- 
            
            CƯƠNG YẾU GIỚI LUẬT
 
            
          
          
            
            - 
            
            Thích Thiện Siêu
 
            
          
          
            
            - 
            
            ---o0o---
 
            
          
          
            
-            
            Chương 
            04
 
          
          
            
-            
            Cương Yếu 
            Giới 
            Luậtt, 
            Phần 01 – 06
 
          
          
            
-             
            01.  Thế nào là Tăng? 
 
          
          
            
-             02.  Đại giới.
            
 
          
          
            
-             03.  Giới trường.
            
 
          
          
            
-             04.  Thất diệt tránh.
            
 
          
          
            
-             05.  Kiết-ma. 
            
 
          
          
            
-             06.  Điều kiện của 
            kiết-ma. 
 
          
          
            
-             01-  
            Thế nào là Tăng? 
 
          
          
            
-             Tăng, 
            Phạn tự là Sangha, Trung Hoa dịch là hòa hợp chúng. Vắn tắt gọi là 
            Tăng. Đức Thế Tôn sau khi thành đạo, sơ chuyển Pháp luân Tứ đế để độ 
            cho 5 anh em Kiều-Trần-Như (Ajnata Kaudingha), A-Thấp-Bà (Asvlit), 
            Bạt- Đề (Bhadrika), 
            Ma-Ha-Ma-Nam (Màhamànan) và Thập-Lực-Ca-Diếp (Dàshadakasypa). Ngôi 
            Tam Bảo hình thành từ đây. Về Ni, Phật đã độ cho Ma-Ha Ba-Xà-Bà-
            Đề (Maha Prajapati) và 
            Công chúa Da-Du-
            Đà-La (Yasodara) cũng 
            được Phật độ cho xuất gia, từ đấy Tỳ-kheo-ni bắt đầu hình thành.
            
 
          
          
            
-             Thường 
            thường khi nói đến Tăng, in tuồng chỉ cho Tỳ-kheo, chư Tăng là chỉ 
            cho Tỳ-kheo, chư Ni chỉ cho Ni bộ. Nói như vậy có hơi gượng ép, áp 
            đặt. Thật ra chữ Tăng là nói chung hết. Đó là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni 
            Tăng. Tăng có nghĩa là hòa hợp chúng. Chúng đây gồm 4 người trở lên. 
            Chúng này phải hòa hợp, gọi là Tăng. Ni cũng vậy. Bên Tăng gọi là 
            Tỳ-kheo Tăng, bên Ni gọi là Tỳ-kheo-ni Tăng. Khi gọi là Tăng, một 
            người cũng gọi là Tăng thì không đúng. Một người sở dĩ gọi là Tăng 
            vì họ ở trong đoàn thể bốn người trở lên, đồng giới, đồng thuyết 
            giới, đồng kiết-ma... riêng một cá nhân thì gọi là Tỳ-kheo thôi. Cho 
            nên, khi gọi Tăng là nhóm 4 người trở lên, còn gọi Đại đức Tăng có 
            hàm ý tôn trọng toàn thể các vị xuất gia, các vị có tu hành, có giới 
            hạnh.  
 
          
          
            
-             02-  
            Đại giới 
 
          
          
            
-             Trong 
            Luật nói: Bên Tăng kiết giới rộng nhất là 10 Câu-lô-xá, tức khoảng 
            18 ki-lô-mét. Nếu ở giữa là giới trường thì bên này 9 km, bên kia 9 
            km để Tăng ở hai bên cùng tới dự Bố-tát cho tiện. Nếu vị nào sợ đi 
            không kịp thì phải đi sớm để kịp Bố-tát. Còn phía bên Ni, kiết đại 
            giới là một Câu-lô-xá, tức khoảng 1,8 km, đó là đại giới lớn nhất.
            
 
          
          
            
