TẬP SAN DƯỢC SƯ

Tình Sâu Nghĩa Nặng
Nhất Quán
--o0o--

 

Trong cuộc sống hằng ngày, có nhiều người con trong gia đình viện lẽ vì lý do sinh nhai, vì ảnh hưởng cuộc sống ngoài xã hội, nhất là ảnh hưởng những khủng hoảng về kinh tế, chính trị mà lắm lúc phải lãng quên bổn phận làm con đối với cha mẹ. Bên cạnh những người con không biết ơn, nhớ ơn và đền ơn, thì trái lại chúng ta cũng còn thấy một số người con chí hiếu chí thảo, biết dàn xếp vô số công việc như: Chính trị, ngoại giao, kinh tế, xã hội, văn hóa ... để mà phụng dưỡng cha mẹ, không hề xao lãng bổn phận của một người con trong gia đình.
Việc phụng dưỡng cha mẹ trên phương diện vật chất, mà qua đó cung cách quỳ lạy và dâng cơm nước cho mẹ cha, có thể nói rằng cử chỉ đó quá giản dị. Giản dị thật, nhưng không phải ai cũng thực hiện được, vì nó phản ảnh một tấm lòng hiếu thảo được các bậc thánh hiền thường ca ngợi trong nền văn hóa cổ truyền trong truyền thống đạo đức Á Châu.
Việc dâng cơm nước cho cha mẹ thì dễ, nhưng hầu hạ với tấm lòng cung kính, thành thực, và biết ơn thì thật là hiếm có. Nhiều thanh niên thời đại đã xem cử chỉ khiêm cung đối với cha mẹ như là một cổ lệ lạc hậu, không phù hợp với cao trào tiến bộ của văn minh cơ giới. Họ sợ bạn bè cười chê khi phải quỳ lạy, chắp tay hay cúi đầu trước song thân. Ngay cả chúng ta còn nghe họ gọi cha mẹ là ông già khó tính, hay bà già trầu. Cũng lắm người khi được nuôi nấng, giáo dưỡng nên danh phận, họ không dám nhìn cha mẹ của mình, chỉ vì cha mẹ của mình xuất thân từ giai cấp nghèo hèn, thợ thuyền, quê mùa hay là người tàn tật. Một người con không hiếu kính, không biết ơn, không yêu thương cha mẹ, đối với xã hội loại người như vậy là loại người vô ân bạc nghĩa, vô lễ, ngang ngạnh và ích kỷ, nói chung là một người hư hỏng.
Trong xã hội loài người, cử chỉ hiếu kính, biết ơn và đền ơn là nền tảng của đạo học cổ truyền, là tấm gương sáng cho mọi nguời soi chung. Bởi vì:
- Cha mẹ suốt cuộc đời vất vả vì con, mười tháng mang thai, ba năm bú mớm, nuốt đắng nhả ngọt, giáo dưỡng cho con mới thành người, những mong con sau nầy nối dõi tông đường cung thừa tế tự.
Người Trung Quốc xưa nay có câu nói:
- Bách thiện hiếu vi tiên.
Nghĩa là:
- Trăm điều thiện thì đạo hiếu đứng đầu.
Đó là nói đạo hiếu của Đạo Nho, Lão. Tuy nhiên trong nền đạo học Phật Giáo, đạo hiếu phải nói là một đức hạnh rất được coi trọng. Những mỹ đức đó lâu nay do vì đã bị âu mỹ hóa, thành ra đã dần dần bị coi nhẹ, do vậy mà chúng ta không ngạc nhiên khi thấy những bậc làm cha mẹ ở Việt Nam ngày nay, hô hào khuyến khích hướng dẫn con cái noi gương theo nền đạo học cổ truyền nầy. Nói đến đây, những người tin Phật, ít nhiều đã hiểu về Phật lý, chúng ta đương nhiên không còn hoài nghi gì về việc trong đạo giải thoát tại sao lại coi trọng đạo hiếu. Quả thật như vậy, lập trường hành xử của Phật Pháp không vượt ngoài thế gian pháp, do đó không những không trái đạo hiếu, mà còn thuận hợp với chủ trương hiếu đạo một cách chân chính, triệt để. Như cổ đức đã nói:
- Ðại hiếu Thích Tôn lịch kiếp báo thân ân.
Nghĩa là:
- Ðức Thích Ca đại hiếu, hết kiếp này đến kiếp khác báo đền ơn cha mẹ.
