|     | 
  
           
  | 
              TẬP SAN DƯỢC SƯ 
             
                --o0o--
                   
                  
                  Tự Thắp Đuốc Mà Đi
                   
                  
                  Trúc Giao
                   
                  
                  ---o0o---
                
                           
                - Dậy mà đi, 
                ơi dậy mà đi
                           Dậy 
                mà đi, thắp đuốc lên mà đi
                           Dậy 
                mà đi mang sứ mệnh con người
                           Dậy 
                mà đi mang sứ mệnh tuyệt vời
                           
                Giác ngộ nhân quần
                           
                Giác ngộ cho chúng sanh
                           Cho 
                mọi người đạo quả viên thành
                           - 
                Dậy mà đi, ơi dậy mà đi
                           Dậy 
                mà đi, thắp đuốc lên mà đi.
                           Cụm 
                từ Tự Thắp Đuốc Lên Mà Đi đó là lời dạy của Đức Phật lúc Ngài 
                sắp vào Niết Bàn. Đây là lời nhắc nhở quan trọng không chỉ riêng 
                cho phật tử tại gia mà là cả đệ tử xuất gia. Cũng không phải chỉ 
                riêng đối với đệ tử xuất gia mà còn các hàng đệ tử đã chứng 
                thánh, nhưng chưa phải là quả vị rốt ráo. Nói chung là đệ tử của 
                Phật khi không còn bóng cây đại thọ để nương nhờ thì tự mình 
                phải thắp ngọn đèn trí tuệ của chính tự thân để mà đi. 
                
                Là đệ tử của 
                Phật cho dù là xuất gia hay tại gia cũng được coi là tăng thân, 
                một tổ chức sống hòa hợp, tuy vậy đại thể có thể chia làm hai 
                loại lớn: 
                - Hạng người 
                siêu phàm nhập thánh, đó là hạng người đã dứt hết mọi mê hoặc, 
                chứng được chân như. 
                - Một loại nữa 
                là phàm phu tức là con người ở thế gian, tuy là tu nhưng vẫn còn 
                tham sân phiền não ... 
                Nói chung 
                người ta coi bậc thánh là đấng sùng kính, còn phàm phu thì kém 
                hơn. Do đó ngày nay có nhiều người tu hành tuy chưa đến đâu vẫn 
                tự xưng là chứng thánh để nâng cao giá trị của mình. Nhưng là 
                người phật tử có tu, chúng ta không những không tự khoe khoang 
                mà còn phải khiêm cung học hỏi.
                Theo quan niệm 
                của thế gian, người ta thường phân chia ranh giới của sự hiểu 
                biết:
                - Thượng trí
                - Trung căn
                - Hạ ngu
                Nếu lấy thượng 
                trí để so sánh đối với hạ căn thấp kém, thì kẻ hạ căn thấp kém 
                đương nhiên không thể bằng bậc thượng trí. Hạ ngu tuy không bằng 
                thượng trí nhưng cả hai hạng người đó có một điểm chung đó là 
                khó thay đổi:
                a- Người Trí
                Bậc thượng trí 
                không thay đổi vì nghĩ rằng mình có trí tuệ cao siêu, nhận thức 
                chính xác mọi sự lý, cho nên quyết không thể quay gót theo người 
                và nghe người một cách dễ dãi. Với khả năng của người trí họ tự 
                nghĩ là chỉ có thể dựa vào trí tuệ của mình, kiên định hành động 
                theo điều mình hiểu. Đó là cái không thay đổi của bậc thượng 
                trí. 
                b- Căn Thấp 
                Kém
                Đối với bậc hạ 
                căn thấp kém, tuy trí tuệ thua kém các bậc thượng trí, nhưng 
                cũng có sức kiên trì, khó thay đổi. Đó là tính cách thuần phác 
                của họ. Một khi đã được người khác hướng dẫn, bảo họ làm thế nào 
                thì họ kiên định làm theo như thế. Quả thật như vậy, chẳng hạn 
                như nhiều phật tử lớn tuổi, không hề biết chữ, xem ra rất hiền 
                hòa chất phát, nhưng nếu nói với họ rằng:
                - Cụ cố gắng 
                niệm Phật A Di Đà thì Phật sẽ rước cụ về Tây Phương Cực Lạc.
                Lời hướng dẫn 
                nầy họ sẽ tin tưởng giữ chặt cái tôn chỉ ấy, không ai lay chuyển 
                hoặc thay đổi được. Đó là cái bất di của kẻ hạ căn thấp kém. Với 
                những người hạ căn thấp kém như vậy, thật là hiếm hoi đáng quý 
                biết bao. 
                c- Trung Căn
                Riêng về hạng 
                trung căn nếu so sánh thì khá hơn những bậc hạ căn, nhưng lại 
                không bằng bậc thượng trí, do vậy hạng người nầy là hạng người 
                dễ dàng thay đổi nhất, bấp bênh nhất. Hôm nay nghe nói đạo Phật 
                tốt thì tin thờ đạo Phật, ngày mai nghe nói đạo khác tốt lại 
                thay đổi tín ngưỡng. Những người như vậy rất khó mà hóa độ.
                Là người tu, 
                chúng ta tự nhận là kẻ trí tuệ kém chẳng qua chỉ là tự mình 
                khiêm cung, những người như vậy chắc chắn không phải là người 
                ngu muội không biết gì. Cái kém cỏi mà chúng ta tự nhận, chúng 
                ta có thể hiểu là:
                - Đại trí 
                nhược ngu 
                Nghĩa là:
                - Bậc đại trí 
                xem ra như người ngu đần.
                Đối với loại 
                người, biết mình là con người phàm phu, nhưng chúng ta có thể 
                hiểu biết về chúng ta. Chúng ta tự nhận xét, tuy là một người có 
                tu học, nhưng không giống một phật tử đúng phép, do vậy mà chưa 
                có đủ những phẩm cách hoàn mỹ của một kẻ tu học. Một khi đã hiểu 
                biết như vậy, thì chúng ta là người trí. Hơn thế nữa, trên thực 
                tế, người có chí tu học thì đã là người có chí của đại trượng 
                phu, mà lại có tâm cầu được vãng sinh Tây phương Cực Lạc thì 
                chắc hẳn không thể là người phàm phu bình thường. Vãng sinh Tây 
                phương, được gặp đức Di Đà mà giác ngộ, thì chắc chắn không phải 
                là người hạ căn kém cỏi.  
                Chúng ta nên 
                biết rằng, chư vị thiền tổ đã đi qua trên cuộc đời, là một đệ tử 
                của Phật, lẽ tất nhiên là phải nói năng khiêm tốn đối với mọi 
                người. Hơn nữa, Phật pháp là không thể nghĩ lường, thường thường 
                trong Pháp hội, lúc nào cũng có chư Phật, Bồ Tát chứng minh, 
                nhưng vì chúng ta là người phàm mắt thịt không thấy được mà 
                thôi. Đồng thời trong hàng đại chúng có mặt tại chỗ có thể có 
                những đại thiện tri thức, cho nên mỗi khi trình bày một quan 
                điểm nào đó thì đức tánh khiêm cung không thể thiếu. 
                