-             Còn 
            đại giới nhỏ nhất là trong một già-lam. Thí dụ tại chùa Từ Đàm, tôi 
            kiết một đại giới, nếu chúng Từ Đàm có 4 người trở lên thì nửa tháng 
            phải thuyết giới. Sự thuyết giới đó có nghĩa rằng, với các vị Tăng 
            cùng sống chung, nửa tháng phải họp mặt lại để kiểm điểm hành động 
            của nhau, như giới mình thọ có giữ đúng không, phạm hay không phạm, 
            nhắc nhở cho nhau trong vấn đề tu hành. Nếu có phạm phải lo sám hối. 
            Cho nên nếu trong chùa có đủ 4 người trở lên, có thể kiết giới 
            trường trong một già-lam để thuyết giới, mỗi nửa tháng là đúng Luật. 
            Khi đã kiết giới rồi, đến giờ thuyết giới, nếu trong chúng hôm đó có 
            ai vắng mặt, vì lý do gì, không dữ dục là mắc tội biệt chúng. Ở Hà 
            Nội, chùa Quán Sứ và chùa Bà Đá cách nhau một ki-lô-mét, nhưng bên 
            nào thuyết giới bên đó, chứ chư Tăng không đi qua lại. Khi chùa có 
            vị khách Tăng đến ở trọ, gặp ngày thuyết giới, vị khách đó coi như 
            đồng thuyết giới với chúng Tăng đó. Nếu vị Tăng không thuyết giới và 
            không nói dữ dục thì coi như biệt chúng. Vì vậy, tôi và Hòa thượng 
            Minh Châu ra công tác Phật sự tại Hà Nội, ở chùa Quán Sứ, khi đúng 
            ngày thuyết giới, có một vị Tăng Tri sự trong chùa đến tin cho biết, 
            thưa hai Hòa thượng, sáng nay Bố-tát. Nếu mình làm thinh là chấp 
            nhận đi Bố-tát; nếu bận việc thì nói tôi xin dữ dục, còn không nói 
            mà đi là mắc tội biệt chúng. Trường hợp mình là khách Tăng, họ không 
            cho mình biết mà cứ thuyết giới là kiết-ma phi tướng. Truởng hợp đó 
            cũng y như tại Giáo hội tỉnh Thừa Thiên ngày trước, các chùa vẫn đến 
            thuyết giới tại chùa Linh Quang, mà tại chùa Báo Quốc, Hòa thượng 
            Trí Thủ vẫn kiết giới cho chúng Tăng bên đó thuyết giới. Và ngay bây 
            giờ, phía bên Ni cũng có 3 chỗ thuyết giới là Diệu Đức, Hồng Ân và 
            Diệu Viên, như vậy vẫn đúng Luật. Sở dĩ lâu nay có nơi Giáo hội tập 
            trung chung một tỉnh tại một điểm để thuyết giới, đó là ngầm đồng ý 
            với nhau và để nhắc nhở nhau trong vấn đề tu hành. Trong đó, người 
            khôn vẻ cho người dại, người hay nhắc cho người dở, là ý như thế. 
            Còn nếu để từng chùa riêng, chùa lôi bốn người mà người nào cũng kém 
            hết, thuyết giới cũng được đó nhưng không thông thì không hay. Thôi, 
            thì hòa đồng chung, trong đó người hay kèm người dở thì nó hay hơn. 
            Phải hiểu rõ nội dung đó và phải biết đại giới và giới trường là như 
            vậy đó. 
 
          
          
            
-             03-  
            Giới trường 
 
          
          
            
-             Vì sao 
            phải kiết giới trường? Ví dụ, trong chúng có 30 người, thông báo 
            sáng nay đến thuyết giới. Khi đến, thầy này tới góc này đợi, thầy 
            đến góc kia đợi, thầy khác tới góc nọ ngồi, ngồi đợi nhau mãi hoài 
            không biết thuyết chỗ nào. Vì thế phải quy định một chỗ, một giới 
            trường nhất định nào đó để thuyết giới. Cho nên, khi đến thuyết giới 
            ai cũng đến đó hết. Ai không đến được thì xin dữ dục. Khách Tăng có 
            mặt trong ngày thuyết giới cũng phải dự thuyết giới, nếu Tăng địa 
            phương hay Tăng thường trú không báo cho họ biết để thuyết giới là 
            kiết-ma phi tướng. Họ không biết không đến không dữ dục là mang tội 
            biệt chúng. 
 
          
          
            
-             Tóm 
            lại, sở dĩ có kiết giới trường là vì đại giới rộng quá, nếu không 
            kiết một chỗ cho chúng Tăng biết thì khi có việc cần bốn người, hoặc 
            10 người làm mà bắt chúng Tăng 30, hay 40 người họp lại thì phiền 
            phức mà mất thì giờ quá. Thí dụ, việc thọ đại giới cho Tỳ-kheo cần 
            10 người thôi, mà bắt chúng Tăng 20 người ngồi chờ cả ngày thì phí 
            thì giờ. 
 
          
          
            
-             Pháp 
            kiết-ma nói: 
 
          
          
            
-             - “Lớn 
            thì có đại giới, giới trường, nhỏ hơn nữa thì có tịnh trù tịnh địa, 
            tịnh khố, nhiếp y giới. Nhiếp y giới cũng gọi là Bất thất y giới. 
            Nếu đại giới nhỏ hơn hoặc bằng đất Tăng già-lam thì khỏi kiết giới 
            này. Nếu đại giới rộng hơn đất Tăng già-lam thì phải kiết giới này. 
            Khi kiết phải thêm câu: “Trừ thôn, thôn xá ngoại”. Tức y không được 
            để vào chỗ dân cư. Phạm vi giới này chung với đại giới”. 
            