Do vậy mà Đạo Hiếu trong Phật Pháp chủ trương phải được coi là siêu việt, không thể đặt ngang hàng với các tôn giáo hay các học thuyết khác. Chúng ta hãy thử tham khảo để coi vì sao Đạo Phật lại coi trọng bổn phận làm con phải hết lòng hiếu kính với cha mẹ. Điều nầy chúng ta chỉ cần nghĩ kỹ một tí thì sẽ biết được. Thân chúng ta mà có là do nhờ cha mẹ. Có tính cách chi tiết hơn, như chúng ta đã biết, từ một cái phôi thai trong lòng mẹ, dần dần trở thành một sinh mệnh mới, phải qua thời gian mười tháng. Trong thời gian đó, sở dĩ có thể lớn dần và trở thành sinh mệnh mới là nhờ nhựa sống nuôi dưỡng từ cơ thể của mẹ cung cấp. Nghĩa là, lúc còn trong bụng mẹ, mọi thứ ăn uống đều từ huyết dịch của mẹ. Cho dù là máu mẹ có đủ hay thiếu thì vẫn phải chia ra một phần để nuôi con, nhờ vậy mà thai nhi mới đầy đủ dinh dưỡng sống còn cho đến khi ra đời. Chính vì như vậy, mà trong thời gian một bà mẹ mang thai, bất luận trong lúc ăn uống, cũng như trong họat động nặng nhẹ, đều phải hết sức cẩn thận để bảo dưỡng an toàn cho cái thai. Sự khổ nhọc của một phụ nữ mang thai khó có thể tưởng tượng, và từ đó chúng ta thấy ơn cha mẹ đối với chúng ta như trời cao biển rộng.
Sau khi ra đời rồi, cái thân này của chúng ta lớn lên là cũng nhờ ơn cha mẹ chăm sóc nuôi nấng. Nghĩa là, mười tháng mãn kỳ thai nghén, đứa con xuất hiện trên thế gian. Người làm cha mẹ, bắt đầu giai đoạn vất vả nhọc mệt thứ hai. Trong Phật Pháp có nói đến tứ sinh hữu tình:
- Noản sanh
- Thai sanh
- Thấp sanh
- Hóa sanh.  
Tất cả bốn loài hữu tình nầy đều có quan hệ mật thiết nhất với cơ thể mẹ. Trong số bốn loại sanh nầy, chúng ta thấy nhân loại thai sinh là phụ thuộc vào mẹ rõ rệt nhất. Quả thật như vậy, các loài hữu tình thai sinh khác như: Lợn, ngựa, bò, dê ... Khi đã rời khỏi cơ thể mẹ không lâu là có thể sống độc lập được ngay, không hoàn toàn dựa vào sự săn sóc của mẹ như con người. Tuy nhiên đối với nhân loại thai sinh, không chỉ trong ba năm phải nhờ sự nuôi dưỡng bằng sữa mẹ, ngay sau khi dứt sữa, vẫn chưa thể thoát ly sự săn sóc, dưỡng dục của mẹ, qua từng ngày, từng tháng, từng năm, cho đến khi lớn lên thành người. Trong ba năm bú mớm, sữa mẹ nuôi con thực ra là tinh hoa của máu mẹ. Người làm mẹ, đem tinh hoa huyết dịch của mình nuôi con, đứa con có đủ dinh dưỡng lớn lên béo mập là trong lòng mẹ vui mà không cần đền đáp sau nầy.
Trên thế giới nầy, không một ai làm cha mẹ mà không trông mong con mình lớn lên khỏe mạnh, hoạt bát, do đó mà không có người làm mẹ nào hà tiện đối với con cái. Đối với dân tộc Á Đông, nhất là Việt Nam, dù cho là vào những ngày trời đông giá rét đến đâu, chỉ cần nghe tiếng khóc do vì đói của con, là người mẹ không cần nghĩ đến cái rét phải chịu, lập tức cởi áo cho con bú. Con đại tiện, mẹ lập tức thay tã ướt, tã bẩn bằng tã khô sạch sẽ, để tránh cho con cái khổ ướt lạnh dơ bẩn.
