| 
           
      
  
           
  |               
             
               VĂN HỌC NGHỆ THUẬT
            
            
            
              
          
           
              AM 
              MÂY NGỦ
          
          
            
             
              
              Tác giả: Nhất Hạnh
              
             
            
              
              PL. 2537-1993 
            
              
              --o0o--
              
             
            
              
                
                - 
                
                 
 
                - 
                
                Jaya 
                Simhavarman đệ tam băng mà không trối trăn lại được lời nào. 
                Quần thần tụ họp trong điện quyết định đưa thái tử Harijitputra 
                lên ngôi trước khi báo tin vua băng cho thần dân trong nước 
                biết. Sáng ngày hôm sau, lễ suy tôn được cử hành rất sớm trên 
                điện và ngay sau đó vua Harijitputra thiết triều lấy danh hiệu 
                là Jaya Simhavarman đệ tứ. Hôm ấy tin dữ được truyền ra, cả kinh 
                kỳ Vijaya nhốn nháo. Dân chúng đổ tới hoàng thành, bứt tóc đấm 
                ngực và than khóc. Họ tiếc thương vị vua trẻ anh hùng đã từng 
                chiến thắng giặc Mông Cổ, đã từng là niềm tin và sự tự hào của 
                họ trong suốt hai mươi năm trời. Cả nước để tang Harijit. Tất 
                cả  mọi cuộc vui chơi đều bị hủy bỏ. Hàng triệu người cắt tóc để 
                tang vua. Suốt trong bảy ngày đêm, trước hoàng cung không lúc 
                nào không có hàng ngàn người đến ngồi để than khóc. Sáng ngày 
                thứ tám, dân chúng hạng vạn người theo gót vua mới và triều thần 
                lên đường đưa cha ra dàn hỏa thiêu. Xác vua được quàng trên một 
                cái kiệu lớn để trên lưng một con bạch tượng, phía trên có lọng 
                che. Theo sau là một hàng voi sắp hàng đông tới một trăm con, 
                trên lưng đều phủ lụa. Hai bên quân lính đi dàn hầu, mặc áo giáp 
                bằng mây. Kiệu của Huyền Trân và các cung phi đi sát kiệu của 
                Harijit. Các cung phi này đều sẽ bị hỏa tang một lần với vua Chế 
                Mân. Hoàng hậu vì đang mang thai thế tử con vua nên sẽ được trà 
                tỳ sau khi sinh nở.
 
                - 
                
                Đàn hỏa thiêu của vua được dựng trên bờ biển. Đó là tục lệ nước 
                Chàm. Trong trường hợp của dân thường thì người chết được thiêu 
                ngay ngày hôm sau. Nếu là quan chức lớn thì lễ hỏa thiêu được tổ 
                chức ba ngày ba đêm sau khi chết. Trong trường hợp của vua thì 
                phải đợi đúng bảy ngày bảy đêm. Đám rước đi tới xế chiều mới đến 
                được hỏa đàn ở bờ biển Thí lị bì nại. Đàn được dựng toàn bằng gỗ 
                trâm hương. Trong tiếng trống và tiếng tù và não nuột, linh kiệu 
                được hạ xuống và đưa từ từ lên hỏa đàn. Xác vua đã được tẩm liệm 
                rất kỹ lưỡng và tưới đầy dầu thơm. Các đạo sĩ Bà La Môn bắt đầu 
                đọc kinh bằng tiếng Phạn. Tiếng kinh vang dội rất lớn, có thể là 
                hàng trăm người đọc một lần. Giàn hỏa đã bắt đầu bốc cháy. Tiếng 
                tù và, tiếng kèn và tiếng trống lại bắt đầu nổi dậy. Huyền Trân 
                không dám nhìn về phía đàn hỏa. Nàng sợ trông thấy cảnh những 
                người cung phi bị đưa lên để hỏa thiêu.
 
