v .. Như vậy 
                  phát sanh toàn thể khối đau khổ này. Do sự chấm dứt rõ ràng 
                  của Vô Minh, Hành chấm dứt .. v.. v.. Như vậy, chấm dứt toàn 
                  thể khối đau khổ này.
 
                
                - 
                
                Theo chiều phát sanh, pháp duyên sanh biểu hiện tiến trình của 
                sự hình thành. Nói cách khác, sự xuất hiện hay phát sanh của đau 
                khổ và tiến trình của sự hình thành ấy được tạo điều kiện hổ 
                tương với nhau để phát sanh. 
 
                - 
                
                Suy theo chiều chấm dứt, pháp Duyên Sanh đề cập một cách rất 
                minh bạch và giản dị đến sự chấm dứt tiến trình của sự thình 
                thành ấy và sự chấm dứt những điều kiện bảo tồn tiến trình ấy, 
                tức con đường tiêu trừ đau khổ. 
 
                - 
                
                Xuyên qua những lời dạy trên chúng ta thấy rõ ràng rằng pháp 
                Duyên Sanh cùng với mười hai yếu tố, là lời giáo huấn của chính 
                Ðức Thế Tôn chớ không phải là một công trình được sáng tác sau 
                nầy như có người đã lầm tưởng. Trong khi chưa thấu hiểu đầy đủ ý 
                nghĩa của pháp Mười Hai Nhân Duyên, mà vội vàng phê phán, vội 
                vàng kết luận như vậy quả thật không hợp lý.
 
                - 
                
                Bàn về giáo lý Duyên Sanh thường được giải thích bằng nhiều danh 
                từ có tính cách thực hành. Nhưng đây không phải là một giáo lý, 
                lý thuyết suông mà chúng ta có thể áp dụng vào đời sống thông 
                thường hàng ngày, mặc dầu bề ngoài pháp này có vẻ là như vậy. 
                Chỉ vì để được giản dị và vắn tắt nên lối giải thích thường phải 
                được trình bày như vậy. Nhưng những người đã từng học Phật là 
                những người đã quen thuộc giáo lý của Phật thì sẽ hiểu rằng lời 
                giáo huấn của pháp Duyên Sanh bao hàm những gì đưa đến nguyên 
                tắc căn bản của minh giác, và tuệ giác trong thiện pháp. Xuyên 
                qua giáo lý Duyên Sanh có liên quan đến tất cả sự vật trên thế 
                gian, chúng ta có thể nhận thấy phần tinh hoa trong cái nhìn của 
                Ðức Phật vào đời sống. Vậy, muốn thấu triệt chơn chánh lối giải 
                thích về thế gian của Ðức Phật, chúng ta phải thấu đạt vững vàng 
                và trọn vẹn giáo lý nồng cốt của lý Duyên Sanh. Chúng ta cũng 
                cần ghi nhận rằng giáo lý Mười Hai Nhân Duyên không phải là công 
                trình của oai lực Thần Linh, tạo nên, cho nên dầu có Ðức Phật 
                hay không, thì sự kiện:
 
                - 
                
                - Do cái này có, cái kia hình thành. 
 
                - 
                
                - Do sự phát sanh của cái này, cái kia phát sanh. 
 
                - 
                
                - Do cái này không có, cái kia không có. 
 
                - 
                
                - Do sự chấm dứt của cái này, cái kia chấm dứt...
 
                - 
                
                .... vẫn hiện hữu. Nghĩa là dầu có Đức Phật hay không thì sự 
                phát sanh do điều kiện hổ tương này tiếp diễn mãi mãi vô cùng 
                tận cũng vẫn hiện hữu, không bao giờ gián đoạn, và không bị một 
                nguyên lý hay năng lực nào từ bên ngoài kiểm soát. Nghĩa là nó 
                vẫn liên tục và trải dài từ quá khứ đến hiện tại, và từ hiện tại 
                đến tương lai.
 