Sau khi con dứt sữa, phải lo cho con ăn thức ăn đặc, mẹ phải nếm trước, gặp đắng mẹ nuốt, thấy ngọt mẹ nhả ra nhường cho con ăn. Tình yêu của cha mẹ, có thể nói là không một cử chỉ nhỏ nhặt nào không thể hiện ra. Tóm lại, trong giai đoạn trẻ thơ, người mẹ không biết phải chịu bao nhiêu gian nan vất vã, gánh chịu không biết bao nhiêu kinh hãi lo âu, mà qua đó nói về đạo hiếu người xưa đã từng dạy:
- Lúc còn sơ sinh, một khắc cũng không thể rời cha mẹ. Nửa năm đầy tuổi, nhận được mặt người, thấy cha mẹ trong lòng thì vui, người khác bế đi thì khóc. Từ ba bốn tuổi đến mười bốn mười lăm tuổi, đói thì theo cha mẹ đòi ăn, rét thì theo cha mẹ đòi áo mặc. Riêng người làm cha mẹ, thấy con cười thì lòng cha mẹ vui sướng, thấy con khóc, lòng bố mẹ não phiền. Cha mẹ chưa ăn, đã lo cho con cái ăn rồi. Thấy con ốm đau, không nghĩ con yếu khó nuôi, trái lại tự trách mình nuôi con không chu đáo, thế là ngày đêm như cháy ruột cháy gan, vội vàng chạy thuốc tìm thầy. Đến khi khôn lớn thành người, thì cha mẹ tìm thầy dạy dỗ, không tiếc bạc tiền, dựng vợ gã chồng, tốn hao tiền của, chỉ mong cho con cửa nhà yên ổn, mong con lập trí thành người. Nếu như con đi xa, cha mẹ lo âu thấp thỏm, giấc ngủ không yên. Con đi sớm về khuya, thì mẹ cha tựa cửa trông ngóng.
Như vậy chúng ta thấy, người làm cha mẹ không biết trải qua bao nhiêu năm tháng khổ tâm, mệt trí để lo giáo dục, hướng dẫn cho con từng bước trở thành người. Chúng ta lớn lên ít nữa, biết được lẽ sống ở đời, học hành đổ đạt cũng nhờ cha mẹ dạy bảo dắt dìu mà nên. Đến khi con thành người rồi, cha mẹ lại trông mong con cái có thể nối được gia phong. Trong truyền thống người Việt Nam từ xưa, nề nếp nối dõi tông đường được lưu truyền từ đời này qua đời khác rất được coi trọng. Cha mẹ không những hy vọng con cái nối tiếp mình để gìn giữ gia phong, mà còn muốn cho con cái phát huy gia tộc cho càng ngày càng rạng rở thêm hơn. Đó là lý do dù cha mẹ phải chịu đủ muôn vàn cay đắng nhưng vui chấp nhận, chỉ mong con hiếu thuận nên người, để sau nầy trở thành người hữu dụng cho xã hội. Do vậy mà người xưa ví ơn đức cha mẹ với trời cao đất dày quả là không sai, cho nên làm người mà biết hiếu kính với cha mẹ là người tốt hạng nhất trong trời đất. Người nào không biết ơn của cha mẹ, thì hãy xem bổn phận của mình nuôi dạy con, thấy lòng mình muốn dạy con của mình trưởng thành thế nào thì hiểu được ý cha mẹ muốn giáo dục mình như thế đó.
Nói tóm lại, lòng cha mẹ, suốt đời mãn kiếp lo toan tính toán, lúc nào cũng vì con. Nếu dạy được nên người, thì lòng cha mẹ vui sướng, nếu chẳng may dạy chẳng nên người, thì cha mẹ buồn rầu chết không nhắm mắt. Từ trong khuynh hướng nầy là người con hiếu phải luôn luôn nhớ ơn và phải lo đền đáp công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ. Có hai phương cách người con thảo có thể thực hiện:
a- Hiếu Dưỡng Về Vật Chất:
Như chúng ta đã biết, tâm tư của người làm cha mẹ, không những mong con cái nối tiếp được gia phong mà còn mong con cái cung thừa tế tự. Cung thừa là nói khi cha mẹ còn sống, tế tự là nói khi cha mẹ đã mất. Nói cung thừa là nói đến sự phụng dưỡng cha mẹ, làm cho cha mẹ vui lòng khi còn sống. Con người giàu nghèo, sang hèn khác nhau, mỗi người con tùy sức tùy hoàn cảnh mà phụng dưỡng cha mẹ. Khi cha mẹ đói, dâng cơm nước; cha mẹ rét, dâng áo. Có thức ăn ngon, thì cho cha mẹ cùng ăn. Việc ăn uống, đạo làm con phải hết lòng dâng hiến của ngon vật lạ cho cha mẹ nếu có. Nếu là nhà giàu có, thì điều đó chắc hẳn là không khó. Nếu là nhà nghèo, sinh sống đạm bạc, thì lòng tuy là có thừa mà sức không đủ, tuy vậy dù cho là ăn cháo hay rau cũng vui. Chỉ cần có rau canh thường ngày, nhưng mặn lạt vừa phải, sống chín cho hợp vị, không nên sơ sài trong lúc phụng dưỡng cha mẹ. Có miếng gì ngon, dâng cha mẹ trước, còn mình thì thế nào cũng xong, chỉ cần cha mẹ vui lòng, thì đó là tận tâm báo hiếu.
