CHƯƠNG BA
            
          
          
            
            (Tiếp Theo)
            
          
        
          
            
            ---o0o---
            
          
        
          
            
             
          
          
            
            Tiết 2: Nói Về Giới 
            Điều Của Bồ Tát Giới Phạm Võng (tiếp theo)
          
          
            
            Số 40: Không Được 
            Chọn Lựa Truyền Giới 
          
          
            
Phật 
            tử thì khi cho người thọ Bồ tát giới không được chọn lựa. Hết thảy 
            quốc vương vương tử, tể tướng bách quan, tỷ kheo tỷ kheo ni, thiện 
            nam tín nữ, dâm nam dâm nữ, Phạm thiên mười tám tầng trời cõi Sắc, 
            thiên nhân sáu tầng trời cõi Dục, những kẻ vô căn, hai căn, hoàng 
            môn, nô bộc, tỳ thiếp, tất cả quỉ thần, ai cũng được thọ Bồ tát giới 
            cả. Phải dạy người thọ Bồ tát giới nhuộm pháp y bằng hoại sắc cho 
            hợp với chánh pháp. Hoại sắc là nhuộm tất cả pháp y và ngọa cụ bằng 
            màu sắc phá hủy các màu sắc chính là xanh vàng đỏ trắng đen tía. Mọi 
            thứ y phục khác cũng nhuộm hoại sắc như vậy. Nói tổng quát, tại bất 
            cứ quốc độ nào, dân chúng ở đó ăn mặc ra sao thì vị tỷ kheo ăn mặc 
            phải khác với lối ăn mặc ấy. Khi sắp thọ Bồ tát giới, vị pháp sư bồ 
            tát phải xét hỏi người ấy, rằng thân hiện tại có làm bảy tội nghịch 
            không? Vị pháp sư bồ tát không được cho những người thân hiện tại 
            làm bảy tội nghịch được thọ Bồ tát giới. Bảy tội nghịch là làm cho 
            thân Phật xuất huyết, giết cha, giết mẹ, giết hòa thượng, giết xà lê, 
            phá kiết ma tăng và pháp luân tăng, giết thánh giả. Nếu có bảy tội 
            nghịch thì kẻ ấy thân hiện tại không thể được Bồ tát giới. Ngoài ra, 
            ai cũng có thể thọ và được giới ấy. Cái phép của người xuất gia là 
            không lạy quốc vương, không lạy cha mẹ, không lạy bà con, không lạy 
            quỉ thần, nên không thiên vị hoặc khước từ ai hết, hễ ai hiểu được 
            tiếng nói của vị pháp sư bồ tát, từ trăm dặm ngàn dặm vẫn đến cầu Bồ 
            tát giới, mà vị pháp sư ấy vì tâm lý xấu xa, tâm lý ghét giận, không 
            truyền ngay cho họ giới pháp mà tất cả chúng sinh đều có phần thì 
            phạm tội khinh cấu. 
          
          
            
Bồ tát 
            giới là của chúng sinh; trừ những kẻ phạm 7 tội nghịch thì thân đời 
            này của họ không thể thọ và được giới ấy, còn bất cứ ai hảo tâm cầu 
            giới ấy cũng đáng được truyền ngay. Hãy coi lại và đối quán chính 
            văn này với chính văn đoạn 3 mục 3 tiết 1. 
          
          
            
Bảy 
            tội nghịch là ngoài 5 tội nghịch còn thêm 2 tội giết hòa thượng và 
            giết xà lê. Làm thân Phật xuất huyết là tội nghịch 1. Xưa kia, Đề Bà 
            lăn đá hại Phật, nhưng thân Phật không thể hại được, chỉ làm chảy 
            máu ngón chân của Ngài. Nay thì đốt phá kinh Phật tượng Phật là cùng 
            loại. Giết cha, giết mẹ là tội nghịch 2 và 3. Ấy là giết 2 người 
            sinh ra sinh thân của mình. Giết hòa thượng, giết xà lê là tội 
            nghịch 4 và 5. Ấy là giết 2 vị sinh ra giới thân cho mình. Giết 
            thánh giả, nói hẹp là giết La hán, là tội nghịch 6. Ấy là giết các 
            vị giải thoát. Phá tăng là tội nghịch 7. Tội này phân ra có 2: phá 
            kiết ma tăng và phá pháp luân tăng. Phá kiết ma tăng: mở đầu, Đề Bà 
            dụ dổ một số tỷ kheo tách ra kiết ma thuyết giới riêng; sau đó, chỉ 
            cần tối thiểu 8 vị tỷ kheo cùng ở 1 chỗ, 1 kẻ trong đó dụ dổ 3 người 
            cùng kẻ ấy là 4, tách ra làm 1 nhóm mà kiết ma thuyết giới hay làm 
            những sự kiết ma khác, là cùng loại. Phá pháp luân tăng: mở đầu, Đề 
            Bà lập ra Tam Bảo giả trá để chống phá Tam Bảo chân thật; sau đó chỉ 
            cần tối thiểu 9 vị tỷ kheo không cần cùng ở 1 chỗ, 1 kẻ trong đó dụ 
            được 4 người cùng kẻ ấy tách ra, kẻ ấy tự xưng giáo lãnh, lập giáo 
            pháp và họp 4 kẻ kia làm giáo đoàn riêng, là cùng loại. Cả 2 tội 
            trên đây chung lại gọi là phá tăng hay phá tăng hòa hợp, có nghĩa 
            làm tan rã sự cùng sống với nhau bằng giới pháp và giáo pháp của chư 
            tăng. Nói cách khác là phá hoại Phật giáo. Do vậy mà nay bất cứ chủ 
            trương và hành động nào phá hoại Phật giáo, là cùng loại. Tất cả 6 
            tội trước trong 7 tội nghịch là sát sinh cực nặng (dầu làm thân Phật 
            xuất huyết chỉ là phần da hành của tội ấy), còn tội thứ bảy là vọng 
            ngữ cực nặng. Bảy tội nghịch là tội đọa vô gián ngục, nhất là tội 
            phá pháp luân tăng, vì làm thương tổn pháp thân của Phật (Câu xá, 
            Chính 28/92-94). 
          