                Nếu chúng ta 
                là người có những suy tư như vậy, khi đứng trước hoàn cảnh đạo 
                pháp suy vi, chúng sinh đau khổ thì chắc chắn tự nhận cho mình 
                một trách nhiệm để cứu vãn Đạo Phật đang suy vi, cứu vớt chúng 
                sinh đang đau khổ. Chúng ta nên cảm thấy đó là niềm đau của 
                chính bản thân mình, nếu cần thổ lộ cũng nên thổ lộ lòng mình, 
                để cầu mong mọi người phát tâm hướng thượng, trên thì hoằng 
                dương Phật đạo, dưới thì hóa độ chúng sinh. Sự kiện nầy, ngoài 
                hiện tiền đại chúng ra, chúng ta còn phải có bổn phận truyền đạt 
                đến:
                - Những Thính 
                Chúng Không Tham Dự.
                Là những người 
                có mặt trên đời lúc bấy giờ, vì ngoài những người hiện có mặt 
                tham dự Pháp hội Niết bàn ra, đương thời còn rất nhiều tín đồ 
                khác không đến tham dự. Chúng ta cũng mong muốn họ cùng phát tâm 
                hướng thượng, và hành đạo Bồ Tát như chúng ta. 
                2- Người Đời 
                Sau. 
                Vì là giáo 
                pháp cao thâm vi diệu, không những cần tác động đến những tín đồ 
                Phật Giáo đương thời, mà còn mong muốn những lời đó tác động đến 
                những tín đồ các tôn giáo khác trong tương lai, hy vọng họ cũng 
                phát tâm Bồ Đề như thế. Cư sĩ là chỉ cho những người tu hành tại 
                gia. Tất cả những tín đồ học Phật tại gia, không luận là nam nữ, 
                trước hết cần phải có lòng tin đối với Tam bảo. Nếu không có 
                lòng tin, thì không những chúng ta không thể hành trì Phật pháp, 
                mà còn có thể làm tổn hại Phật pháp. Vì vậy, đối với tín đồ Phật 
                giáo, lòng tin là vô cùng quan trọng. Tuy là lòng tin, nhưng 
                lòng tin cũng cần phải có sự thanh tịnh đó là vấn đề rất quan 
                trọng. Bởi vì lòng tin thanh tịnh tuyệt đối thì gọi là tịnh tín, 
                là nói lòng tín ngưỡng Phật pháp rất thuần khiết, trong đó không 
                nhiễm một tí tư tưởng tà đạo nào. Tin tưởng Tam bảo nếu như còn 
                tạp nhiễm những tà kiến không thuần khiết, thì rất khó mà tu 
                hành Phật pháp, và đồng thời cũng khó thể hiện được sự thực hành 
                chân chính. Kinh nói: 
                - Tín vô trọc 
                nhiễm linh tâm tịnh, 
                Khí trừ ngã 
                mạn cung kính bản.
                Nghĩa là:
                - Lòng tin 
                không nhuốm đục là lòng thanh tịnh, 
                Trừ bỏ sự kiêu 
                mạn của cái tôi, là gốc của sự cung kính. 
                Kinh Thập Pháp 
                lại nói: 
                - Tín vi tối 
                thắng thừa, 
                Vận tải thành 
                chính giác, 
                Thị cố tín 
                đẳng sự, 
                Trí giả ưng 
                thân cận. 
                Nhược nhân vô 
                tín căn, 
                Bất sinh như 
                bạch pháp, 
                Thí như tiểu 
                cốc chủng, 
                Diệc bất sinh 
                nha kính. 
                Nghĩa là:
                - Lòng tin là 
                cỗ xe tốt bậc nhất 
                Để chuyên chở 
                chúng sinh đến chốn giác ngộ chân chính. 
                Vì thế cho nên
                