Nói chung, khi cha mẹ về già, tỳ vị hư yếu, ăn uống khó tiêu hóa, thì đạo làm con phải biết phụng dưỡng. Nghĩa là thức ăn dâng cha mẹ phải chín phải nhừ, phải thơm ngon thì mới có bổ ích cho sức khỏe. Không nên cho cha mẹ ăn những thức ăn sống, lạnh, dai, khó tiêu hóa. Vì là lão suy khó tiêu hóa, cho nên số bữa ăn cũng phải nhiều hơn, không nên cho cha mẹ ăn nhiều một lúc quá no mà không tốt cho sức khỏe.
Đến áo mặc cũng vậy, có cái áo đẹp, nên nghĩ cha mẹ cũng có mặc. Có điều kiện nhà ở tốt, muốn cha mẹ cùng ở, có đồ dùng tốt muốn cha mẹ cùng dùng. Về mùa Đông giá lạnh, mùa Hè nóng nực đạo làm con phải sớm tối, phải thành tâm săn sóc. Mọi việc phải cẩn thận cung kính, và luôn luôn vui vẻ. Khi đến ngày lễ, ngày tết, ngày sinh nhật nếu có thể được cũng nên dùng lễ chúc mừng cho cha mẹ vui vẻ. Cha mẹ đi, đứng, nằm, ngồi phải trông nom dìu dắt, tạo điều kiện cho cha mẹ yên ổn, thoải mái, sống ngày nào vui ngày ấy. Đặc biệt khi cha mẹ ốm đau, đạo làm con phải chú ý giúp đỡ, mời thầy chạy thuốc. Về vấn đề thuốc thang, cháo cơm ăn uống nếu, điều kiện cho phép, đều phải tự tay mình làm lấy, không được sai bảo kẻ ăn người ở trong nhà mà mình không trách nhiệm, nhất thiết không thể biếng lười trễ nải. Chỉ cần nghĩ lúc chúng ta còn nhỏ dại, gặp khi ốm đau, cha mẹ đã vất vả lo cho ta như thế nào, thì ngày nay chúng ta phải tận tâm lo săn sóc như thế đó. Chỉ cần nghĩ lúc khi chúng ta còn ẵm ngửa, đái ỉa khai thối, cha mẹ vì chúng ta giặt giũ đổi thay không biết bao nhiêu lần, thì ngày nay không lý do nào chúng ta e ngại những chuyện nhỏ nhặt như vậy. Việc ăn uống, chạy chữa thuốc men cho cha mẹ, kẻ làm con phải tạc dạ ghi lòng.
Nói một cách ngắn gọn, đạo làm con, phải phụng dưỡng cho cha mẹ miếng ngon miếng ngọt, hết lòng nuôi dưỡng cha mẹ, và làm cho cha mẹ vui vẻ lúc tuổi già. Làm được như thế tức là hết lòng phụng dưỡng cha mẹ trên phương diện vật chất.
b- Hiếu Kính Trên Phương Diện Tinh Thần
Nói về hiếu kính trên phương diện tinh thần, tức là cung thừa khi còn sống, còn tế tự, tức là thờ cúng tế tự khi cha mẹ quá vãng. Chúng ta tế tự tổ tiên, với thái độ phải cung kính nghiêm túc, không được qua loa tùy tiện, mà mang tội bất kính. Làm được như vậy, thì việc tế không phụ lòng mong mỏi của cha mẹ lúc sanh tiền.
Nói tóm lại, khi cha mẹ còn sống thì lấy lễ mà phụng dưỡng; khi cha mẹ chết thì lấy lễ mà chôn cất, tế tự cho đường hoàng. Một người con hiếu thảo tiêu chuẩn, phải làm đúng như vậy.
Có người thắc mắc, là một con trong thế tục thì báo hiếu như vậy, còn nếu xuất gia thì không làm được như vậy. Như thế có phải là bất hiếu không? Câu trả lời là không. Đây là một trong những cụ thể:
a- Đi Tu Là Báo Hiếu Cha Mẹ:
Làm con, theo lẽ phải tế tự cha mẹ, tuy nhiên vì đi tu là từ bỏ cuộc sống thế tục, không thể gần gủi để phụng dưỡng cha mẹ, nhưng đạo làm con vẫn không vì thế mà từ chối trách nhiệm sinh dưỡng đối với cha mẹ. Như nói về đạo hiếu ở thế gian, là người con phải:
- Khi vào chén nước, khi ra quan tiền
Hoặc là:
- Tôm càng lột vỏ bỏ đuôi
Gạo nhe An Cựu mà nuôi mẹ già ...