                - 
                
                Tất cả những gì đã và đang xảy ra, Huyền Trân thấy như trong một 
                giấc mộng. Mới ngày nào đây, nàng nấu cháo cảm cho vua ăn, rồi 
                bây giờ thân xác Harijit đang bốc cháy trên giàn hỏa. Nàng gắng 
                khóc nhưng không khóc được. Nếu giờ này nàng không mang một giọt 
                máu của Harijit trong người thì thân hình nàng cũng đang bốc 
                cháy. Thôi thế là tan tành giác mơ. Thôi thế là tan tành cả một 
                cuộc đời. Cuộc đời mà nàng đã quyết tâm hiến dâng cho tình hữu 
                nghị giữa hai nước Chiêm Việt. Huyền Trân đưa cánh tay trái lên 
                nhìn. Nàng nhớ lại buổi chiều nào cùng Phụ hoàng ngồi bên bờ 
                suối trước am Long Động. Bàn tay này đã làm được gì? Trong vòng 
                bốn năm tháng nữa bàn tay này sẽ bốc cháy trên giàn hỏa. Bỗng 
                nhiên nàng nghĩ đến cái bào thai trong bụng mình. Con nàng sẽ là 
                trai hay gái? Đứa con này sẽ mang bàn tay nàng đê đi vào đời hậu 
                lai. Bàn tay của cha mẹ và của giống nòi, nàng đã trao về cho 
                một thế hệ hậu lai. Như vậy là nàng có thể san tâm mà lên giàn 
                hỏa sau khi đưa nó ra đời. Nàng sẽ không tiếc nuối cuộc đời.
 
                - 
                
                Huyền Trân tự hỏi: Mình có còn tiếc nuối cuộc đời hay không? 
                Harijit chết trồi thì mình sống làm gì? Nàng đã yêu người thanh 
                niên anh dũng này. Harijit cũng đã yêu nàng thắm thiết. Nàng đã 
                được sống hạnh phúc trong tình yêu ấy. Một tình yêu ngắn ngủi 
                nhưng chất chứa bao nhiêu mặn nồng, và đứa con trong bụng nàng 
                là chứng tích cụ thể cho tình yêu ấy. Chết đi, nàng không tiếc 
                nuối. Nàng chỉ xót xa cho đứa bé sau này. Nó sẽ  được nuôi nấng 
                trong cung điện vua Chàm, sẽ lớn lên và sẽ nghe kể về mẹ của nó 
                ngày xưa, một bà công chúa Đại Việt. Chỉ có thế thôi. Nó không 
                được ấp ủ bằng hơi hướm của nàng, hơi hướm của một bà mẹ Đại 
                Việt. Tội nghiệp cho nó hay tội nghiệp cho chính nàng?
 
                - 
                
                Trong da thịt mình, Huyền Trân cảm thấy hai nỗi đau. Nỗi đau thứ 
                nhất là sự thiếu vắng Harijit. Mất chàng, cuộc đời nàng không 
                còn hứng thú gì nữa. Nỗi đau đó chỉ có lửa mới đốt cháy được, và 
                vì vậy nàng không sợ lên giàn hỏa. Lửa sẽ đốt da thịt nàng cùng 
                một lúc với niềm đau của nàng. Nàng cảm thấy không thể mổ xẻ và 
                lấy nỗi đau ấy ra khỏi da thịt nàng. Nhưng còn một niềm đau thứ 
                hai: Đó là sự xót xa của nàng đối với đứa con không cha và trong 
                bốn tháng nữa, không mẹ. Nỗi đau đó nàng cảm tưởng dù thân thể 
                nàng có bị đốt ra tro bụi, nó cũng không tan. Nó sẽ đọng thành 
                khối bất diệt.
 
                - 
                
                Lửa vẫn cháy; tiếng tù và, tiếng trống và tiếng kèn vang dội. 
                Thấp thoáng, Huyền Trân thấy bóng những đoàn vũ công nhảy múa 
                quanh giàn hỏa, những điệu múa nghi lễ tống tiễn linh hồn vua về 
                thượng giới. Tiếng đọc kinh văn trầm hùng kéo dài. Quanh giàn 
                hỏa dân chúng quỳ trên mặt đất để cầu nguyện đông đến hàng vạn. 
                Giờ này, trên toàn quốc thổ Chiêm Thành, già trẻ trai gái đều 
                biết là Harijit thân yêu của họ đang nằm trên giàn hỏa. Cả nước 
                sẽ để tang cho Harijit, có người sẽ để tang trọn đời. Huyền Trân 
                nhớ lại những lời Văn Túc Vương dạy nàng về tục hỏa thiêu của 
                người Ấn Độ. Tập tục đó người Đại Việt gọi là trà tỳ. 
                Tiếng Chiêm gọi là sati. Văn Túc Vương kể rằng, tuy tập 
                tục này người Đại Việt đã bỏ từ lâu, nhưng vào đời Lý. Các cung 
                phi có người vẫn còn chết theo vua và chôn theo vua. Tục lệ này 
                đến đời Trần đã gần như được bỏ hẳn, nhưng thỉnh thoảng vẫn còn 
                có những cung phi muốn được chết với vua một lần.
 