          
            
Ở đây, 
            đối với Bồ tát giới thì chỉ những kẻ phạm 7 tội nghịch mới không thể 
            thọ và không thể được giới ấy. Do đó, 7 tội ấy có bản chép là 7 sự 
            cản trở (thất giá). Ngoài những kẻ phạm 7 tội nghịch, mọi người ai 
            cũng phải được cho thọ Bồ tát giới, không được lựa chọn, khước từ. 
            Thế nhưng, những kẻ trà trộn hay mai phục để phá hoại Phật giáo thì 
            đó cũng là 1 trong 6 loại tặc trú, không thể không tra xét cho kỹ mà 
            cứ cho thọ Bồ tát giới. Lại nữa, giới này cấm là cấm lựa chọn theo 
            tà ý, còn vị truyền giới phải xét người cầu giới có xứng đáng không, 
            người cầu giới phải xét vị truyền giới có xứng đáng không, thì lại 
            là sự răn dạy phải làm của Bồ tát giới du dà (mà Vạn 60/378B trích 
            dẫn). Cho nên lựa chọn hay không lựa chọn theo tà ý thì toàn là cung 
            cách làm cho Phật pháp suy tàn. 
          
          
            
Sau 
            hết, đây là mấy chỗ cần giải thích. Vô căn: không có cả 2 bộ phận 
            sinh thực. Hai căn: ngược với vô căn. Hoàng môn: gọi chung 5 loại 
            người lại cái. Phải dạy người thọ Bồ tát giới nhuộm pháp y bằng hoại 
            sắc: do chính văn liên tiếp dưới câu này nói rõ mà biết đây là dạy 
            cho tỷ kheo (và mọi người xuất gia). Ngọa cụ ở đây là những thứ đồ 
            nằm. Mọi thứ y phục khác là mọi thứ khác nữa thuộc về y phục, trong 
            đó có các thứ khăn. Cái phép của người xuất gia là không lạy..., câu 
            này cho thấy rõ vị truyền Bồ tát giới phải là người xuất gia. 
            
          
          
            
            Số 41: Không Được Vụ 
            Lợi Làm Thầy 
          
          
            
Phật 
            tử nếu giáo hóa cho người phát sinh đức tin đại thừa rồi, mình là Bồ 
            tát làm vị pháp sư chỉ bảo cho người, thì thấy người ấy muốn thọ Bồ 
            tát giới, mình phải chỉ bảo cách thỉnh hai vị đại sư là hòa thượng 
            và xà lê. Hai vị đại sư phải hỏi người ấy có hay không có phạm bảy 
            tội nghịch là bảy tội cản trở sự thọ và được Bồ tát giới. Nếu thân 
            hiện tại phạm bảy tội nghịch thì vị pháp sư không được cho người ấy 
            thọ Bồ tát giới; nếu không phạm bảy tội nghịch thì được cho họ thọ. 
            Nếu người nào phạm mười giới pháp nặng thì phải chỉ bảo người ấy sám 
            hối bằng cách đối trước hình tượng Phật đà, hình tượng Bồ tát, ngày 
            đêm sáu buổi tụng mười giới pháp nặng và bốn mươi tám giới pháp nhẹ, 
            cực kỳ khẩn thiết lễ bái ba ngàn đức Phật thuộc ba thì gian quá khứ 
            hiện tại và vị lai, cầu cho thấy được tướng tốt. Dầu một lần bảy 
            ngày hay ba lần bảy ngày, cho đến một năm, cũng phải làm sao cho 
            thấy được tướng tốt. Tướng tốt là thấy được Phật đến xoa trên đỉnh 
            đầu, thấy ánh sáng của Phật, thấy hoa sen của Phật, hoặc thấy các 
            tướng kỳ lạ khác, thì tội lỗi tức thì tan biến. Nếu không thấy được 
            những tướng tốt như vậy thì dẫu sám hối cũng không có cái ích lợi 
            làm cho người ấy thân hiện tại được lại giới pháp, nhưng có cái lợi 
            ích thọ lại giới pháp ấy. Nếu ai phạm bốn mươi tám giới pháp nhẹ thì 
            chỉ bảo người ấy sám hối bằng cách đối diện mà phát lộ, thì tội lỗi 
            tức thì tan biến. Phạm giới nặng hay nhẹ đều không như bảy tội 
            nghịch. Làm pháp sư chỉ bảo thì trong các cách trên đây nhất nhất 
            phải thấu hiểu. Nếu không thấu hiểu sự đúng sai và tội nặng nhẹ của 
            giới pháp đại thừa, không lý giải đệ nhất nghĩa đế, tập chủng tánh, 
            trưởng dưỡng tánh, bất hoại tánh, đạo chủng tánh, chánh pháp tánh, 
            trong tất cả các tánh của Bồ tát vị như vậy không thấu rõ quán hạnh 
            nhiều ít và ra vào như thế nào, cho đến mười thành phần thiền định 
            và bao nhiêu quán hạnh khác, cũng nhất nhất không thấu hiểu nghĩa ý 
            trong đó; mà, là Bồ tát, lại vì quyền lợi, vì danh vọng, vì ham hố 
            đồ đệ với tâm lý ham cầu xấu xa và quá đáng, làm ra như thấu hiểu 
            tất cả, thì ấy là tự lừa dối mình lại lừa dối kẻ khác. Vậy mà cố ý 
            truyền Bồ tát giới cho người thì phạm tội khinh cấu. 
          