Lẽ tất nhiên người xuất gia không thể thân cận dưới gối, bên giường, không thể hầu hạ cung phụng, nhưng đối với đạo hiếu xuất thế, bổn phận phải làm tròn như:
- Khuyến dẫn cha mẹ tin thờ Tam Bảo,
- Ăn chay trì giới,
- Bỏ ác hướng thiện,
- Làm cho cha mẹ từng bước đi lên chính đạo Phật pháp.
Cho nên tuy là đã lìa bỏ cha mẹ để xuất gia nhưng không vì vậy mà không còn quan hệ với cha mẹ. Trái lại, còn quan hệ và bổn phận phải nhiều hơn, có như thế cha mẹ mới được tái sinh vào chỗ thiện hoặc giả được giải thoát.
Lại như người xuất gia, nếu gia đình nghèo, cha mẹ không người phụng dưỡng, thì kẻ làm con xuất gia cũng không thể bỏ mặc cha mẹ, mà vẫn phải gánh lấy trách nhiệm phụng dưỡng. Như Ngọc Lâm quốc sư đời Thanh đã từng đón mẹ vào chùa nuôi nấng hầu hạ. Quốc Sư đã đem số tiền của cải thí chủ cúng dường cho riêng người chia làm năm phần: Một phần cúng Phật, một phần lưu thông pháp bảo, một phần phụng dưỡng mẹ già, một phần mình sử dụng và một phần để kết duyên với chúng sinh. Cho nên Phật tử xuất gia vẫn có thể hiếu kính phụng dưỡng cha mẹ. Trong Di Sa Tắc bộ ngũ phận luật, nói về ơn đức cha mẹ đối với con cái có đoạn như sau:
- Nếu có người suốt cả trăm năm gánh cha trên vai phải, gánh mẹ trên vai trái, cúng dường cha mẹ, nhưng vẫn chưa có thể đền đáp công ơn cha mẹ. Từ nay các Tỳ Khưu phải tận tâm tận thọ cung dưỡng cha mẹ. Nếu không cúng dường, là bị tội trọng. Không chỉ có thế, trong khi gánh cha mẹ trên vai, mà cha mẹ đại tiểu tiện lên vai vẫn không được tỏ một chút ngại ngần gì.
Kinh Tâm Địa Quán của Đại Thừa cũng nói:
- Nếu các Tỳ Kheo có người đặt cha trên vai trái, đặt mẹ trên vai phải cho đến muôn nghìn tuổi, chăm lo áo chăn, ăn uống, giường chiếu nằm ngồi, bệnh tật thuốc thang, thì để cha mẹ ỉa đái trên vai cũng chưa thể báo đền ơn đức. Tỳ Kheo phải biết ơn sâu của cha mẹ. Vì lẽ đó, các Tỳ Kheo nên cúng dường cha mẹ, phải luôn hiếu thuận, không kể thời tiết nào.
Kinh Tăng Nhất A Hàm của Tiểu thừa cũng nói:
- Thiện nam tử! Người có mẹ hiền còn sống là kẻ giàu nhất; người không còn mẹ là kẻ nghèo nhất. Khi mẹ còn sống là giữa buổi trưa, khi mẹ mất rồi là lúc xế chiều, khi mẹ hiền còn là lúc trăng sáng, mẹ hiền mất rồi là giữa đêm đen. Vì thế các người hãy chăm lo tu tập, hiếu dưỡng cha mẹ, như người cúng Phật, công đức khác gì. Nên báo đền ơn cha mẹ như vậy.
Nhưng Phật lại răn dạy chúng ta, chỉ có thế thì chưa thể gọi là đã đền đáp ơn sâu cha mẹ. Khi cha mẹ đang sống, cha mẹ chưa tin Tam Bảo thì hãy làm cho cha mẹ tin, cha mẹ chưa giữ giới đầy đủ, phải ôn tồn khuyên bảo cha mẹ giữ cấm giới Như Lai, cha mẹ bủn xỉn tiền của, thì hãy khuyên cha mẹ phát tâm bố thí. Cha mẹ mê muội chưa thông sự lý phải khuyên cha mẹ tu học trí tuệ. Cha mẹ niệm Phật pháp mà chưa sinh lòng tịnh tín, thì hãy tìm cách khuyên cha mẹ niệm Phật để được vãng sinh Tịnh độ. Nếu có thể làm được như vậy thì có thể gọi là con hiếu tiêu chuẩn. Đây là lời dạy của Đại Sư Liên Trì:
- Người ta nói, với cha mẹ phải phục lao phụng dưỡng để tỏ bày lòng hiếu thảo, lập thân hành đạo để sáng tỏ đạo hiếu; khuyên niệm Phật pháp môn, cầu mong vãng sinh Tịnh Độ, đó là hiếu trong đại hiếu.