                Lòng tin là 
                điều mà bậc trí giả phải gần gũi. 
                Người ta nếu 
                không có gốc lòng tin 
                Thì không thể 
                nẩy sinh bất cứ thiện pháp nào
                Cũng như hạt 
                giống thóc thối, 
                Không thể nẩy 
                mầm thành cây được. 
                Vì lẽ đó, 
                chúng ta phải cung kính phụng thờ Tam Bảo, tiếp thụ lời răn dạy 
                của Tam Bảo với một lòng tin tín thành thuần khiết nhất. Chúng 
                ta bất luận nghe gì, nếu chỉ nghe mà không xét thì cũng bằng như 
                không nghe, cho nên nghe rồi phải xem xét. Theo Phật pháp:
                - Nghe là văn 
                tuệ, xét là tư tuệ. 
                Chỉ có nghe 
                rồi phải nghĩ thì mới tiếp thụ được Phật pháp. Thực ra, ngoài 
                nghe và nghĩ ra, còn phải hành, cho nên trong đoạn trên có đủ cả 
                ba loại trí tuệ: 
                - Văn, tư, tu.
                
                Người nghe và 
                thực hành Phật pháp một cách thực sự thì phải dùng cả ba tuệ 
                văn, tư, tu. Nếu có thể nghe Phật pháp với cả ba tuệ thì sẽ tiếp 
                thụ được Phật pháp. Bởi vì cửa chính vào Đạo, phát tâm làm đầu, 
                việc cần kíp của người tu hành, trước hết phải lập nguyện. 
                Nguyện lập thì độ được chúng sinh, phát tâm thì Đạo Phật sẽ 
                thành, nếu như không phát tâm quảng đại, lập nguyện vững chắc 
                thì cũng vẫn không thoát khỏi luân hồi, tuy có tu hành nhưng vẫn 
                cứ uổng công vất vả.
                Như những 
                người tu học Phật pháp, tất cả đều phải đi vào đạo Phật. Nhưng 
                muốn đi vào Đạo Phật thì nhất định phải qua một cái cửa. Như 
                muốn đi vào giảng đường, chắc chắn phải qua một cái cửa của 
                giảng đường. Cũng vậy, cái cửa chủ yếu phải đi qua để vào Đạo 
                Phật tức là phát tâm, tự mình thắp đuốc lên mà đi, tự mình mở 
                cửa bước vào nhà Phật Pháp. Chỉ có phát tâm, mở cửa mới vào được 
                Đạo Phật. Vì vậy bất kể trong kinh điển Đại thừa hay Tiểu thừa, 
                Đức Phật đều chỉ dạy cho chúng ta phát tâm là số một. 
                
                Chúng ta muốn 
                vào con đường giải thoát, cố nhiên phải phát tâm, muốn vào con 
                đường Bồ Đề lại càng phải phát tâm nhiều hơn. Cho dù là theo 
                thiên đạo và nhân đạo của thế tục đi cũng cần phát tâm. Nếu như 
                không phát tâm, thì dù cho cửa rộng mở, đường đi bằng phẳng, 
                chúng ta vẫn không thể qua cái cửa ấy để bước lên con đường lớn 
                mà chúng ta hy vọng bước lên. Theo đó, có thể chứng tỏ rằng phát 
                tâm quả là hết sức quan trọng. Nói một cách nghiêm túc, không 
                chỉ cho những ai muốn đi lên con đường lớn của Phật pháp mới cần 
                phải phát tâm, mà muốn hoàn thành bất cứ một việc gì ở thế gian 
                cũng phải phát tâm. Không phát tâm thì bất cứ việc lớn việc nhỏ 
                gì cũng không thể thành công.
                Sau khi phát 
                tâm rồi, việc phải làm tiếp theo là theo cái tâm đã phát mà thực 
                hiện. Từ điểm khởi đầu cho đến điểm kết thúc, mọi việc phải liên 
                tiếp không gián đoạn, bước này tiếp với bước kia mà tiến lên, 
                như vậy mới có thể gọi là tu học đạo giải thoát. Như vậy việc 
                trước và trên hết trong sự nghiệp tu học là tự mình thắp đuốc 
                lên mà đi. Khi chúng ta muốn bước lên bất cứ một con đường lớn 
                nào của Phật pháp, thì trước hết là lập chí nguyện vững bền. Với 
                cái chí nguyện vững bền không thể chuyển lay ấy, chúng  ta có 
                thể từng bước tiến mạnh đến mục tiêu, không ngừng không nghỉ. Vì 
                vậy, nếu chúng ta muốn tu hành có thành tựu, thì việc lập nguyện 
                là một sự kiện quan trọng tuyệt đối không thể thiếu được, hơn 
                nữa là một trong những điều kiện tiên quyết. 
                Về vấn đề này 
                như tất cả mọi người chúng ta ai cũng đều biết. Muốn làm bất cứ 
                việc gì ở thế gian, nếu không tự mình đứng lên mà đi thì không 
                thể hoàn thành được sự nghiệp chúng ta muốn hoàn thành. Sự 
                nghiệp thông thường ở thế gian còn như vậy, thì việc lớn tu học 
                Phật pháp, hóa độ chúng sinh, ở chốn trang nghiêm tịnh độ lại 
                càng không thể thiếu. Do vậy, nếu không lập được nguyện lớn kiên 
                định, thì khó có thể hoàn thành được những việc lớn. Vì vậy, 
                trong Kinh, đức Phật nhiều lần chỉ dạy cho chúng ta: 
                