          
            
Giới 
            này nối tiếp các giới 16, 40, nhất là giới 23, răn dạy cách làm pháp 
            sư. Pháp sư này trước đây đã gọi là pháp sư đại thừa, pháp sư bồ tát, 
            nay đây gọi là pháp sư chỉ bảo. Pháp sư chỉ bảo là đại sư giáo thọ. 
            Nhưng sự chỉ bảo này không phải chỉ có lúc sắp thọ giới hay lúc thọ 
            giới, mà là trước nữa, phải giáo hóa làm sao cho người có thể thọ và 
            giữ Bồ tát giới. Giới 41 này gần như tổng hợp cách làm pháp sư như 
            vậy. Cách ấy có 4: một, dạy cho người phát sinh đức tin đại thừa, 
            hai, dạy cách thọ giới, ba, dạy cách sám hối phạm giới, bốn, thấu 
            hiểu về Bồ tát giới và Bồ tát vị. 
          
          
            
Một, 
            dạy cho người phát sinh đức tin đại thừa là tin mình sẽ làm Phật. 
            Nhưng nói như vậy là nói tắt về những sự khác nữa, ấy là dạy cho 
            người biết đại thể về Bồ tát giới, dạy cho người có chí nguyện và 
            khả năng để thọ và giữ giới ấy, như đã nói trong các giới nhẹ trước 
            liên quan đến những việc này. 
          
          
            
Hai, 
            dạy cách thọ Bồ tát giới là xét và không truyền giới ấy cho người 
            phạm 7 tội nghịch, nhưng càng phải giáo hóa sao cho người này có 
            những cái phước khác. Còn ai không phạm 7 tội nghịch thì cho thọ Bồ 
            tát giới bằng cách dạy thỉnh 2 vị đại sư hòa thượng và đại sư xà lê. 
            Nhưng xét Phạm võng (giới 23) Anh lạc (Chính 24/1020) Thiện giới (Chính 
            30/1014) Du dà (Chính 24/1104) và Địa trì (Chính 30/912) đều thấy Bồ 
            tát giới chỉ do 1 vị thầy truyền thọ. Chính 1 vị thầy ấy, trước khi 
            truyền giới thì làm pháp sư chỉ bảo, khi truyền giới thì làm 2 nhiệm 
            vụ đại sư hòa thượng và đại sư xà lê. Giới văn nói chỉ bảo cách 
            thỉnh 2 vị đại sư là hòa thượng và xà lê, là vị thầy chỉ bảo cho 
            người xin thọ giới biết cách thức thỉnh mình làm cả 2 nhiệm vụ hòa 
            thượng và xà lê mà truyền giới cho người ấy. Giới văn nói 2 vị đại 
            sư phải hỏi người ấy có hay không có phạm 7 tội nghịch, là vị thầy 
            ấy, bây giờ, với tư cách hòa thượng và xà lê, hỏi để xác định người 
            xin thọ giới có hay không có phạm vào những tội cản trở sự thọ giới 
            và sự được giới. Việc này giới 40 đã hỏi, nhưng hỏi để tra xét, nay 
            chỉ hỏi theo nghi thức. Nghi thức mà 1 vị thầy phải nói và phải làm 
            trong việc kiết ma truyền Bồ tát giới thì Chính 24/1104 và 1105 chỉ 
            dẫn rất rõ. Nhất là lời kiết ma, xin lược dịch như sau: Vị thầy 
            truyền giới đối trước tượng Phật lạy và bạch, rằng kính bạch vô 
            lượng Phật đà và Bồ tát hiện tại vô lượng thế giới, hiện thời ở đây 
            có bồ tát tên XX, đối trước con là bồ tát XX, 3 lần nói thọ Bồ tát 
            giới, con đã tác chứng cho. Con thỉnh cầu vô lượng Phật đà và Bồ tát 
            cũng tác chứng cho bồ tát XX thọ Bồ tát giới. Bạch lần thứ 2 và lần 
            thứ 3 cũng như vậy. Như vậy là kiết ma thọ Bồ tát giới được hoàn tất 
            (chính 24/1105). Thế nhưng đối với câu "thỉnh 2 vị đại sư", các vị 
            chú thích có nhiều ý kiến, xin tóm tắt ghi lại như sau. Có vài người 
            lướt qua, rõ ràng có ý thận trọng; có vài ba người nói vị pháp sư 
            chỉ cách thỉnh Đức Thích Ca làm hòa thượng, thỉnh mình làm xà lê; có 
            người nói chỉ cách thỉnh mình làm hòa thương, thỉnh 1 vị khác là 
            kiết ma xà lê; có người nói mình làm giáo thọ xà lê, chỉ cách thỉnh 
            Đức Bổn Sư Thích Ca làm hòa thượng, chỉ cách thỉnh Đức Đương Lai Di 
            Lạc làm xà lê. Ấy là chỉ kể những ý kiến đáng chú ý. Những ý kiến 
            này gợi lên sự xét lại cách truyền Bồ tát giới. Cách ấy trong lý 
            thuyết và thực tế thấy có 2. Thứ nhất là cách 1 thầy truyền cho 1 
            trò. Cách này nên lấy sự chỉ dẫn của luận Du dà làm chính (Chính 
            24/1104-1105). Tham khảo thì có thể coi thêm Vạn 59/197A và 198B. 
            Đặc biệt nếu truyền cho cận sự nam và cận trú nam theo Ưu bà tắc 
            giới kinh thì có thể làm theo kinh ấy (Chính 24/1047-1049). Thứ hai 
            là cách tổ chức giới đàn truyền cho nhiều người như nghi thức hiện 
            hành, thì có 2 lớp tam sư thấy được và không thấy. Lớp tam sư không 
            thấy là Đức Thích Ca làm hòa thượng, Đức Văn Thù làm kiết ma, Đức Di 
            Lạc làm giáo thọ; lớp này căn cứ kinh Thiện giới và Phổ Hiền, và "từ 
            lớp này mà được giới là do sức trợ phát của Đức Phổ Hiền" (Chính 
            62/246). Lớp tam sư thấy được là hòa thượng, kiết ma và giáo thọ 
            trong giới đàn; lớp này dạy thỉnh và đứng thỉnh lớp trước kiết ma 
            hoàn tất. Cách truyền giới 1 thầy 1 trò có cái ưu điểm là nghĩa vụ 
            của vị thầy rất quan trọng cho người thọ giới, còn cách truyền giới 
            trong giới đàn thì nhược điểm ở chỗ thọ giới rồi thầy trò hầu như 
            chẳng còn biết gì đến nhau nữa. 
          