Chính vì lý do đó mà người xưa thường ca ngợi:
- Nhất tử xuất gia, cửu tổ siêu thăng cảnh giới.
Nghĩa là:
- Một đứa con xuất gia, chín đời tông tổ được siêu thăng Tịnh độ.
            b- Gương Báo Hiếu Của Phật
Là một Phật tử, chúng ta hãy noi gương Phật. Hãy xem Đức Phật đã báo đền công ơn cha mẹ như thế nào, thì chúng ta cũng có thể làm như thế đó, theo trong kinh sách có ghi:
Đức Thích Tôn thành đạo không lâu thì trở về tổ quốc thuyết pháp cho thân phụ của Ngài nghe. Sau khi Vua Tịnh Phạn được nghe Phật pháp, lập tức được hóa độ mà chứng được sơ quả. Đến khi Phật sắp vào Niết bàn, để đền ơn đáp nghĩa của mẫu hậu, Ngài cũng đã đến cung trời Đao Lợi để thuyết pháp ba tháng cho thân mẫu là Ma Da Hoàng Hậu nghe, và làm cho mẫu hậu cũng được đắc quả. Cuối cùng, khi vua Tịnh Phạn sắp mất, mặc dù đã chứng được sơ quả, nhưng vẫn còn nặng tình phụ tử, do vậy mà nhà Vua hết sức thương nhớ người con trưởng đã thành đạo, hy vọng Đức Phật có thể trở về để thấy mặt lần cuối. Lúc đó, Đức Phật đang hóa độ chúng sanh nơi xa, vì phụ vương mong nhớ người quá, nên tâm linh người cảm thông được. Đức Phật vội đem các thầy A Nan, La hầu La, Ưu Ba Li .. v. v.. trở về cố quốc để nhìn mặt Vua cha là Tịnh Phạn Vương lần cuối cùng, điều nầy đã khiến cho Tịnh Phạn Vương thỏa mãn lần cuối cùng với nụ cười tinh khiết trước khi ra đi.
Như vậy chúng ta thấy, Đức Phật là đấng đại giác trong nhân gian, tuy không có tình cảm thế tục thông thường như bao nhiêu con người khác, nhưng vẫn giữ đúng đạo làm con. Tịnh Phạn Vương băng hà rồi, Phật cùng ba Tôn Giả tùy tùng đã túc trực trước linh sàng Tịnh Phạn Vương, cho đến khi xuất quan. Thầy A Nan với tư cách là em Phật đã xin được khiêng quan tài của bác, Thầy La Hầu La cũng với tư cách là cháu trưởng của Tịnh Phạn Vương cũng xin được khiêng quan tài ông nội. Đức Phật một mặt đã uyển chuyển từ chối thỉnh cầu của hai Tôn Giả, mặt khác đã khai thị cho hai Tôn Giả:
- Hiếu hạnh của các ngươi là rất đáng khen, ta cũng rất vui. Nhưng để làm gương cho chúng sinh hung ác thời mạt pháp, hôm nay ta phải tự khiêng quan tài của phụ vương ta, để người đời khỏi hiểu lầm rằng đã xuất gia thì không quản gì cha mẹ nữa.
Kết quả Đức Phật đã thân hành khiêng linh cữu cha đến nơi hỏa táng.
Đức Phật là bậc thầy của ba giới, là cha lành của bốn loài, thế mà cha chết còn thân hành khiêng linh cữu, huống chi là chúng ta. Như vậy, nói đi tu là bất hiếu, hoặc Phật giáo không nói hiếu đạo là không hiểu gì về Phật giáo, điều nầy chỉ là một lời bình nông cạn vô căn cứ. Đương nhiên, hiếu hạnh là người con phải phụng dưỡng cha mẹ cơm ăn áo mặc như vậy, nếu không làm được như vậy thì người đời thường cho là bất hiếu, mà không biết rằng đi tu như thế mới thật là người con có hiếu, bởi vì:
- Nhất kiếp bất tu vạn kiếp khổ
Nhất nhơn hành đạo cửu huyền siêu.
Nghĩa là:
- Một đời mà không tu thì hàng vạn kiếp đau khổ
Trong gia đình có một đứa con đi tu, là cửu huyền đều siêu thoát về cảnh giới an lạc.
Qua tấm gương về hiếu hạnh của đạo giải thoát, chúng ta có thể thấy đạo hiếu của thế tục không thể so sánh được với đạo hiếu của Phật giáo chủ trương. Đạo hiếu của Phật Giáo là triệt để, viên mãn, không phải chỉ có sớm viếng khuya hầu và cho ăn uống nuôi dưỡng mà thôi, mà còn hướng dẫn cha mẹ biết ăn ở hiền lành, tu nhân tích đức, hướng cuộc đời mình vào con đường giải thoát.