                - Việc khẩn 
                cấp trong khi tu hành trước hết phải tự mình thắp ngọn đèn trí 
                tuệ cho chính mình.
                Như vậy, việc 
                phát tâm và lập nguyện có tầm quan trọng ngang nhau trong Phật 
                pháp. Lập nguyện sở dĩ quan trọng là vì: 
                - Nguyện lập 
                tắc chúng sinh khả độ 
                Nghĩa là:
                - Lập được 
                nguyện thì có thể hóa độ được chúng sinh. 
                Chúng ta biết 
                rằng, bất cứ việc gì trên đời, nếu không xác lập được ý nguyện 
                kiên định bất di bất dịch còn khó có thể hy vọng hoàn thành, 
                huống gì việc lớn học Phật, hóa chúng sinh độ? 
                Nhiệm vụ của 
                người tu phát tâm Bồ Đề không có gì trọng yếu hơn là hóa độ 
                chúng sinh nhiều đến vô lượng vô biên. Bồ Tát hóa độ được những 
                chúng sinh cang cường hay không mấu chốt không phải ở chỗ chúng 
                sinh nhiều và cang cường, mà là ở chỗ chúng ta có lập được chí 
                nguyện kiên định, rồi dựa vào cái nguyện lực kiên nghị đó để bền 
                bỉ nhẫn nại để hóa độ chúng sinh. Khi đã có tâm bền bỉ như vậy 
                thì sẽ có ngày chúng sinh sẽ được chúng ta hóa độ. Vì tầm quan 
                trọng của việc lập nguyện, cho nên Đức Phật đã từng khai thị 
                chúng ta: 
                - Như Lai đại 
                chí tôn, 
                Hiển công đức 
                chứng, 
                Nhẫn tuệ phúc 
                nghiệp lực, 
                Thệ nguyện lực 
                tối thắng.
                Nghĩa là:
                - Bậc Đại trí 
                Như Lai tôn kính
                Đã từng nói rõ 
                công đức chúng. 
                Nhân lực, trí 
                lực, phúc lực, nghiệp lực, 
                Chỉ có nguyện 
                lực thù thắng nhất. 
                Ý nói bậc đại 
                trí đại bi Như Lai đã từng chỉ rõ công đức cho chúng ta, muốn 
                thành tựu công đức trong sự nghiệp tu học, vì thế trước và trên 
                hết chúng ta phải thực hiện: 
                1- Nhẫn Lực:
                
                Tức là sức 
                nhẫn nhục chịu đựng. Trong Kinh nói: 
                - Năng hành 
                nhẫn giả, nãi khả danh vi hữu lực đại nhân 
                Nghĩa là:
                - Người nào 
                chịu nhẫn nhục được, thì có thể gọi người đó là bậc đại nhân có 
                sức mạnh lớn. 
                Như vậy, một 
                người được coi là có sức mạnh hay không thì phải xem công phu 
                chịu đựng nhẫn nhục của người đó đạt đến mức nào. Người có thể 
                nhẫn nhục thì rốt cục sẽ thành công, có thể thấy rõ sức mạnh của 
                nhẫn lực đó là rất lớn.
                2- Trí Lực:
                
                Tức là sức 
                mạnh của trí tuệ. Có thể phân biệt trái phải, quyết định tà 
                chính được hay không, hoàn toàn là do có trí tuệ hay không. 
                Người không phân biệt được đúng sai, tà chính là người trái phải 
                không phân minh, tà chính không rõ. Do đó trí lực là không thể 
                coi nhẹ được.
                3- Phúc Đức 
                Lực: 
                Người ta nếu 
                làm theo điều thiện thì phúc đức được tích tụ sau này rất lớn. 
                Phúc đức đó sẽ tạo ra một sức mạnh cho thân tâm chúng ta mà 
                không một ai có thể cướp đoạt được cái sức mạnh đó.
                4- Nghiệp Lực:
                