          
            
Ba, 
            dạy cách sám hối phạm giới. Trước hết, phạm 7 tội nghịch thì đời này 
            không được thọ Bồ tát giới, còn gì nữa mà nói đến sám hối. Nếu thọ 
            Bồ tát giới rồi mới phạm 7 tội nghiểch thì đời này mất giới pháp ấy, 
            không thể sám hối để được lại hay thọ lại gì hết. Nhưng nói không 
            thể sám hối là đối với giới pháp, chứ sự sám hối về 7 tội nghịch thì 
            vẫn có. Đó là chuyện A xà thế vương sám hối tội giết cha, ngay trong 
            thời Phật còn và được ngài chấp nhận (Chính 1/109). Làm vị pháp sư 
            thì phải biết như vậy để đừng ruồng bỏ người phạm tội nghịch, làm họ 
            tuyệt vọng, lại phủ nhận năng lực Phật pháp đối với tội ấy. 
            
          
          
            
Ngoài 
            kẻ phạm 7 tội nghịch, ai cũng có thể thọ và được Bồ tát giới. Nhưng 
            thọ và được rồi, nếu phạm 10 giới nặng thì vị pháp sư dạy cho họ 
            phải sám hối thấy tướng tốt mới được phục hồi giới pháp, khỏi phải 
            thọ lại. Sám hối mà không thấy tướng tốt thì được thọ lại, vì người 
            này không phạm 7 tội nghịch. Giới văn nói nếu không thấy được những 
            tướng tốt như vậy thì dẫu sám hối cũng không có cái ích lợi làm cho 
            người ấy thân hiện tại được lại giới pháp, nhưng có cái ích lợi thọ 
            lại giới pháp ấy, chính văn là nhược vô tướng hảo, tuy sám vô ích, 
            thị nhân hiện thân diệc bất đắc giới, nhi đắc tăng ích thọ giới. 
            Tăng ích thọ giới, có bản chỉ chép tăng thọ giới, có nghĩa là thọ 
            giới lại. Câu chính văn này có nhiều ý kiến. Ý kiến có nhiều nhất, 
            điển hình như ngài Pháp tạng (Vạn 60/100A) là sám hối thấy tướng tốt 
            thì phục hồi giới pháp, không cần thọ lại, còn sám hối không thấy 
            tướng tốt thì không phục hồi giới pháp nhưng được thọ lại giới pháp 
            ấy. Có vài ý kiến thêm chữ "sau này" vào trước chữ thọ lại, có 1 ý 
            kiến thêm chữ "đời sau". Ý kiến như chính văn là đời này có thể thọ 
            lại, ý kiến thêm chữ sau này là đời này hay đời sau có thể thọ lại, 
            ý kiến thêm chữ đời sau là đời sau mới thọ lại. Nay xét thọ Bồ tát 
            giới là xuất gia hay tại gia thọ giới ấy, vậy Bồ tát giới tùy thuộc 
            Tỷ kheo giới và tại gia giới. Như vậy, sự phạm giới nặng, nhất là 
            phạm cả 3 phần da hành, căn bản và hậu khởi của mỗi giới, thì dẫu 
            nói Bồ tát giới có thể sám hối mà phục hồi hay thọ lại đi nữa, tỷ 
            kheo giới và tại gia giới cũng không có cái sự phục hồi hay thọ lại 
            ấy. Trên lý thuyết, nếu có trường hợp chỉ thọ Bồ tát giới thì được 
            thọ lại hay không, thọ lại trong đời này hay đời sau, phải hoàn toàn 
            do vị pháp sư bồ tát, vị thầy rất xứng đáng, có trách nhiệm quyết 
            định, như đã quyết định lúc mới cho họ thọ. 
          
          
            
Sau 
            hết, ai phạm 48 giới nhẹ thì dạy cho họ sám hối theo cách đối diện 
            bộc bạch mà sám hối là được tiêu trừ. Cách này luận Du dà (Chính 
            24/1106) cũng dạy rất rõ. Đối diện, chính văn là đối thủ, có nghĩa 
            đối diện, giáp đầu mặt mà bộc bạch sám hối. Có người đọc đối thú, có 
            nghĩa đối diện mà thú tội, ý nghĩa như đọc đối thủ. Phạm giới nặng 
            hay nhẹ đều không như 7 tội nghịch, sát chính văn thì chỉ "không như 
            7 tội nghịch", nên phải bổ túc như trên. 
          
          
            