Một người con mà làm được như vậy mới thực sự là báo hiếu chân chánh, một khi đã thực hiện đạo hiếu một cách chân chính, nhất định cha mẹ thoát khổ được vui. Đây là điều có thể làm được chứ không phải bày đặt và chỉ có giá trị trên lý thuyết. Nên biết rằng đạo hiếu từ ngàn xưa đến bây giờ rất là quan trọng, nhất là trong xã hội hiện đại kỷ thuật tối tân ngày nay, lại càng quan trọng hơn bao giờ hết. Cho nên trong gia đình, trong trường học, có lẽ phải hướng dẫn cho các em nhi đồng, thiếu niên, thanh niên đặc biệt phải dạy cho họ hiếu kính cha mẹ, thuận thảo với anh chị em qua các mỹ đức:
- Trung, hiếu, nhân, ái, tín, lễ, nghĩa,.. v.. v..
Đây mới là việc quan trọng nhất trong việc khôi phục nền văn minh, tiến bộ. Bỏ qua điều đó, cái gọi là phục hưng văn hóa sẽ không còn ý nghĩa nữa.
Chúng ta là người sống trong trời đất, được hướng dẫn đạo lý và cách sống của một con người, không cách nào khác hơn là tuân theo lời dạy của Đức Phật, đồng thời phát tâm Bồ Đề thì mới thực sự có thể đền ơn cha mẹ. Sau khi suy nghĩ như vậy, chúng ta cảm thấy chỉ có thể suốt trăm kiếp nghìn đời luôn luôn thực hành Phật Đạo, thì mới có thể báo đền công ân của cha mẹ. Trong quá trình hành đạo đó, chúng ta phải rảo bước trong mười phương đây đó để phổ độ chúng sinh, như thế thì chẳng riêng cha mẹ kiếp này mà cha mẹ nhiều đời nhiều kiếp kiếp xưa kia đều được cứu vớt. Nhờ cái công đức phát tâm Bồ đề, hành đạo Bồ tát của chúng ta, mà không chỉ cha mẹ của chúng ta, mà là tất cả cha mẹ mọi người trên khắp thế gian cũng được siêu thăng, không còn phải đắm chìm trong sinh tử nữa. Cứu vớt và siêu thăng nói ở đây không phải chuyên chỉ cho sự lợi ích trong trần gian, mà là sự liễu thoát sinh tử. Về quan điểm nầy Liên Trì Đại Sư nói:
- Ơn dày cha mẹ, vượt cả núi cao, ngũ đỉnh tam sinh chưa đủ báo đền, chỉ khi nào song thân thoát rời bụi bẩn thì đạo con mới thành.
Đây là cái cao cả của đạo hiếu mà Phật giáo chủ trương đã được diễn đạt đầy đủ. Cho nên nếu là người hiếu thảo, mà cũng là người phật tử tại gia, nếu cha mẹ chưa biết ăn chay niệm Phật, chưa biết làm lành lánh dữ, thì phải khuyên nhắc cha mẹ thực hành những điều đó. Riêng về người đã xuất gia tu học, ngoài việc khuyên chắc cha mẹ hướng về đường chân nẻo giác, còn phải phát tâm quảng đại tế độ muôn loài mới thật sự là báo hiếu cho cha mẹ.
Tinh thần đạo học trong Phật Giáo Phật Giáo luôn luôn con người phải biết ơn, nhơ ơn và đền ơn, phải ghi nhận tình sâu nghĩa nặng của cha mẹ, và nền đạo học cổ truyền đó đã được thấm nhuần những dân tộc Á Đông nhất là người Việt Nam. Những ai đã sống theo tinh thần nầy, là người đó đã thấm nhuần giáo lý Phật Đà, chắc chắn người đó là tấm gương sáng trong xã hội. Nhiều người Phật tử thuần thành gương mẫu đã làm tròn bổn phận người con hiếu thảo, do vậy mặc dầu có nắm giữ địa vị vai trò quan trọng nào trên chính trường quốc tế, và được nhân loại tôn trọng như thế nào đi nữa, nhưng đối với cha mẹ thì sự hiếu kính trong cuộc sống gia đình lúc nào cũng đặc mình trong phạm vi của một người con hiếu thảo, nghĩa là vẫn lo săn sóc, hầu hạ cha mẹ đúng theo lời Phật dạy. Chúng ta làm được như thế, chắc hẳn cha mẹ của chúng ta phải hãnh diện và sung sướng. Hãnh diện sung sướng không phải vì thấy con mình là một người có địa vị trong xã hội mà chính vì có một người con ngoan đạo và hiếu thảo.