                Là sức mạnh 
                tạo nghiệp. Bất luận chúng ta tạo ra nghiệp thiện hay nghiệp ác 
                thì nó cũng tạo ra một sức mạnh thúc đẩy, khiến cho ta phải tất 
                tả chạy ngược chạy xuôi. Không một sức mạnh nào có thể kháng cự 
                nổi nghiệp lực. vì vậy nói: 
                - Nghiệp lực 
                là sức mạnh không thể nghĩ bàn.
                Sau khi nói 
                đến các loại sức mạnh đó, Đức Phật chỉ rõ cho chúng ta biết:
                
                - Thệ nguyện 
                lực tối thắng, 
                Nghĩa là:
                - Nguyện lực 
                sức mạnh hơn tất cả các loại lực nói trên. 
                Chúng ta cứ 
                thử nghĩ: 
                - Mọi việc 
                chúng ta muốn làm trong thế gian này, cho đến việc liễu ngộ sinh 
                tử, được giải thóat, hóa độ chúng sinh, thành tựu Phật đạo, việc 
                nào chúng ta cũng đều cần đến sức mạnh của nguyện lực. 
                
                Không có việc 
                nào mà chúng ta không tự mình thắp đuốc lên mà đi. Như vậy không 
                tự mình thắp đuốc lên mà đi, không có nguyện lực thì việc gì 
                cũng không thành. Cho nên trong các Kinh Luận thường có lời 
                khuyên chúng ta nên phải phát nguyện. Vì khi đã thực sự phát 
                nguyện, thì dựa vào nguyện lực đó chúng ta sẽ không lười biếng, 
                lùi bước trên con đường tiến đến mục tiêu và nhất định có thể 
                đạt đến mục tiêu cuối cùng. 
                Trong sự tích 
                của chư Phật, và Bồ Tát, chúng ta có thể tìm thấy những tấm 
                gương lập nguyện lớn hóa độ hóa chúng sinh, với niềm tin chúng 
                sinh sẽ được chúng ta hóa độ. Chư Phật Như Lai sở dĩ có thể hóa 
                độ chúng sinh cần phải hóa độ, nguyên nhân là nhờ có sức mạnh 
                của chí nguyện lớn như:
                - 48 nguyện 
                Phật A Di Đà, 
                - 12 nguyện 
                của Phật Dược Sư. 
                Các vị Đại Bồ 
                Tát tuy đang ở trong vòng sinh tử mà có thể hóa độ được chúng 
                sinh, chính là nhờ có sức mạnh của nguyện lực lớn như:
                - 12 đại 
                nguyện của Đại Sĩ Quan Âm, 
                - 10 đại 
                nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền. 
                Quả thật, nếu 
                muốn hóa độ chúng sinh trong bể khổ sinh tử, nếu không tự mình 
                thắp đuốc lên mà đi, nếu không có nguyện lớn kiên định bất di 
                bất dịch thì không thể nào làm nổi. Mỗi vị Bồ Tát phát tâm đều 
                phải phát bốn thề nguyện lớn là vì thế
                - Chúng sanh 
                vô biên thệ nguyện độ
                Phiền não vô 
                tận thệ nguyện đoạn
                Pháp môn vô 
                lượng thệ nguyệc học
                Phật đạo vô 
                thượng thệ nguyện thành. 
                Chư Phật Như 
                Lai, chư Bồ Tát đều có chí nguyện riêng biệt của các Ngài, cũng 
                chính là vì thế chúng tôi xin được gợi ý đến đại chúng học Phật, 
                trước hết hãy lập nguyện vững bền.
                Nếu có lúc 
                chúng ta biết việc lập nguyện là quan trọng cho việc thành tựu 
                đạo nghiệp, thì sự phát tâm là yếu tố quan trọng hỗ trợ cho việc 
                thành tựu đạo nghiệp. Quả thật, bất luận làm gì không phát tâm 
                thì thôi, một khi đã phát tâm thì làm gì cũng có thể thành công. 
                Trên lập trường Phật pháp, chúng ta đều hy vọng cuối cùng được 
                thành Phật. Để chứng được Phật quả tối cao vô thượng, trước hết 
                ta phải phát tâm Bồ Đề. Một khi đã phát tâm Bồ Đề rồi thì dù 
                hành trình đến quả vị Phật có xa xôi đến mấy, dù đường Bồ Đề khó 
                đi đến mấy, dù trên đường gặp bao nhiêu ma chướng, chịu bao 
                nhiêu đả kích cũng không lay chuyển được chúng ta. Được như thế 
                là vì nhờ đã có cái tâm mong muốn thành Phật, tinh tiến không 
                mệt mỏi trên đường tu học, mà qua đó chúng ta tìm được cách gạt 
                bỏ mọi khó khăn, phá trừ mọi ma chướng. Trên đường đạt Bồ Đề, 
                chúng ta cố gắng không ngừng, vấp váp không nản bước tiến trên 
                đường tu đạo giải thoát. Khi chưa đạt được Phật quả, thì quyết 
                không dừng bước. Như vậy, tầm quan trọng của việc tự mình thắp 
                đuốc lên mà đi là khởi đầu cho công việc lập nguyện và phát tâm, 
                nếu không phát tâm quảng đại, không lập nguyện kiên cố thì cũng 
                vẫn không thoát khỏi luân hồi, tuy có tu hành, cũng vẫn uổng 
                công vất vả. 
                Bàn về việc 
                phát tâm, chúng ta cũng phải biết sự phát tâm tuy là một, nhưng 
                có lớn có nhỏ khác nhau rất nhiều, chẳng hạn như: 
                1- Phát tâm vì 
                mình, vì gia đình, thôn xóm, quốc gia, cho đến vì cả thế giới mà 
                phát tâm. Sự phát tâm nầy không được coi là phát tâm quảng đại.
                