Bốn, 
            thấu hiểu về Bồ tát giới và Bồ tát vị. Thấu hiểu về Bồ tát giới là 
            hiểu làm như thế nào thì đúng, làm như thế nào thì sai, phạm như thế 
            nào thì nặng, phạm như thế nào thì nhẹ, lại còn phải hiểu lý do và 
            nội dung của Bồ tát giới, hiểu cách truyền thọ, cách lãnh thọ và 
            cách sám hối. Thấu hiểu về Bồ tát vị là hiểu căn bản của Bồ tát vị, 
            hiểu chủng tánh của Bồ tát vị, hiểu pháp hạnh của Bồ tát vị. Căn bản 
            của Bồ tát vị là đệ nhất nghĩa đế, tức Phật tánh, cũng gọi là thật 
            tướng bát nhã. Chủng tánh của Bồ tát vị thì kinh Anh lạc nói có 6, 
            và phối hợp rõ như sau: 1, tập chủng tánh là 10 trú, 2, tánh chủng 
            tánh là 10 hạnh, 3, đạo chủng tánh là 10 hướng, 4, thánh chủng tánh 
            là 10 địa, 5, đẳng giác tánh là đẳng giác, 6, diệu giác tánh là diệu 
            giác (Chính 24/1012). Còn ở đây, kinh Phạm võng nói thì ngài Pháp 
            tạng chép có 5 và phối hợp như sau: 1, tập chủng tánh là 10 phát thú 
            (10 trú), 2, trưởng dưỡng tánh là 10 trưởng dưỡng (10 hạnh), 3, bất 
            hoại tánh là 10 kim cang (10 hướng), 4, đạo chủng tánh là 10 địa, 5, 
            chánh pháp tánh là Phật địa (Vạn 60/99B-100B). Nay xét chính văn 
            Phạm võng và Anh lạc, thấy 10 trú 10 hạnh và 10 hướng thì 2 kinh ấy 
            và thông thường nói như nhau, "ý nghĩa thì đồng, danh từ thì khác" (Trí 
            húc, Vạn 60/314A). Nhưng 10 địa thì Anh lạc cũng như thông thường 
            tách đẳng giác và diệu giác ra làm 2 chủng tánh nữa; còn 10 địa 
            trong Phạm võng thì xét thấy bao gồm cả 10 địa và 2 giác. Vậy nên 
            phối hợp lại như sau: một, tập chủng tánh là 10 phát thú (10 trú), 
            hai, trưởng dưỡng tánh là 10 trưởng dưỡng (10 hạnh), ba, bất hoại 
            tánh là 10 kim cang (10 hướng), bốn, đạo chủng tánh và 5, chánh pháp 
            tánh là 10 địa (10 địa và 2 giác). Ý nghĩa 5 danh từ Bồ tát tánh và 
            4 danh từ Bồ tát vị như trên có thể lược giải như sau. Một, tập 
            chủng tánh: phẩm cách luyện tập, là xuất phát đi mau đến (phát thú), 
            nghĩa là vững vàng trong Bồ tát vị (trú). Hai, trưởng dưỡng tánh: 
            phẩm cách bồi dưỡng, là bồi dưỡng hơn lên nữa (trưởng dưỡng), nghĩa 
            là đi tới về Bồ tát vị (hành). Ba, bất hoại tánh: phẩm cách kiên cố, 
            là kiên cố như kim cương (kim cang), nghĩa là đã hướng đến chân như 
            (hướng). Bốn, đạo chủng tánh: phẩm cách bát nhã, và Năm, chánh pháp 
            tánh: phẩm cách chân như, là sinh trưởng mọi diệu dụng và đã gần như 
            là Phật (địa và đẳng giác diệu giác). Cũng nên ghi chú thêm rằng có 
            bản chép 6 chủng tánh: sau trưởng dưỡng tánh thêm tánh chủng tánh, 
            nhưng xét thấy bất ổn không ít. 
          
          
            
Pháp 
            hạnh của Bồ tát vị là các quán hạnh và pháp hạnh. Quán hạnh có 3, là 
            không quán, giả quán và trung quán: 10 phát thú thì từ giả quán vào 
            không quán, không quán còn ít; 10 trưởng dưỡng thì ra không quán vào 
            giả quán, không quán thì nhiều mà giả quán còn ít; 10 kim cang thì 
            xoay không quán giả quán vào trung quán, giả quán thì nhiều mà trung 
            quán còn ít; 10 địa thì trung quán mới nhiều. Không quán là thể hội 
            thật tướng, siêu việt các phạm trù tư duy; giả quán là hoạt dụng 
            thật tướng, lợi ích cho hết thảy chúng sinh; trung quán là dung hóa 
            thật tướng, vô công dụng hạnh đã nhiệm vận hiện tiền. Pháp hạnh thì 
            ở đây đưa ra 10 thiền chi (10 thành phần thiền định). Pháp số này là 
            10 nhất thế xứ. Trí độ luận nói như sau, trong cuốn 21, "bội xả làm 
            cửa đầu, thắng xứ là đi giữa, nhất thế xứ là hoàn thành, 3 loại này 
            của thiền quán mà đầy đủ thì bản thể thiền quán thành tựu". Vậy là 
            10 thiền chi (nhất thế xứ, biến xứ) còn lược 2 pháp số nữa, đó là 8 
            bội xả (giải thoát) và 8 thắng xứ. 
          
          
            
Vị 
            pháp sư truyền Bồ tát giới thì căn bản là phải nghiêm trì giới ấy, 
            lại phải hiểu rõ và chỉ dạy được 4 điều trên đây. Nhưng nếu truyền 
            Bồ tát giới với tâm lý ham danh lợi và ham đồ đệ thì hiểu mà truyền 
            cũng vẫn phạm giới này, huống chi không hiểu. Giới văn câu chót làm 
            ra như thấu hiểu tất cả, có bản chép thêm "để được hiến cúng", thêm 
            như vậy vừa thừa vừa thiếu. 
          
          
            
            Số 42: Không Được 
            Thuyết Giới Ác Nhân 
          
          
            
Phật 
            tử thì không được vì quyền lợi mà nói giới pháp vĩ đại của hàng ngàn 
            Đức Phật trước những kẻ chưa thọ Bồ tát giới, những kẻ ngoại đạo và 
            ác nhân. Trước những kẻ phủ nhận Phật tánh cũng không được nói. Trừ 
            quốc vương, không được nói với ai cả. Những kẻ ngoại đạo và ác nhân 
            không lãnh thọ giới pháp của chư Phật thì như loài vật, đời đời sinh 
            ra ở đâu cũng không gặp được Phật pháp tăng, như cây như đá không có 
            tâm hồn, nên gọi là ngoại đạo và ác nhân. Còn những kẻ phủ nhận Phật 
            tánh thì khác gì đầu gỗ. Là Bồ tát mà trước những kẻ như vậy nói đến 
            giáo pháp và giới pháp của bảy đức Phật đà thì phạm tội khinh cấu.
            