                - 
                
                Ðức Phật khám phá chơn lý vĩnh cửu ấy, trước là Ngài đã tự giải 
                quyết những phứt tạp cho bản thân của Ngài, và Ngài cũng giúp 
                cho chúng ta giải quyết mọi phức tạp của đời sống, và phá tan 
                nỗi bí ẩn của kiếp nhơn sinh bằng cách làm cho chúng ta thấu 
                hiểu trọn vẹn và đầy đủ pháp Duyên Sanh, cùng với mười hai yếu 
                tố, và truyền dạy đến những ai có đủ trí sáng suốt để muốn thấy 
                ánh sáng. Ngài truyền dạy với bàn tay mở rộng ra, không giữ lại 
                điều chánh yếu nào cho Ngài cả. Do va6.y, bây giờ chúng ta hãy 
                tuần tự đề cập đến mỗi yếu tố của pháp Mười Hai Nhân Duyên là 
                mười hai vòng khoen bắt đầu từ Vô Minh và chấm dứt nơi Lão Tử, 
                cho chúng ta thấy tại sao con người, đã bị trói chặt, phải mãi 
                mãi lặn hụp trong vòng luôn hồi, từ kiếp này sang kiếp khác. 
                Hiểu được mười hai vòng khoen và sự kết cấu của nó thì chúng ta 
                có thể tiêu trừ mười hai yếu tố ấy, và như thế con người có thể 
                tự giải thoát ra khỏi mọi đau khổ và luân hồi. Ðức Phật đã chỉ 
                dạy phương cách chấm dứt cuộc lập đi lập lại triền miên ấy. 
                Chính nhờ sự cố gắng chận đứng lại bánh xe luân hồi ấy mà chúng 
                ta có thể tìm con đường thoát ra khỏi mọi rối loạn phức tạp của 
                đời sống. Câu Phật ngôn liên quan đến sự chấm dứt đau khổ được 
                trình bày như sau:
 
                - 
                
                - Do sự chấm dứt trọn vẹn Vô Minh, Hành chấm dứt,
 
                - 
                
                - Do sự chấm dứt trọn vẹn Hành, Thức chấm dứt
 
                - 
                
                .................................
 
                - 
                
                - Do sự chấm dứt trọn vẹn Hữu, Sanh chấm dứt,
 
                - 
                
                - Do sự chấm dứt trọn vẹn Sanh, Già và Chết, phiền não, ta thán, 
                đau khổ, âu sầu và tuyệt vọng cũng chấm dứt.
 
                - 
                
                Vậy, toàn thể khối đau khổ chấm dứt.
 
                - 
                
                Theo Phật Giáo, thời gian chỉ là một khái niệm, mặc dầu vậy, 
                trong ngôn ngữ thông thường, để diễn đạt chơn lý qui ước chúng 
                ta nói đến ba thời kỳ, và công thức Thập Nhị Nhân Duyên bao gồm 
                cả ba thời kỳ ấy là: Quá khứ, hiện tại, và tương lai. 
                
 
                - 
                
                Hai yếu tố đầu tiên, Vô Minh và Hành, thuộc về quá khứ. Tám yếu 
                tố kế đó, từ Thức đến Hữu, thuộc về hiện tại, và sau cùng, cặp 
                Sanh và Lão Tử, thuộc về vị lai. Trong Vòng Luân Hồi có ba nấc 
                khoen nối liền. 
 
                - 
                
                - Giữa Hành yếu tố cuối cùng của thời quá khứ 
 
                - 
                
                Và:
 
                - 
                
                - Thức, yếu tố đầu tiên trong hiện tại, có sự nối liền nhân quá 
                khứ vào quả hiện tại. Thức, Danh Sắc, Lục Căn, Xúc, và Thọ là 
                quả trong hiện tại do Vô Minh và Hành trong quá khứ tạo nên.
                
 
                - 
                
                - Do năm yếu tố Thức, Danh Sắc, Lục Căn, Xúc, và Thọ phát sanh 
                ba yếu tố kế đó là Ái, Thủ, và Hữu. 
 
                - 
                
                Ba yếu tố này tạo duyên đưa đến trong tương lai. Như vậy khoảng 
                giữa Thọ và Ái có sự nối liền khác để liên kết quả hiện tại vào 
                nhân hiện tại. Vì có Ái, Thủ và Hữu trong hiện tại, cho nên có 
                Sanh và Lão Tử trong tương lai. Do đó, giữa Hữu và Sanh có một 
                sự nối liền nữa. Ba nấc khoen nối liền này chia vòng sinh tồn 
                làm bốn chặn: 
 
                - 
                
                1-    
                Vô Minh, Hành, 
 
                - 
                
                2- Thức, Danh Sắc, Lục Căn, Xúc, Thọ, 
 
                - 
                
                3- Ái, Thủ, Hữu, 
 
                - 
                
                4- Sanh, Lão Tử.
 