                2- Phát tâm độ 
                tận chúng sanh như tận hư không, khắp pháp giới, thì gọi là tâm 
                quảng đại. Như chúng ta thường đọc được trong kinh Phật:
                - Hư không hữu 
                tận
                Ngã nguyện vô 
                cùng.
                Nghĩa là:
                - Hư không tuy 
                rộng lớn nhưng vẫn có chỗ cùng tận.
                Trong khi đó 
                nguyện của chúng ta không cùng tận.
                Chỉ có phát 
                tâm như vậy mới đủ tư cách là phát tâm quảng đại. Vì phải có tâm 
                quảng đại như vậy, thì mới có thể hóa độ hết thảy chúng sinh.
                Còn nói về lập 
                nguyện, đứng trên phương diện thế gian mà nói. Mặc dù mỗi người 
                đều lập nguyện riêng, nhưng đại thể là ai cũng có chí nguyện của 
                mình. Có người lập nguyện rồi, có thể thành được sự nghiệp mà 
                mình kỳ vọng, hoàn thành được tâm nguyện của mình. Nhưng cũng có 
                người lập nguyện rồi, kết quả cũng không nên việc gì, không được 
                nguyện vọng của mình, đó là thiếu yếu tố tự mình thắp đuốc lên 
                mà đi, nghĩa là chúng ta không tùy thuộc vào bất cứ một chi phối 
                nào ở trong cuộc đời. 
                Cũng là lập 
                nguyện, nhưng lại có người thành công có người thất bại, lý do 
                là vấn đề lập nguyện có kiên cố hay không. Có người lập nguyện 
                rồi, không thể kiên định ý chí của mình, do vậy khi hơi bị trắc 
                trở, hơi bị đả kích một chút là lung lay chí nguyện, như thế 
                không thành công là lý đương nhiên. Đã lập nguyện rồi thì nguyện 
                đó phải cho kiên định:
                - Không vì 
                trắc trở mà dao động 
                - Không vì đả 
                kích mà sợ hãi 
                - Không vì khó 
                khăn mà lùi bước 
                - Không vì trở 
                ngại mà nản lòng. 
                Lập nguyện 
                kiên cố như vậy thì không có việc gì là không làm nổi. Cho nên 
                lập nguyện không chỉ để mà lập nguyện, mà còn phải lập nguyện 
                kiên cố, dứt khoát không vì bất cứ khó khăn nào mà để mất bản 
                nguyện của mình, phải có quyết tâm, sinh mệnh ta có thể hy sinh, 
                chí nguyện ta quyết không thay đổi mới được.
                Nếu không đạt 
                được sự phát tâm quảng đại như đã nói, thì cho dù chúng ta có tu 
                hành trong ba đại a tăng kỳ kiếp, cũng không thể nào thoát khỏi 
                vòng luân hồi sinh tử. Tức là, cho dù chúng ta có tu trì đúng 
                phép trong thời gian dài vô số kiếp vi trần, thì cũng cứ đắm 
                chìm trong bể khổ tử sinh không thể giải thoát được. Trần kiếp 
                là chữ thường nói trong kinh Phật có vẻ hơi khó hiểu, tuy nhiên 
                nếu lấy thế giới Ta Bà nơi mà chúng ta đang sống đây để nói thì 
                rất dễ hiểu: 
                - Đem cái thế 
                giới này chia nhỏ mãi ra thành những hạt bụi nhỏ li ti, lấy mỗi 
                hạt bụi như vậy làm một kiếp, có bao nhiêu hạt bụi như vậy là có 