          
          
            
Không 
            phải lúc nào, ở đâu, với ai cũng thuyết Bồ tát giới một cách cẩu thả. 
            Nhất là đối với những kẻ không có tâm hồn, những kẻ không có giống 
            Phật, những kẻ ngoan cố, vô tín ngưỡng, nghe Bồ tát giới thì chỉ phỉ 
            báng, không thể lãnh thọ mà cũng không chịu lãnh thọ. Còn đối với 
            quốc vương, tức đối với các vị nguyên thủ quốc gia, thì không phải 
            được nói mà là phải nói; địa vị ấy, quyền sinh sát ở cả trong tay, 
            không cố mà nói cho họ, bằng cách này hay cách khác, về Bồ tát giới, 
            thì không còn sự răn đe nào khác nữa. 
          
          
            
Giới 
            39 nói phải diễn giảng Bồ tát giới trong mọi trường hợp, vậy tránh 
            sao cho khỏi có những kẻ mà giới này hạn chế? Nên người diễn giảng 
            phải xét người nghe, để có khi có thể diễn giảng đủ cả, có khi chỉ 
            nên trích giảng mà thôi. 
          
          
            
Giới 
            pháp vĩ đại của hàng ngàn Đức Phật, nói rõ là của 3 ngàn Đức Phật 
            thuộc 3 thời kỳ quá khứ hiện tại và vị lai. Ấy là lấy 3 ngàn Đức 
            Phật liên tiếp, gần gũi và của quốc độ này, trong đó có Đức Bổn Sư, 
            mà nói sự trọng đại của Bồ tát giới. Của 7 Đức Phật đà là lấy 7 Đức 
            Phật gần nhất trong số 3 ngàn Đức Phật mà Đức Bổn Sư là vị Phật hiện 
            tại, để nói sự trọng đại của Bồ tát giới. Như loài vật, 1 nhà giải 
            thích nói vì không thọ Bồ tát giới thì sống cũng như chết chỉ là 
            sống chết vô ích. 
          
          
            
            Số 43: Không Được Cố 
            Tâm Phạm Giới 
          
          
            
Phật 
            tử nếu đã đem đức tin đại thừa mà xuất gia và lãnh thọ giới pháp 
            chính yếu của chư Phật rồi, lại cố ý sinh tâm vi phạm giới pháp phát 
            sinh tuệ giác vô lậu như vậy, thì không nên nhận mọi sự hiến cúng 
            của thí chủ, không đáng đi đất của quốc gia, uống nước của quốc gia. 
            Cả năm ngàn quỉ dữ thường án trước mặt kẻ ấy mà bảo với nhau, rằng 
            đó là tên giặc lớn. Vào phòng ốc, thành thị, thôn ấp, nhà cửa, thì 
            bọn quỉ thường quét dấu chân của người ấy đi. Thế nhân ai cũng nhục 
            mạ, rằng đó là tên giặc trong Phật pháp. Chúng sinh không ai muốn 
            nhìn. Kẻ phạm giới có khác gì loài vật, đầu gỗ. Nếu cố ý vi phạm 
            giới pháp chính yếu của chư Phật thì phạm tội khinh cấu. 
            
          
          
            
Hoặc 
            là vô ý, hoặc là phiền não quá nặng mà phạm giới, thì dầu sao cũng 
            còn hơn kẻ phạm giới bằng sự cố ý. Lại còn không sám hối mà nhận 
            lãnh của tín đồ hiến cúng, thì đó là kẻ không còn chút tàm quí nào 
            trong lòng. Kẻ ấy đất tuy rộng cũng không đáng có một chỗ để đi, 
            nước tuy nhiều cũng không đáng có một giọt để uống. Đất của quốc gia, 
            nước của quốc gia, quốc gia, chính văn là quốc vương, chữ này không 
            những có nghĩa là vua mà còn chỉ cho tất cả nguyên thủ quốc gia dưới 
            những danh từ khác nữa. Nói đất nước của nguyên thủ quốc gia là nói 
            của quốc gia, của cả nước. Quỉ án trước mặt thì vì vậy mà họa không 
            ít và phước khó toàn. 
          
          
            
            Số 44: Không Được 
            Không Trọng Kinh Luật 
          
          
            
Phật 
            tử thì thường phải nhất tâm mà thọ trì đọc tụng kinh luật đại thừa, 
            lột da làm giấy, thích huyết làm mực, rút tủy làm nước, chẻ xương 
            làm bút, để sao chép giới pháp của Chư Phật. Lại sao chép mà giữ 
            bằng giấy vỏ cây như giấy gió, giấy dạ, bằng lụa, lụa trắng, lụa tơ 
            trần, bằng thẻ tre. Rồi thường đem bảy thứ quí báu, hay những thứ 
            tạp ngọc vô giá, thơm và đẹp, làm hộp làm đãy mà tôn trí kinh luật 
            đại thừa ấy. Nếu không hiến cúng đúng cách như vậy thì phạm tội 
            khinh cấu. 
          
          
            
Kinh 
            luật phải hiến cúng, phần chính vẫn là kinh luật đại thừa, tức Bồ 
            tát giới Phạm võng. Hiến cúng bằng cách ấn hành mà truyền bá, trang 
            sức mà thờ cất. Phật tánh nằm trong đó, nên phải hiến cúng như hiến 
            cúng Phật. Lột da làm giấy, thích huyết làm mực, rút tủy làm nước, 
            chẻ xương làm bút, là nói tinh thần vị pháp vong thân, không phải 
            nói thực sự. Sao chép (thư tả) là xưa chỉ viết tay, chưa in. Nay thì 
            in chứ không phải viết. 
          