                - 
                
                Trong phạm vi bài viết nầy chúng tôi chỉ đề cập đến điểm đầu 
                tiên là Vô Minh & Hành.
 
                - 
                
                I- Vô Minh 
 
                - 
                
                Vô Minh có nghĩa là si mê, là không thông suốt hay không có tri 
                kiến. Vô Minh là không có tri kiến của bậc Chánh Giác. Nói cách 
                khác, Người được coi là Vô Minh là người không thông hiểu Bốn 
                Diệu Ðế, không thông hiểu Mười Hai Nhân Duyên. Do sự không thông 
                suốt như vậy cho nên người vô minh thường hay duy trì những quan 
                kiến sai lầm của họ chẳng hạn như:
 
                - 
                
                - Vô thường mà cứ cho là vĩnh cửu trường tồn, 
 
                - 
                
                - Đau khổ phiền muộn mà xem đau khổ là an lạc hạnh phúc, 
                
 
                - 
                
                - Vô ngã mà cứ cho là linh hồn trường cửu, 
 
                - 
                
                - Không có thần linh tạo hóa mà cho rằng có, 
 
                - 
                
                - Ô nhiễm mà cứ thấy là thanh tịnh. 
 
                - 
                
                Người vô minh là người không nhận ra được bản chất kết hợp của 
                năm uẩn hay tâm và thân, danh và sắc. Vô Minh hay si mê, ảo 
                kiến, là một trong những căn nguyên sanh ra tất cả mọi ô nhiễm, 
                tất cả hành động không lương thiện. Tất cả những ý niệm sai lầm 
                có thể quan niệm được đều là hậu quả của Vô Minh. Không thể có 
                hành động nào, dầu biểu lộ dưới hình thức tư tưởng, lời nói, hay 
                việc làm của: Thân, miệng, ý mà không tùy thuộc, và không phát 
                sanh do Vô Minh. Vì lẽ ấy Vô Minh được kể là vòng khoen đầu tiên 
                của sợi lòi tói Mười Hai Nhân Duyên. Tuy nhiên, Vô Minh không 
                phải là một khởi điểm đầu tiên, hay là khởi nguyên cùng tột của 
                muôn loài vạn vật. Chắc chắn nó không phải là Nguyên Nhân Ðầu 
                Tiên, vì trong tư tưởng Phật Giáo không thể có quan niệm về 
                nguyên nhân đầu tiên. Giáo lý Duyên Sanh có thể được hình dung 
                bằng một vòng tròn, bởi vì đó là sự tuần hoàn của kiếp sinh tồn. 
                Trên một vòng tròn, bất luận điểm nào cũng có thể là khởi điểm. 
                Mỗi yếu tố của vòng Mười Hai Nhân Duyên, và tất cả các yếu tố 
                ấy, đều có thể đứng chung lại bên cạnh một yếu tố khác trong 
                vòng. Do đó không có yếu tố nào tự mình đứng lẻ loi một mình và 
                tác động một cách riêng rẽ, độc lập, không tùy thuộc các yếu tố 
                khác. Tất cả đều tùy thuộc lẫn nhau và không thể tách rời nhau. 
                Không có yếu tố nào độc lập đơn độc, vì thế mà pháp duyên sanh 
                là một tiến trình liên tục, không gián đoạn. Trong tiến trình ấy 
                không có cái gì bền vững hay đứng nguyên một chỗ mà tất cả đều 
                linh động. Ðó là sự khởi phát của những điều kiện luôn luôn biến 
                đổi tùy thuộc những điều kiện khác đang dần dần tan biến. Ở đây 
                không tuyệt đối là có sự sinh tồn, cũng không hoàn toàn là không 
                có sự sinh tồn mà chỉ có những hiện tượng liên tục tiếp diễn.
 