                bấy nhiêu kiếp. 
                Tu hành trong 
                thời gian bấy nhiêu kiếp vi trần, mong thoát khỏi luân hồi sinh 
                tử, kết quả vẫn ở trong vòng sinh tử ấy, không sao thoát được. 
                Nói theo quan điểm chung, tu hành Phật pháp không ngoài hy vọng 
                đạt được thành tựu về Phật pháp. Nhưng nếu không có yếu tố tự 
                mình thắp đuốc lên mà đi, thì dù có tác dụng công sức tu hành, 
                kết quả vẫn là vất vả vô ích. 
                Cho nên cũng 
                là dụng công tu hành, mà tự mình thắp sáng ngọn đèn tuệ giác, tự 
                mình phát tâm quảng đại, lập nguyện kiên cố thì thành tựu sẽ 
                lớn. Ngược lại, với tâm hồn ươn yếu, không phát tâm quảng đại, 
                không lập nguyện kiên cố, thì thành tựu sẽ nhỏ, nhiều khi còn là 
                uổng phí công lao vất vả. Vì vậy, tự mình thắp sáng đèn tuệ 
                giác, tự mình phát tâm quảng đại, lập nguyện kiên cố là ba điều 
                kiện không thể thiếu được của việc tu đạo giải thoát. Cho nên 
                kinh Hoa Nghiêm nói:
                - Vong thất Bồ 
                Đề tâm
                Tu chư nghiệp 
                pháp
                Thị danh ma 
                nghiệp
                Nghĩa là:
                - Quên mất tâm 
                Bồ Đề 
                Mà tu các 
                thiện pháp 
                Thì gọi là ma 
                nghiệp.
                Quên mất còn 
                như vậy, huống gì chưa phát tâm, cho nên muốn học đạo giải 
                thoát, việc trước hết phải phát nguyện Bồ Tát, không thể chậm 
                trễ. Tự mình thắp đuốc lên mà đi, phát tâm quảng đại, lập nguyện 
                vững bền. Nói khác đi là chúng ta phải tinh tấn vượt bực, phải 
                phát tâm Bồ Đề, lập nguyện Bồ Tát. Với tuệ giác, phát khởi tâm 
                Bồ Đề, lập nên nguyện Bồ Tát, lấy cái tâm nguyện đó mà tu mọi 
                hạnh lành, mới có thể thành Phật nghiệp, Bồ Tát nghiệp, cũng gọi 
                là thiện nghiệp vô lậu xuất thế gian. Nếu không phát tâm Bồ Đề, 
                không lập nguyện Bồ Tát thì mọi thiện pháp đã tu, có thể tương 
                ứng với Phật pháp hay không cũng trở thành những khó khăn lớn. 
                Theo Kinh Hoa Nghiêm: 
                - Một hành giả 
                dù đã phát tâm Bồ Đề, động cơ phát tâm lúc đầu, tuy nói là để 
                hóa độ chúng sinh, nhưng lâu dần trên đường đạo Bồ Đề, hoặc vì 
                bận xử lý việc đời, hoặc vì không chịu được thử thách, hoặc vì 
                cảm thấy chúng sinh khó hóa độ, thế rồi tự nhiên quên mất tâm 
                nguyện Bồ Đề đã phát lúc đầu. 
                Về việc này 
                Đức Phật đã nói cho chúng ta biết: 
                - Quên mất tâm 
                Bồ Đề thì tu mọi thiện pháp cũng thành ma nghiệp. 
                Gọi là quên 
                mất tâm Bồ Đề. Chúng ta không nên nghĩ là chưa từng có tâm ấy. 
                Bởi vì trong Kinh nói: 
                - Xưa có một 
                vị Bồ Tát gặp được một đấng Như Lai, liền phát tâm Bồ Đề. 
                