          
            
            Số 45: Không Được 
            Không Có Giáo Hóa 
          
          
            
Phật 
            tử thì tâm đại bi phải thường xuyên nổi dậy, khi vào những nơi thành 
            thị, thôn ấp hay nhà cửa, thấy bất cứ ai cũng đều nói lên như thế 
            này: các người nên lãnh thọ ba qui y và mười giới pháp. Nếu thấy tất 
            cả cầm thú thì bất cứ bò ngựa heo dê, đều nên tâm nghĩ miệng nói như 
            sau: cầm thú các con, các con nên phát bồ đề tâm. Là Bồ tát thì đến 
            bất cứ chỗ nào, dầu là núi non, rừng rú hay khe suối, đồng nội, cũng 
            làm cho hết thảy chúng sinh phát bồ đề tâm. Nếu Bồ tát mà không giáo 
            hóa chúng sinh như vậy thì phạm tội khinh cấu. 
          
          
            
Chủ 
            đích của sự giáo hóa là làm cho tất cả phát bồ đề tâm. Cách giáo hóa 
            mà giới này dạy chính là cái điển hình Thường Bất Khinh Bồ Tát trong 
            kinh Pháp hoa. Cách này không mấy ai không cho là tầm thường, lố 
            lăng, nên không mấy ai không phạm giới này. Nhưng cách này không 
            những đem sức mạnh của tâm nguyện ảnh hưởng đến đối tượng, mà còn tự 
            huân tập và hiện hành thường xuyên nơi bản thân về tâm đại bi. Lãnh 
            thọ ba qui y và mười giới pháp là như truyền thọ Bồ tát giới rồi đó. 
            Nhưng câu giới văn dạy nói lên khi gặp người thì không phải chỉ làm 
            theo một cách máy móc và giản dị như vậy. Phải coi đó là đầu đề mà 
            cách trình bày phải sao cho thích hợp, hiệu quả. Riêng câu giới văn 
            dạy nói lên khi gặp vật thì làm theo dễ hơn: hãy luôn luôn chú 
            nguyện cho chúng như vậy. Nhưng phải chú ý chữ tâm nghĩ: phải vận 
            dụng và tập trung tất cả sự chân thành của tâm đại bi mà chú nguyện.
            
          
          
            
            Số 46: Không Được 
            Thuyết Không Đúng Phép 
          
          
            
Phật 
            tử thì thường đi giáo hóa với tâm niệm đại bi mà mình thường phát 
            khởi. Nhưng, dẫu vào nhà tín đồ hay nhà quyền quí, đối với bất cứ 
            tập thể nào, người xuất gia cũng không được đứng mà thuyết pháp cho 
            người tại gia. Phải ngồi lên chỗ cao, ở trước mặt họ. Pháp sư tỷ 
            kheo thì dẫu thuyết pháp cho cả bốn chúng, cũng không được đứng đất 
            mà nói. Khi thuyết pháp thì vị pháp sư phải được mời ngồi chỗ cao, 
            hương hoa hiến cúng; còn bốn chúng thính giả thì ngồi chỗ thấp, bằng 
            ý niệm như hiếu thuận đối với cha mẹ mà kính thuận những lời giáo 
            huấn của vị pháp sư, lại kính thuận liên tục như các đạo sĩ thờ lửa 
            giữ lửa không tắt. Nếu người thuyết pháp mà thuyết không đúng phép 
            như vậy thì phạm tội khinh cấu. 
          
          
            
Thuyết 
            không đúng phép là thuyết pháp không đúng nghi lễ thuyết pháp. Dẫu 
            phải giáo hóa mọi người phát bồ đề tâm, nhưng chính vì để họ quí 
            trọng chánh pháp mà phát bồ đề tâm, nên phải thuyết pháp cho đúng 
            nghi lễ. Dầu thân như nhà tín đồ hay sang như nhà quyền quí, ở đâu 
            cũng không được dễ dãi hay hạ mình, sao cũng nói được, bộc lộ tinh 
            thần thị thường chánh pháp ngay khi chưa nói và khi đang nói. Như 
            vậy thì phải ngồi, lại ngồi chỗ cao và trước mặt người nghe. Nhưng 
            nếu trường hợp cũng theo nghi lễ, người nói phải đứng nói mới tôn 
            nghiêm thì lại khác. Khi thuyết pháp thì vị pháp sư... giữ lửa không 
            tắt, dịch sát thì như sau, dầu không đúng ý và việc: Nếu khi thuyết 
            pháp, pháp sư ngồi cao, hương hoa hiến cúng; bốn chúng thính giả 
            ngồi thấp như hiếu thuận cha mẹ, kính thuận lời thầy như bà la môn 
            thờ lửa. 
          
          
            
            Số 47: Không Được 
            Kềm Chế Phi Lý 
          
          
            
Phật 
            tử như quốc vương, thái tử, bách quan hay bốn bộ, đã đem đức tin đại 
            thừa lãnh thọ giới pháp của Chư Phật rồi, lại tự thị quyền quí cao 
            sang mà phá hoại giáo pháp và giới pháp của Như Lai, bằng cách đặt 
            ra qui chế để kềm chế bốn bộ đệ tử của Như Lai, không cho họ xuất 
            gia, hành đạo, cũng không cho họ tạo lập hình tượng, chùa tháp, và 
            truyền bá kinh luật. Lại đặt chức thống quản để chế ngự chư tăng, 
            lập sách tịch để kiểm kê chư tăng. Tỷ kheo bồ tát thì để cho đứng 
            đất, bạch y cư sĩ lại tự ngồi chỗ cao, làm nhiều điều phi chánh pháp, 
            tạo thành tình trạng như bắt binh nô thờ chủ. Nhưng tỷ kheo bồ tát 
            chính là bậc để cho mọi người kính trọng, có đâu lại bị đem làm kẻ 
            sai sử của quan quyền một cách trái với giáo pháp, trái với giới 
            pháp. Nếu hàng quốc vương bách quan đã đem tâm lý tốt đẹp lãnh thọ 
            giới pháp của Chư Phật rồi, thì đừng làm những tội lỗi phá hoại Tam 
            Bảo như vậy. Nếu cố ý làm những biện pháp phá hoại Tam Bảo thì phạm 
            tội khinh cấu. 
          