                - 
                
                Lửa đã tắt, những tro xương còn lại của Jaya Simhavarman đệ tam 
                được thu nhập và cất chứa vào trong một cái bình bằng vàng gắn 
                kín. Bình vàng này được đưa lên kiệu và rước ra thuyền ngự đậu 
                sẵn ở bờ biển. Đèn đuốc được thắp lên, hàng trăm chiếc thuyền 
                nhẹ phò chiếc thuyền ngư ra khơi. Huyền Trân cũng được rước 
                xuống một chiếc thuyền đi sát bên thuyền ngự. Từ trên những 
                chiếc khác, tiếng đọc kinh lại bắt đầu nổi dậy. Khi đoàn thuyền 
                ra tới ngoài khơi thì người ta làm lễ thả bình vàng đựng tro 
                xương của vua xuống biển. Tiếng kèn và tiếng tù và, lại nổi lên 
                ai oán. Đệm sau hai thứ âm thanh ấy, có tiếng trống từng hồi 
                vang dội. Những tràng hoa được liệng xuống biển. Lễ thủy táng 
                chấm dứt. Đoàn thuyền từ từ quay mũi hướng về đất liền.
 
                - 
                
                Nhìn những tràng hoa nhấp nhô lên xuống trên sóng, lấp lánh dưới 
                ánh đuốc, Huyền Trân kêu thầm: "Vĩnh biệt, Harijit, vĩnh biệt". 
                Thuyền nàng cũng đã quay mũi hướng về đất liền. Nhìn ra chân 
                trời phía đông, Hoàng hậu thấy biển cả bao la bát ngát. Harijit 
                đã trở về với thế giới bất sinh bất diệt. Huyền Trân thầm đọc 
                Tâm Kinh Bát Nhã cho chồng.
 
                - 
                
                Vua Chế Mân băng vào tháng bảy Chiêm Thành, tức là vào giữa 
                tháng năm Đại Việt. Tháng sáu năm ấy Thị Khánh vẫn chưa chịu về 
                nước. Nàng xin ở lại cho đến khi Hoàng hậu sinh hạ thế tử. Huyền 
                Trân gầy ốm hẳn đi. Vua Harijitputra khuyên nàng nên giữ gìn sức 
                khỏe. Vua nói với nàng là tuy tục lệ Chiêm Thành buộc Hoàng hậu 
                phải hỏa thiêu theo Vua, nhưng trong thâm tâm vua không muốn bà 
                hỏa thiêu. Không ai dám đi ngược truyền thống của đất nước. Dân 
                chúng cũng thương mến nàng như thương mến Harijit, và họ muốn 
                Harijit của họ không bị cô đơn ở thiên đường. Tuy vậy, theo vua, 
                việc hỏa thiêu của Hoàng hậu có thể được trì hoãn cho tới không 
                những sau khi thế tử qua đời mà có thể đên khi có sứ giả của Đại 
                Việt tới. Huyền Trân cám ơn vua và nói rằng ba không sợ hỏa 
                thiêu, xin vua yên tâm. Bà cũng ngỏ ý xin vua tổ chức lễ đăng 
                quang nay cho Hoàng hậu mới, đừng đợi đến sang năm. Vua Chế Chí 
                nghe lời. Mười hôm sau, kinh thành Vijaya lại treo đèn kết hoa. 
                Cả nước lại tổ chức hội hoa đăng và hát xướng. Trong hai năm 
                liền Chiêm Thành đã làm lễ tấn phong cho hai vị Hoàng hậu. Hoàng 
                hậu của vua mới là con của một vị đại thần trong triều, Huyền 
                Trân bây giờ đã đứng lên hàng Hoàng thái hậu.
 