Đây là một bài học cụ thể cho tất cả Phật tử chúng ta. Một gương hiếu thảo tuy là không siêu quần bạt chúng, nhưng cũng đủ để làm mẫu mực cho mọi người noi theo, để luôn ghi nhớ là trong bất cứ trường hơp nào, dù danh vọng cao sang, địa vị quý trọng hay có uy tín lớn lao đến đâu cũng phải khiêm cung, hiếu kính đối với bậc sinh thành. Vì thế mà trong Kinh Hạnh Phúc, Đức Phật dạy:
- Phụng sự cha mẹ là một điều hạnh phúc cao thượng.
Chính Đức Phật cũng đền đáp công ơn sinh thành của cha mẹ bằng một hành động siêu phàm. Ngài đã độ cho vua cha trở thành một bậc thánh nhân trước khi lìa đời, và kinh điển có chép rằng suốt mùa an cư kiết hạ thứ bảy, Ngài đã dùng hầu hết thì giờ để thuyết pháp cho hoàng hậu Ma Gia ở trên cung trời Đao Lợi.
Theo Đạo Phật hướng dẫn cha mẹ sống đúng theo chánh đạo là một thái độ hiếu thuận, và có ý nghĩa nhất trong những bổn phận của con đối với cha mẹ. Những bổn phận này được Đức Phật đề cập đến trong Kinh Lễ Sáu Phương như sau:
1- Phụng dưỡng cha mẹ bằng phương tiện vật chất và hướng dẫn người trên bước đường tinh thần.
2- Làm những công việc nặng nhọc thay cha mẹ.
3- Gìn giữ gia phong.
4- Chi dụng gia sản của cha mẹ một cách hơp lý.
5- Hồi hướng công đức cho cha mẹ khi người đã lìa đời.
Một người con có thể xem là bất hiếu nếu đi ngược lại năm bổn phận chính yếu kể trên, nghĩa là:
1- Không nuôi dưỡng cha mẹ và không hướng dẫn cha mẹ theo chánh đạo khi cha mẹ là người tà kiến.
2- Không đỡ đần những công việc nặng nhọc cho cha mẹ
3- Làm ô uế gia phong.
4- Làm tán gia bại sản của cha mẹ.
5- Không màng tới thâm ân của cha mẹ khi các người đã quá vãng.
Người con nào không phạm đến năm tội bất hiếu trên được xem là hiếu tử.
So sánh hai lời dạy trên của Đức Phật và của Đức Mạnh Tử, chúng ta thấy hai Ngài đều lưu tâm đến cách phụng dưỡng cha mẹ bằng vật chất. Nhưng điểm nổi bật là Đức Phật có đề cập đến phương diện tế nhị hơn đó là:
- Hướng dẫn cha mẹ theo chánh đạo.
Như trường hợp cha mẹ không rành đạo lý, ham thích cờ bạc, rượu chè, tham lam, trộm cắp hay độc ác hại người ... nhưng người con may mắn có dịp đến chùa nghe kinh thính pháp, biết sống theo đạo đức, hiểu biết đạo lý, trong trường hợp này người con phải tìm cách khôn khéo hướng dẫn cha mẹ trở lại đường ngay nẻo chánh.
Trong chiều hướng nầy, nhiều Phật Tử đã hướng dẫn cha mẹ bằng cách xây chùa, cất tịnh thất cho cha mẹ tu niệm. Họ còn thỉnh chư Tăng đến giảng đạo, thuyết pháp cho cha mẹ nghe. Hoặc chính họ thực hành lời Phật dạy như bố thí, trì giới, tham thiền cho cha mẹ hành theo. Tất cả những cử chỉ đó đều được ca ngợi trong tinh thần sống động của Phật giáo.
Tóm lại, sở dĩ chúng ta có được địa vị cao trọng ngày nay là nhờ công lao sinh thành dưỡng dục, nhờ tình thương vô bờ bến và tấm lòng hy sinh cao cả của người mẹ, vì thế chúng ta phải sẵn sàng gác qua một bên những công tác lớn lao và nặng nhọc trong cuộc sống, để có thì giờ làm tròn bổn phận của một người Phật tử ngoan đạo, một người con hiếu thảo trong gia đình. Làm con phải nhớ công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ và phải báo đền cho được cái tình sâu nghĩa nặng đó bằng bất cứ giá nào, vì đó là nghĩa vụ trước tiên trong tất cả các nghĩa vụ làm người.
--o0o--