                - 
                
                Có thể chấp nhận Vô Minh, là yếu tố đầu tiên trong chuỗi dài của 
                những yếu tố, không phải là nguyên nhân đơn độc, duy nhứt, tạo 
                điều kiện cho yếu tố thứ nhì là Hành phát sanh. Nếu có lúc chúng 
                ta thấy một cái đảnh có ba chân bằng nhau, và nâng đỡ lấy nhau 
                thì cái đảnh trên đó được ngay ngắn vững chắc. Nếu một trong ba 
                nhánh ấy bị sụm thì hai nhánh kia cũng ngả nghiêng. Cũng thế ấy, 
                những yếu tố trong Mười Hai Nhân Duyên cũng nâng đỡ lấy nhau 
                bằng nhiều cách.
 
                - 
                
                II- Hành
 
                - 
                
                Hành là hành động, tạo tác. Do Vô Minh mà phiền não nổi lên, làm 
                cho thân, miệng, ý, tạo tác ra các nghiệp lành hay dữ nên gọi là 
                Hành. Tùy thuộc Vô Minh, phát sanh ra Hành với đặc tánh đưa đến 
                tái sanh. Những vật cấu tạo và phát sanh do điều kiện tức là tất 
                cả những vật phát sanh như hậu quả của những nhân và điều kiện 
                trước đó, và tác động như nhân và điều kiện để cho quả khác phát 
                sanh sau này thì nhà Phật gọi là Hành.
 
                - 
                
                Vô Minh bắt nguồn từ bên trong con người, làm cho con người trở 
                nên mù quáng, không nhận định được hành động của mình đúng theo 
                sự thật, và do đó ái dục lôi cuốn chúng ta đến những hành động 
                mới khác nữa. Nếu không có Vô Minh thì chắc chắn không có hành 
                động tiếp theo sau đó. Không có hành động do Vô Minh tạo điều 
                kiện để khởi phát thì sẽ không có cái quả tái sanh, một khi 
                không có quả tái sanh thì toàn thể khối đau khổ sẽ chấm dứt.
                
 
                - 
                
                Như chúng tôi đã trình bày ở trên, trong hai chi đầu: Vô Minh và 
                Hành thuộc về kiếp sống quá khứ. Vì vậy nếu Hành trong sạch thì 
                có thể đưa đến kết quả là tái sanh tốt, tức là sanh vào những 
                cảnh giới thanh nhàn, an lạc. Còn nếu Hành ô nhiễm thì có thể 
                đưa đến kết quả tái sanh xấu, tức sanh vào những cảnh giới thấp 
                hèn, đau khổ. Ở đây, chúng ta nên ghi nhận rằng tất cả hành động 
                thiện và ác đều do Vô Minh tạo điều kiện để phát khởi. Ðến đây 
                một câu hỏi có thể được nêu lên:
 
                - 
                
                - Làm thế nào để biết những hành động phát sanh do Vô Minh tạo 
                điều kiện lại có thể đưa đến tái sanh tốt?
 
                - 
                
                Câu trả lời rằng những hành động phát sanh không có si mê và ái 
                dục của con người thì có thể đưa đến tái sanh tốt. Quả thật như 
                vậy, từ trạng thái của người phàm tục, nếu chúng ta biết tu tập 
                có giới đức, hoặc chúng ta đã chuẩn bị đầy đủ đạo hạnh và sẵn 
                sàng để chứng quả nhập lưu, cho đến ngay khi đạt thành đạo quả A 
                La Hán, tất cả những hành động thiện, là những hành động trong 
                đó tri kiến chiếm ưu thế không có si mê và ái dục. Như vậy hàng 
                động không có si mê và ái dục là hành động thiện, là hậu quả 
                trực tiếp của một sự hiểu biết chơn chánh. Sở dĩ có những kết 
                quả tốt đẹp như vậy không phải do vì không si mê và không ái 
                dục, mà người kia không làm những hành động sát sanh .. v.. v... 
                mà chính vì người ấy có đủ trí tuệ để thấy những hậu quả xấu của 
                hành động không lương thiện, và cũng vì người ấy có những phẩm 
                hạnh như từ bi và giới đức. Quả thật như vậy, cũng là một con 
                người như bao nhiêu con người khác, tuy nhiên có những trường 
                hợp ngoại lệ, nghĩa là chúng ta không thể hành động với tâm 
                tuyệt đối dứt khoát và hoàn toàn trí tuệ giống như chư Bồ Tát 
                hay Phật, nhưng đối với người thông minh và đức hạnh, cũng có 
                thể có một mức độ trí tuệ nào vừa thích nghi để hiểu biết cái gì 
                là tốt đẹp, và hành động nào cũng trong sạch và khôn ngoan, thì 
                cũng có thể đem lại quả lành. 
 