                - 
                
                Đu tháng tư năm ấy, Huyền Trân lâm bồn và hạ sinh một thế tử, 
                đúng như nàng mong ước. Thế tử được đặt tên là Dayada; cái tên 
                nà đã do Harijit đặt cho hồi vua còn sinh tiền. Huyền Trân ôm 
                con trong tay. Nhớ tớiHarijit, nàng khóc như một đứa trẻ thơ. 
                Thế tử rất bụ bẫm hai mắt đen láy. Vua cho bốn thị nữ đến phục 
                vụ cho thái hậu và săn sóc đứa bé. Thị Khanh và Thị ngọc rất ít 
                khi được ẵm Dayada.
 
                - 
                
                Bảy ngày sau khi Thế tử Dayada sinh, Huyền Trân vào gặp vua Chế 
                Chí, tức là Jaya Simhavarman đệ tứ. Bà xin với vua phái một sứ 
                đoàn qua Đại Việt cáo ai về việc vua Chế Mân băng hà và đồng 
                thời cũng để báo hỷ về việc Thế tử Dayada ra đời. Vua bằng lòng 
                và chỉ định một phái bộ do đại thần Bảo Lộc Kê dẫn đầu, đem theo 
                nhiều cống phẩm. Một thớt bạch tượng được mang theo để dâng lên 
                vua Anh Tông, nhân danh Thế tử Dayada. Huyền Trân nhân dịp ấy 
                cho Thị Khanh theo về. Nàng viết một lá thư cho Thượng hoàng kể 
                hết mọi việc và cũng để vĩnh biệt ngài. Nàng cũng viết một lá 
                thư cho Thái hậu Tuyên Từ và một lá thư khác cho vua Anh Tông. 
                Ba lá thư này nàng viết bằng chữ Hán và niêm phong cẩn thận. 
                Nằng dặn Thị Khanh cất giữ cả ba lá thư và khi về tới nơi thì 
                lập tức dâng ngay lên vua Anh Tông, không được chậm trễ. Rồi 
                nàng vào cung lấy cho Thị Khanh một ít nữ trang riêng của nàng 
                để Khanh làm vốn liếng sau khi lấy chồng.
 
                - 
                
                Sứ đoàn Chiêm Thành lên đường mười hôm sau đó. Huyền Trân tính 
                thầm trong bụng để xem chừng nào phái đoàn mới tới được Thăng 
                Long. Có đem voi theo thế nào cũng đi chậm. May mắn lắm thì đến 
                cuối tháng chín, phái đoàn mới tới được kinh sư. Một mặt nàng 
                mong được phụ hoàng qua thăm trước khi nàng lên hỏa đàn, một mặt 
                lại sợ cảnh lên hỏa đàn của nàng sẽ thương tâm qua đối với bậc 
                cha già. Nàng chẳng biết nghĩ sao, chỉ biết niệm đức Bồ Tát Quán 
                Thế Âm, cầu mong Bồ Tát sắp đặt cho nàng mọi chuyện.
 
                - 
                
                Từ hôm ấy, Huyền Trân theo gương Phụ hoàng ăn chay. Mỗi buổi 
                sáng nàng thức dậy thật sớm và hàng sám theo nghi thức Lục 
                Thời Sám Hối Khoa Nghi của vua Trần Thái Tông soạn. Vua Thái 
                Tông là vị vua đầu của triều Trần, là ông cố của Huyền Trân. 
                Ngài đã từng sáng tác nhiều sách Phật trong đó có tác phẩm 
                Thiền Tông Chỉ Nam mà hồi còn nhỏ nàng chỉ mới được đọc bài 
                tựa. Tác phẩm ấy hiện giờ không có đây. Huyền Trân rất làm tiếc. 
                Nàng muốn ngồi thiền như phụ hoàng nàng nhưng nàng chưa được dạy 
                về cách thức thiền tập. Tuy vậy, nàng cũng cứ ngồi, một ngày 
                nhiều bận, và đem hết tâm trí để niệm Phật. Thỉnh thoảng nàng 
                cùng các thị nữ lên chùa lạy Phật. Chùa này là ngôi vihara 
                lớn nhất ở thủ đô Vijaya. Ngày xưa Phụ vương nàng đã cư trú ở 
                đây trong suốt thời gian làm thượng khách của quốc vương Chiêm 
                Thành. Các tăng sĩ ở đây rất kính mến nàng. Họ đã từng biết mặt 
                Phụ hoàng của nàng. Huyền Trân hỏi các thầy về cuộc viếng thăm 
                của Phụ hoàng ngày xưa. Các vị đưa nàng tới thăm liêu phòng mà 
                ngài đã từng cư trú, cho nàng xem đôi dép năm xưa mà ngài đã để 
                lại chùa làm vật kỷ niệm. Huyền Trân xúc động khi trông thấy 
                những kỷ vật ấy.
 