                Như vậy đáng 
                lẽ là rất tốt, nhưng về sau trong tu hành ở thế gian, quên mất 
                cái tâm Bồ Đề đã phát, cứ như là chưa hề xãy ra chuyện đó. Chúng 
                ta quên mất tâm Bồ Đề như vậy, mặc dù vẫn tu hành thiện pháp ở 
                thế gian, như tu:
                - Năm giới tại 
                gia, 
                - Mười giới 
                thiện, 
                - Như bắt cầu, 
                làm đường, bố thí quần áo, cơm ăn, thuốc men .. v. v.. đều có 
                thể gọi là thiện pháp. 
                Như vậy, phàm 
                việc gì có ích cho nhân quần xã hội, thế giới, nhân loại, dù các 
                loại việc từ thiện nhỏ đến đâu cũng đều có thể gọi là thiện 
                pháp. Nhưng mọi thiện pháp đã tu, nếu tương ứng với tâm Bồ Đề, 
                tự nhiên sẽ trở thành tư lương thành Phật. Còn nếu không tương 
                ứng với tâm Bồ Đề thì tất cả đều thuộc ma nghiệp.
                Cái gọi là ma 
                nghiệp tức là ma vương, tác dụng duy nhất của ma vương là cản 
                trở chúng ta hướng lên, hướng về cái thiện, hướng về quang minh. 
                Tuy nhiên chúng ta không nên nghĩ chỉ có ma vương trên trời lục 
                dục mới là ma, mà chúng ta phải biết là những gì ngăn trở chúng 
                ta trên con đường xuất thế cũng đều gọi là ma. Vì thế khi có một 
                người muốn vượt ra ngoài ba giới, là ma vương phát hoảng, sợ 
                rằng quyến thuộc của nó lại thiếu đi một thành viên. Thế là nó 
                thi triển mọi chước quỷ mưu ma, cản trở lưu giữ những người ấy, 
                không cho ra khỏi tam giới. Do đó quên mất tâm Bồ Đề mà tu thiện 
                pháp, thì nhiều nhất cũng chỉ cảm thấy được quả phúc báu sinh 
                lên cõi trời mà thôi, không thể thoát ra khỏi bàn tay ma vương, 
                vẫn nằm trong sự khống chế của ma vương, ngoan ngoản làm họ hàng 
                thân thuộc của ma vương.
                Nói là tu các 
                thiện pháp, không phải là chuyên chỉ cái thiện pháp thế gian, mà 
                bao gồm cả các thiện pháp xuất thế gian. Ở đây có người hỏi 
                rằng: 
                - Quên tâm Bồ 
                Đề mà tu các thiện pháp thế gian, cố nhiên có thể nói là ma 
                nghiệp. Quên tâm Bồ Đề mà tu các thiện pháp xuất thế gian, có 
                được coi là ma nghiệp không?
                Trong Kinh 
                Lăng Nghiêm nói:
                - Đem cả Thanh 
                văn, Duyên giác cũng liệt vào trong 50 loại ấm ma, thì nói tu 
                cái thiện pháp xuất thế cũng là ma nghiệp. 
                Hơn nữa ma 
                vương không những tu thập thiện nghiệp, và cũng tu thiền định 
                nữa. Nhưng sở dĩ không được địa vị như chư Bồ Tát, hoặc Phạm 
                Thiên ở cõi Trời chỉ vì ma vương không phát tâm Bồ Đề, cho nên 
                còn bị quả báo sinh vào cõi trời dục giới mà trở thành ma vương 
                nhiểu loạn thế gian, khiến cho mọi chúng sinh ở dục giới đều 
                thành quyến thuộc của nó. Hơn nữa phát tâm bồ đề rồi mà lại quên 
                mất tu các thiện pháp còn là ma nghiệp, huống gì căn bản không 
                tự mình thắp đuốc lên mà đi, không tự mình phát tâm Bồ Đề, không 
                tự mình lập nguyện Bồ Tát. Chỉ có quên đi còn như vậy, huống gì 
                là chưa phát. Từ đây có thể thấy rõ hơn phát tâm Bồ Đề rất là 
                quan trọng.
                Căn cứ vào 
                những điều vừa trình bày có thể hiểu rõ, một người tu học đạo 
                giải thoát nếu như tự nguyện tu tập thiện pháp Nhân, Thiên thừa, 
                hoặc chỉ muốn tu Thanh Văn, Duyên giác thừa thì không nói, còn 
                nếu muốn tu học pháp Đại thừa, thì trước hết phải tự mình thắp 
                ngọn đèn tuệ giác, tự mình phát nguyện tu hạnh Bồ Tát, và điều 
                đó không thể chậm trễ. 
                Nói tóm lại, 
                chúng ta tu học đạo giải thoát, hy vọng sau này thành Phật, tức 
                là mục đích cuối cùng của việc tu học. Nhưng Phật do tu hạnh Bồ 
                Tát mà thành. Không có một đức Phật nào không qua con đường tu 
                học hạnh Bồ Tát mà thành được quả vị Phật tối cao. Vì thế, nói 
                đến người thực hành hạnh Bồ Tát là nói về người đã phát tâm Bồ 
                Tát. Có nhân tu Bồ Tát hạnh thì sẽ từng bước tiến đến Phật quả. 
                Còn nói quả vị Phật là nói đến mục tiêu, kết quả. Bồ Tát thừa là 
                nhân, Phật thừa là quả cả hai đều có quan hệ nhân quả. Bất luận 
                là Bồ Tát thừa hay Phật thừa, khi muốn bước lên con đường lớn Bồ 
                Đề này thì trước hết phải có một điều kiện, tức là phải khơi dậy 
                tánh giác, phát nguyện Bồ Tát. Khơi dậy tánh giác, phát nguyện 
                Bồ Tát không những là điều kiện không thể thiếu được, hơn nữa 
                còn phải mạnh dạn không thể nào trì hoãn. Trong khi đó tâm lý 
                con người thường có cái tật là rề rà trì hoãn, việc gì cũng muốn 
                để đến ngày mai, nhưng nhiều người đã không biết: 
                - Ngày mai là 
                ngày không bao giờ đến, bởi vì qua cái ngày mai này, lại đến cái 
                ngày mai khác.
                Cho nên, chúng 
                ta không những phải khơi dậy tánh giác, phát tâm Bồ Đề, mà còn 
                phải phát tâm Bồ Đề thật sớm, phát tâm Bồ Đề ngay lập tức, không 
                thể đợi ngày mai. Nếu như ngày mai rồi lại ngày mai, qua mấy 
                ngày mai thì chúng ta đã lão rồi, thậm chí sắp xuống huyệt rồi. 
                Đến lúc đó cho dù muốn phát tâm Bồ Đề thì cũng quá muộn mất rồi. 
                Quả thật như vậy, việc gì cũng có thể từ từ, riêng việc học đạo 
                giải thoát, việc phát tâm Bồ Đề là tuyệt đối không thể từ từ, 
                phải bắt đầu ngay lập tức, bởi vì thời gian không bao giờ chờ 
                đợi chúng ta. Chúng ta hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi. |  |