                - 
                
                Trên thế gian nầy, ngày nay có nhiều việc, có những người làm mà 
                không có hy vọng được tán thưởng hay công nhận, có những người 
                làm vì lòng bi mẫn hay để đem lại sự hiểu biết, hòa bình cho con 
                người và cuộc đời .. v.. v... Những việc ấy chắc chắn phải được 
                căn cứ trên đức tri kiến và hạnh dứt bỏ, có lẽ không phải theo ý 
                nghĩa đạo lý, tín điều, hay siêu hình suông mà dưới ánh sáng của 
                tư tưởng lành mạnh, tuệ giác chân chánh, không độc đoán, không 
                bị ảnh hưởng của tín điều thì cũng có thể đem lại quả lành.
                
 
                - 
                
                Sự hiện hữu của Vô Minh và Ái Dục ở bên trong một người không có 
                nghĩa là người ấy không bao giờ có thể hành động với trí tuệ và 
                với tâm dứt bỏ. Nghĩa là họ cũng có thể thực hiện những hành 
                động thiện mà không có ẩn ý mạnh mẽ ước muốn được đền đáp lại 
                trong kiếp sống này, nhưng có thể sâu ẩn trong tiềm thức vẫn có 
                sự ham muốn được tái sanh tốt đẹp, êm dịu và sâu kín, hay một 
                cảm giác nhẹ nhàng trong sự ước mong được ân thưởng về sau.
                
 
                - 
                
                Cũng có người có thể làm một điều thiện vì lòng từ bi và không 
                ẩn ý vụ lợi, nhưng trong lúc ấy, có thể người kia thiếu sự thấu 
                hiểu trọn vẹn và đầy đủ, bản chất thật sự của đời sống là vô 
                thường, khổ não và vô ngã. Sự kiện không thấu hiểu bản chất thật 
                sự của đời sống tuy không phải thô kịch và lộ liễu như tâm Si để 
                dẫn đến hành động hung bạo, nhưng cũng đưa đến hành động trong 
                sạch, tạo nghiệp lực đem lại tái sanh tốt. 
 
                - 
                
                Trong năm cảnh tái sanh, chúng ta thấy cảnh tái sanh làm con 
                người là thù thắng hơn hết. Ngoài ra các tái sanh tốt khác dầu 
                vào cảnh Trời đi nữa cũng vẫn là tạm thời, không bền vững, và 
                liền sau khi hết tuổi thọ nơi đó, có thể tiếp theo bằng một tái 
                sanh xấu, đưa vào những trạng thái bất hạnh.
 
                - 
                
                Có tính cách tản mạn hơn, chúng ta thấy sự không thấu hiểu thúc 
                đẩy và nhuộm màu hành động thiện. Như vậy người kia thực hiện 
                hành động thiện là do sự thúc đẩy của lòng ham muốn được gặt quả 
                lành trong một kiếp sống nhàn lạc ở cảnh Trời, hay cảnh người. 
                Ðó là không thấu hiểu bản chất vô thường và khổ não của mọi kiếp 
                sinh tồn trong tam giới. Sự không thấu hiểu ấy trở thành một 
                điều kiện đưa đến tái sanh tốt. Bằng cách ấy, và bằng các lối 
                khác, Vô Minh có thể tác hành như điều kiện đưa đến tái sanh tốt 
                bằng cách thúc đẩy và nhuộm màu những hành động tốt có tác ý của 
                một bản chất tại thế. Ðó là bản chất cố hữu của Vô Minh.
 
                
                   - 
                  
                  Vô Minh, hay không thấu hiểu bản chất thật sự của đời sống, 
                  trước hết là không thấu đạt Tứ Diệu Ðế. Chính vì không thông 
                  hiểu những chân lý ấy mà chúng ta cứ mãi mãi phiêu bạt trong 
                  vòng luân hồi, sanh tử triền miên, trở đi trở lại. 
                  