          
            
Giới 
            này tự nói đã rõ, một cách không ngờ, về những sự kềm chế phi pháp, 
            và đã mệnh danh những sự ấy là phá hoại Tam Bảo. Một quốc độ mà 
            cường quyền lấn áp đạo đức, buộc đạo đức và những người tiêu biểu 
            cho đạo đức phải phục dịch mình bằng những qui chế phi lý, nhất là 
            qui chế ấy có tính cách kềm chế, giám sát người và việc của một tôn 
            giáo như Phật pháp, thì đó là "nước của quỉ la sát". Nhưng cường 
            quyền ở đây, ngoài chính quyền mà chính sách căn bản không dung Phật 
            pháp, còn là chính quyền mà cầm đầu hoặc nội bộ có những kẻ bất 
            trung của Phật pháp, tự làm hoặc chịu làm tay sai, lợi dụng ngay sự 
            làm Phật tử mà làm những việc hại đạo của Phật, thì đó là điều mà 
            giới này muốn nói đến : nói đến Phật tử tại gia phản bội Phật pháp. 
            Bốn bộ, bốn bộ đệ tử, ở đây là ưu bà tắc, ưu bà di, đồng nam, đồng 
            nữ. Câu lại đặt chức thống quản... phá hoại Tam Bảo như vậy, được 
            biết có bản bị vua quan xưa đục bỏ. 
          
          
            
            Số 48: Không Được 
            Phá Hoại Đạo Pháp 
          
          
            
Phật 
            tử nếu đã đem tâm lý tốt đẹp mà xuất gia rồi, lại vì danh vọng và 
            quyền lợi nên trước mặt quốc vương và bách quan, nói về giới pháp 
            của Chư Phật mà lại nói một cách rất phi lý, làm cho các vị tỷ kheo 
            tỷ kheo ni và những người thọ Bồ tát giới bị trói buộc bằng những 
            hình thức lao tù, những biện pháp quân dịch. Như thế đó là con sâu 
            trong thân sư tử tự ăn thịt sư tử, không phải con sâu ở ngoài: chính 
            những kẻ Phật tử như trên tự phá Phật pháp, không phải ngoại đạo ma 
            vương mà phá được. Nên người lãnh thọ giới pháp của Chư Phật thì 
            phải ái hộ giới pháp ấy như người mẹ thương đứa con một, như người 
            con thờ cha mẹ, không được vi phạm. Là Bồ tát thì khi nghe cái tiếng 
            của ngoại đạo và ác nhân đem lời nói ác phỉ báng phá hoại giới pháp 
            của chư Phật, lúc ấy khác nào tim mình bị ba trăm mũi nhọn đâm vào, 
            thân mình bị ngàn lưỡi dao vạn cây gậy đánh đập chém chặt. Thà là 
            chính mình vào trong địa ngục cả trăm kiếp, chứ không muốn một lần 
            phải nghe cái tiếng của kẻ ác đem lời ác phỉ báng phá hoại giới pháp 
            của chư Phật, huống chi chính mình tự phá hoại giới pháp của chư 
            Phật bằng cách tạo điều kiện khuyến khích kẻ khác phá hoại Phật pháp, 
            không còn gì gọi là tâm hiếu thuận. Nếu cố ý làm như vậy thì phạm 
            tội khinh cấu. 
          
          
            
Giới 
            47 phần nhiều nói Phật tử tại gia mà phản bội Phật pháp, giới 48 này 
            phần nhiều nói sự phản bội ấy của Phật tử xuất gia. Sự phản bội tàn 
            tệ nhất là chính mình giải thích giáo pháp và giới pháp, đem ngay sự 
            giải thích ấy mà gây ra hay công nhận sự bị nguy khốn đày ải cho 
            đồng đạo, nhất là đồng đạo xuất gia. Cường quyền, tay sai của ma 
            vương hay chính ma vương hiện thân, phá hoại Phật pháp được là do 
            hành động này tạo cơ hội hay tạo điều kiện. Trong kinh Thắng man, Bà 
            Hoàng này bạch Đức Thế Tôn, hằng sa đại nguyện đều nên nhập vào một 
            đại nguyện, ấy là nguyện hộ trì chánh pháp. Hộ trì chánh pháp là đại 
            nguyện cực kỳ lớn lao... Đức Thế Tôn dạy, Thắng man, đúng như vậy; 
            chút ít của sự hộ trì chánh pháp cũng làm cho ma vương cả sợ. Như 
            Lai không thấy có một việc thiện nào làm cho ma vương cả sợ bằng một 
            chút của sự hộ trì chánh pháp (Chính 12/218). Câu bằng những hình 
            thức lao tù, những biện pháp quân dịch, được biết có bản cũng bị đục 
            bỏ. 
          
          
            
Chín 
            giới pháp nhẹ như vậy, các người phải học, phải cung kính phụng trì.
            
          
          
            
Kết 
            thúc 9 giới nhẹ thứ hai. 
          
          
            
            Đoạn 3: Kết Thúc 48 
            Giới Nhẹ Bồ Tát Giới Phạm Võng 
          
          
            
Các 
            Phật tử, bốn mươi tám giới pháp nhẹ như trên đây, các người hãy thọ 
            trì như chư Bồ tát quá khứ đã tụng, chư Bồ tát vị lai sẽ tụng, chư 
            Bồ tát hiện tại đang tụng. 
          
          
            
Tổng 
            kết 48 giới nhẹ đã nói bằng 3 lần 10 và 2 lần 9, tức kết thúc phần 
            đẳng lưu của Bồ Tát Giới.