                - 
                
                Hồi Harijit còn sống, chàng đã nói cho Huyền Trân nghe về Phụ 
                hoàng của nàng. Vua kể lại rằng vua đã nhiều lần khẩn khoản mời 
                Trúc Lâm đại sĩ vào cư trú trong cung nhưng ngài không thuận, 
                bảo rằng ngài chỉ muốn cư trú tại vihara. Harijit từng 
                hỏi các vị tăng sĩ trong chùa về ngài, và vị nào cũng tỏ vẻ kính 
                mến và khâm phục đức độc của đại sĩ. Họ nói Trúc Lâm đại sĩ là 
                một vị dhuta, nghĩa là một tăng sĩ tu theo khổ hạnh, y 
                phục đơn sơ, ăn mỗi ngày một bữa và rất chuyên cần về thiền 
                định. Tất cả các vị tăng sĩ trong vihara, kể cả vị trưởng lão, 
                đều không theo kịp ngài. Từ Đại Việt qua, ngài đã đi bộ theo sứ 
                đoàn Chiêm mà không chịu ngồi kiệu theo lời yêu cầu của sứ thần. 
                Đi theo ngài có một vị tăng sĩ làm thị giả cho ngài; vị tăng sĩ 
                này biết nói tiếng Chiêm Thành. Nhờ vị tăng sĩ phiên dịch, ngài 
                đã giảng về Thiền học cho đại chúng tại vihara. Mỗi khi Harijit 
                cho người thỉnh ngài về cung thọ trai, ngài cũng chỉ đi bộ. 
                Harijit đã ngự tới chùa hơn mười lần để thăm ngài. Chàng nói là 
                sự gặp gỡ với vị tăng sĩ Đại Việt này đã làm thay đổi cuộc đời 
                của chàng.
 