 
                
                - 
                
                Chỉ có hành động của người đã trọn vẹn tận diệt tất cả những 
                khuynh hướng tiềm tàng và tất cả những chi nhánh khác nhau của 
                nhân đau khổ mới không tạo nghiệp lực dẫn đến tái sanh, bởi vì 
                các hành động ấy không có năng lực tái tạo. Hạng người ấy là bậc 
                A La Hán, bậc Toàn Thiện, là hạng người mà có nhãn kiến sáng tỏ 
                và tuệ giác sâu sắc, thông suốt sâu xa vào tận thâm cung bí hiểm 
                của đời sống, là hạng người đã hoàn toàn dập tắt mọi hình thức 
                ái dục, thấu triệt bản chất thật sự của vạn pháp, nằm phía dưới 
                những lớp mặt che ở trên. Nếu chúng ta cũng làm được như thế thì 
                chúng ta đã vượt lên tất cả sắc tướng, trên tất cả mọi lầm lạc, 
                đã tuyệt đối không thể lầm lẫn. Và chỉ có tuệ giác chân chánh 
                mới đem lại được khả năng ấy, nếu chúng ta là một con người như 
                vậy, thì chúng ta đã thoát ra khỏi Vô Minh và hành động không 
                đưa đến tái sanh.
 
                - 
                
                Trong thế gian nầy không có cái gì đứng nguyên một chỗ, mà tất 
                cả đều quay cuồng theo dòng đời, không ngừng nghỉ. Chúng ta cứ 
                mãi mê đắp xây những mộng đẹp, kiến tạo những ước vọng tươi tốt 
                và thảo những kế hoạch cho ngày mai. Nhưng một ngày kia, giờ 
                phút chúng ta ra đi có thể đến một cách đột ngột, bất ngờ và 
                chấm dứt kiếp sống ngắn ngủi này, cùng với những ước vọng, những 
                mộng đẹp và những chương trình. Nhưng nếu ngày nào mà chúng ta 
                còn bám bíu vào kiếp sinh tồn vì chưa thoát ra khỏi Vô Minh, Ái 
                Dục và Thủ thì cái chết chưa phải là mức chấm dứt cuối cùng, mà 
                chúng ta còn tiếp tục mang theo gánh nặng, quay cuồng trong bánh 
                xe của đời sống, còn phải bị vướng víu, giày xéo, và tả tơi quằn 
                quại trong những cây căm của bánh xe này. Vậy, chúng ta hãy nhìn 
                vào thế gian, hãy nhìn những hạng người rất khác biệt nhau chung 
                quanh ta, nhìn những hoàn cảnh có phước và bất hạnh sai biệt rất 
                xa nhau, chúng ta sẽ thấu hiểu rằng những sự kiện ấy không thể 
                chỉ do ngẫu nhiên hay may rủi mà ra.
 
                - 
                
                Một năng lực ngoại lai hay một động lực nào từ bên ngoài, kể cả 
                những hình phạt, những việc làm dữ và ân thưởng cho những hành 
                động lành của chúng ta không thể có chỗ đứng trong tư tưởng Phật 
                Giáo. Người Phật tử không bao giờ cầu cạnh một trung gian cho dù 
                là trung gian đó có nguồn gốc đặc biệt nào, hay vái van một nhơn 
                vật bí ẩn không bao giờ được biết đến, để mong nhờ siêu thoát. 
                Ngay đến như Ðức Thế Tôn là một bậc đã giác ngộ cũng không thể 
                đem ai ra khỏi những trói buộc của vòng luân hồi. Chính trong 
                tay chúng ta có đủ khả năng uốn nắn đời sống của chúng ta. Phật 
                tử là người tin tưởng ở hiệu năng của hành động thiện và không 
                lương thiện, nghĩa là tin ở lý nghiệp báo.
 
                - 
                
                Theo giáo lý của Ðức Phật, nguyên nhân trực tiếp của mọi chênh 
                lệch, không bình đẳng của mọi khác biệt giữa những cá nhơn trong 
                đời sống, là hành động thiện và bất thiện của mỗi cá nhơn tức là 
                cái biệt nghiệp của mỗi chúng sanh trong quá khứ. Nói cách khác, 
                mỗi người chúng ta đang gặt hái những gì chính mình đã gieo 
                trồng trong quá khứ. Cũng vậy, hành động của con người ở đây 
                cũng là để xây dựng tương lai cho con người trong một ngày mai.
 
                - 
                
                Con người luôn luôn thay đổi từ tốt ra xấu, hay từ xấu ra tốt. 
                Sự biến đổi ấy là một điều tất phải có, không thể tránh, và hoàn 
                toàn tùy thuộc nơi hành động của chính con người chúng ta và 
                hoàn cảnh chung quanh chúng ta. Nếu chúng ta chỉ dừng lại trong 
                giây phút và bình tâm quan sát, vô tư suy luận, và sáng suốt tìm 
                hiểu sự vật, thì chúng ta sẽ nhận thức rằng, những khác biệt 
                cách nhau rất xa kia, hẳn không phải là công trình của một 
                nguyên lực ngoại lai hay một chúng sanh siêu việt nào, mà ở đó 
                chúng ta sẽ thấy rằng chúng ta phải gánh chịu trách nhiệm về 
                những hành động của chúng ta, và chúng ta là người tạo ra cái 
                nghiệp của chính chúng ta.
 
                - 
                
                Quả thật không thể quan niệm được một nguyên lực ngoại lai, hay 
                một chúng sanh toàn năng nào có khả năng ban bố phước lành nhiều 
                hay ít khác nhau cho những người khác nhau và đôi khi lại vồn vã 
                cho riêng đến một cá nhơn riêng biệt. Như vậy, nếu có nói thì 
                chúng ta phải nói như thế nầy:
 
                - 
                
                - Bất luận điều gì mà người kia làm, chính điều ấy sẽ trở lại. 
                Người tốt gặp điều tốt, người làm việc xấu tất nhiên phải gặp 
                xấu. Vậy, hành động của chúng ta tựa hồ như hột giống. Giống nào 
                sanh quả nấy.
 
                - 
                
                Trong chiều hướng chúng ta có thể nói: 
 
                - 
                
                - Người bần cùng, làm việc cực nhọc như nô lệ, có thể trở nên 
                một ông hoàng tử do lòng tốt xứng đáng và công đức thâu đạt. 
                Người cầm quyền cai trị thiên hạ như một vì vua, có thể rách 
                rưới lang thang, vì những việc ác đã làm và những thiện việc 
                không làm.
 
                - 
                
                Người Phật tử chúng ta không bao giờ phiền trách Ðức Phật hay 
                một chúng sanh siêu nhơn, một vị Trời, hoặc một nhơn vật quyền 
                thế nào khác đã làm cho chúng ta phải chịu đau khổ. Cũng không 
                bao giờ tán dương các Ngài vì đã ban bố phước lành mà con người 
                được thọ hưởng. Chính sự hiểu biết về nghiệp và hậu quả của 
                nghiệp, hay định luật nghiệp báo, tức định luật nhân quả trong 
                lãnh vực tinh thần đạo đức, thúc giục người Phật tử thuần thành 
                không làm điều bất thiện và cố gắng làm những việc thiện. Người 
                đã thấu hiểu nhân và quả, đã biết rõ rằng chính hành động của 
                mình đã tạo để rồi chính mình sanh đi lên các cảnh giới cõi 
                trên, hay tự chính chúng ta phải đi xuống các cảnh giới thấp kém 
                chớ không một yếu tố nào bên ngòai làm cho chúng ta khốn khổ. 
                Chúng ta cũng nên nhận thức rõ ràng rằng nguyên nhân trực tiếp 
                tạo nên mọi chênh lệch trong kiếp nhơn sinh là các hành động 
                thiện và không lương thiện khác nhau của mỗi cá nhơn trong những 
                kiếp sống quá khứ và trong kiếp hiện tại.
 
                - 
                
                Nói tóm lại Muời Hai Nhân Duyên, là một trong những phần giáo lý 
                căn bản của đạo Phật. Trong vòng luân hồi có ba nấc khoen nối 
                liền, và chia vòng sinh tồn làm bốn chặn, mà trong đó Vô Minh, 
                và Hành là hai yếu tố đầu tiên trong chuỗi dài của những yếu tố, 
                do đó chấm dứt Vô Minh & Hành thì sanh lão Tử cũng chấm dứt.
 
             
            
           
                 --o0o--
            
              
           
                 
              
              
            
             | 
   
           
               
       
       |