                - 
                
                Harijit nói vói Huyền Trân rằng cũng như bất cứ người thường dân 
                nào của vương quốc Chiêm Thành, chàng lớn lên với ý niệm Đại 
                Việt là kẻ thù truyền kiếp của dân tộc Chàm. Tuy Chiêm Thành bị 
                buộc phải sang triều cống Đại Việt ba năm một lần, sứ Chiêm và 
                sứ Việt gặp nhau ở nước Tống không bao giờ nhìn mặt nhau, và 
                thường trực tránh né nhau. Khi Thượng hoàng nước Đại Việt mới 
                vào đến Vijaya, Harijit vẫn nghĩ rằng một ông vua mà đi tu thì 
                đó không phải là ngoài mục đích chính trị. Nhưng đời sống và 
                nhân cách Thượng hoàng đã làm cho Harijit mở mắt, và từ sự ngạc 
                nhiên, vua Chàm đã đi tới sự mến phục. Các vị tăng sĩ Chàm có 
                mặt ở kinh đô Vijaya đều xác nhận với vua rằng vị Thượng hoàng 
                Đại Việt là một bậc chân tu. Trúc Lâm đại sĩ đã nói với vua Chế 
                Mân rằng ngài rất mừng khi thấy cuộc kháng chiến của Chiêm Thành 
                đạt được thắng lợi vẻ vang và quân binh Hốt Tất Liệt đã phải rút 
                về. Ngài nói phải chi hai nước Chiêm Việt xem nhau như hai nước 
                anhh em để có đủ sức tự cương mã chống lại những âm mưu xâm 
                chiếm của phương Bắc. Ngài có nhắc tới những cuộc binh lửa xưa 
                nay giữa hai nước Chiêm Việt mà ngài mong ước rằng sẽ không bao 
                giờ những cuộc binh lửa như thế lại tái diễn. "Khi tôi còn chưa 
                nhắm mắt thì tôi quyết không để cho có một cuộc xung đột giữa 
                hai nước chúng ta", người đã từng nói với vua. Vua Chế Mân thấy 
                được lòng dạ của ông thầy tu Đại Việt. Thượng hoàng nói khi ngài 
                mang bình bát vân du trong các làng mạc Chiêm Thành, ngài cảm 
                thấy thương yêu người dân Chiêm không khác gì người dân Việt, và 
                ngài nghĩ rằng đưa hai dân tộc vào binh lửa là một điều tội lỗi 
                lớn, vì vậy khi ngài đề nghị gã công chúa Huyền Trân cho mình. 
                Harijit thấy dây không phải là một việc xếp ngoại giao, có tính 
                cách chính trị. Đó là một tiếng nói của trái tim, của tình 
                thương. Thượng hoàng đem con mình mà phú thác cho vua Chiêm, đó 
                cũng là đem trái tim của mình mà phú thác cho dân Chiêm. Có thể 
                là nhân duyên lịch sử này sẽ xóa đi được bao nhiêu thù hận đã 
                từng chất chứa lâu ngày trong lòng người Chàm. Harijit thấy được 
                rằng hòa bình là một điều quý hóa. Chân Lạp đã từng đem binh qua 
                xâm phạm lãnh thổ Chiêm Thành, và nhiều lần kinh đô Vijaya đã bị 
                họ tàn phá. Nếu Chiêm Thành cứ theo đuổi chiến tranh liên miên 
                với nước láng giềng miền Bắc thì tránh sao được cái ngày lưỡng 
                dầu thọ địch, làm sao nước nhà tồn tại được trong cảnh trên đe 
                dưới búa? Cũng vì vậy mà vua Chế Mân đã thấy được trong đề nghị 
                của Thượng hoàng câu trả lời thỏa mãn được cả lý trí lẫn con tim 
                của vua, và vua đã nghe theo lời Thượng hoàng.
 
                - 
                
                Muốn cho cuộc hòa giải lịch sử này được thực hiện tốt đẹp, vua 
                Chế Mân quyết định cắt hai châu Ô và Ri để làm lễ nạp trung. 
                Việc nhượng đất này đã gây sóng gió trong triều Chiêm, nhưng 
                cuối cùng triều thần đã chiều theo ý vị vua anh hùng của họ. Thế 
                là một năm sau, Huyền Trân về Chiêm. Trong suốt thời gian nàng 
                làm Hoàng hậu, ở vùng biên giới hai nước không hề xảy ra một 
                cuộc xung đột nào. Huyền Trân nghe nói dân Chàm tại các thôn La 
                Thủy, Tác Hồng và Đà Bồng thuộc châu ô không chịu thuận phục 
                triều đình Đại Việt, cho nên vua Anh Tông đã sai quan Hành Khiển 
                Đoàn Nhữ Hài vào đất mới, chọn người Chàm ra làm quan, cấp ruộng 
                đất và miễn tô thuế cho dân chúng trong vòng ba năm. Đất hai 
                châu từ đó được đổi tên là Thuận và Hoá, nhưng cuộc tình duyên 
                giữa vua Chiêm và nàng công chúa Đại Việt ngắn ngủi quá. Nàng về 
                tới kinh đô vào cuối tháng sáu năm ngoái thì đến giữa tháng năm 
                năm nay vua Chế Mân băng. Mười một tháng làm Hoàng hậu ở xứ 
                Chiêm đã qua mau như một giấc mộng, nhưng đó không phải là một 
                giấc mộng. Thái tử Chế Đa Gia mà nàng đang ẵm trong tay là một 
                chứng tích của cuộc tình duyên kỳ lạ giữa nàng và quốc vương 
                Chiêm Thành. 
 
                - 
                
                Bây giờ là đã vào gìữa tháng mười một. Chỉ còn có mười hôm nữa 
                là Dayada được tròn ba tháng. Mắt Dayada rất sáng. Chú bé đã 
                biết nhìn theo bàn tay mẹ, và đã biết cười mỗi khi Huyền Trân 
                nói nựng với nó.
 
             
             
              
           
                --o0o--
                 
              
              
            
             | 
   
           
               
       
       |