 
          
          
            
-             Trường 
            hợp đại giới không có giới trường thì đại giới đó chỉ có tướng bên 
            ngoài mà thôi, vì bên trong này không có gì hết. Nhưng trường hợp có 
            kiết giới trường thì nó có 3 giới hạn: 
                        a- Giới trường ngoại tướng:  
          
          
            
-             Từ 
            giới trường này để một khoảng đất trống một đến hai thước, để trong 
            khi kiết giới, nếu có người đi ngang qua lại thì không phạm. Từ 
            khoảng đất trống có đường ranh giới gọi là đại giới nội tướng, là 
            tướng bên trong của đại giới. Đường ngoài gọi là đại giới ngoại 
            tướng, tướng bên ngoài của đại giới. Như vậy, nếu có giới trường thì 
            nó sẽ có ba tướng (ba giới hạn), tướng ngoại của giới trường, tướng 
            nội và tướng ngoại của đại giới. Khi kiết thì kiết giới trường trước, 
            rồi mới đến kiết đại giới nội tướng và cuối là kiết đại giới ngoại 
            tướng. Sau khi tập Tăng lại, cử một vị cựu trú Tỳ-kheo hay một vị 
            rành nơi vị trí đó, đứng ra xướng các giới đó rằng: hôm nay chúng 
            Tăng kiết giới, tôi là người cựu trú Tỳ-kheo, quen biết khu vực này, 
            xin nêu các tiêu tướng. Đông giáp mốc giới A, tây giáp mốc giới B, 
            nam giáp mốc giới C, bắc giáp mốc giới D. Đó là giới trường để mỗi 
            khi thuyết giởi, thọ giới v.v... thì tụng giới, tác pháp sự, giới 
            trường nhỏ nhất, hẹp nhất cũng phải đủ chỗ cho 21 người ngồi để 
            phòng khi xuất tội Tăng tàn. Nếu rộng nữa càng tốt. Từ giới trường 
            trở ra là tướng bên trong của đại giới. Nhưng kiết đại giới rộng 
            nhất cũng chỉ là 10 câu-lô-xá, tức 18 km và Ni là 1,8 km. Đại giới 
            hẹp nhất là một chùa, một trú xứ. Đại giới còn gọi là nhiếp Tăng 
            giới. Nếu có công việc gì của chúng Tăng trong đại giới thì chúng 
            Tăng phải tham dự, nếu không tham dự chính thức thì phải dữ dục. Nếu 
            không tham dự và không dữ dục là mắc tội biệt chúng, còn ai ở ngoài 
            đại giới thì thôi. Nếu trường hợp có một khách ở trong đại giới, khi 
            thuyết giới không báo cho thầy ấv biết để dự, hoặc có báo mà thầy 
            không dự và không dữ dục mà thuyết giới là mắc lội kiết-ma phi tướng. 
            Cho nên trong Luật nói tính chất hòa hợp, nhưng hòa hợp triệt để chứ 
            không phải lấy tính cách thiểu số phục tùng đa số như hội nghị thông 
            thường. 
 
          
          
            
-             b- 
            Thuyết giới, thọ giới đều nằm trong giới trường: 
 
          
          
            
-             Còn 
            các việc khác không vô giới trường mà tập Tăng ở chỗ nào trong đại 
            giới làm cũng được. Thí dụ, kiết-ma làm sạch và xanh môi trường nhà 
            chùa đang sống, thì khi tập Tăng lại và tuyên bố, sáng nay xin chúng 
            Tăng ra trồng cây là được, không cần vào giới trường. 
 
          
          
            
-             c- 
            Ngoài ra còn có tự nhiên giới (tức tiểu giới): 
 
          
          
            
-             Ngoài 
            đại giới, khi đi đâu đó, gặp ngày Bố-tát thì quây quần lại, ngồi 
            vòng quanh sát nhau lấy đó làm khu vực giới để thuyết giới hay để tự 
            tứ. Xong việc rồi, xả bỏ đi, tức lấy mình làm mốc giới, chứ không 
            phải lấy cái mốc này, mốc kia làm ranh giới gì cả; đó gọi là tìểu 
            giới trong tự nhiên giới. Nếu khi kiết tiểu giới mà có một số người 
            cùng đi không đồng ý, thì mình tìm ai đồng ý quây quần nhau lại mà 
            kiết tiểu giới hay tự tứ, xong rồi thì giải tiểu giới ấy đi. Đó là 
            kiết tiểu giới.  
 
          
          
            
-             Khi 
            kiết thì kiết giới trường truớc, kiết đại giới sau. Khi xả thì xả 
            đại giới trước, xả giới trường sau. Như khi mặc áo thì áo trong 
            trước, áo ngoài sau; khi cởi thì cởi áo ngoài trước, áo trong sau.
            
 
          
          
            
-             04-  
            Thất diệt tránh
 
          
          
            
-             Tức là 
            bảy cách thức chấm dứt sự tranh cãì giữa chúng Tăng. Chúng Tăng 
            thường có 4 sự tranh cãi là: 
 
          
          
            
-             a- 
            Ngôn tránh: Tranh cãi về pháp tướng đúng hay sai. Do sự tranh cãi ấy 
            mà khởi lên sự bất hòa trong Tăng chúng, gồm có 18 việc đưa đến 
            tranh cãi. 
 
          
          
            
-             b- 
            Mích tránh: Do sự tìm lỗi của người khác mà khởi lên tranh cãi, nhân 
            khi dùng ba cách cử tội là bất kiến cử, bất sám cử và bất xả cử để 
            xét tìm tội thuộc phá giới, phá kiến hay phá oai nghi do thấy, nghe, 
            hay nghi.  
 
          
          
            
-             c- 
            Phạm tránh: Tức bình luận sự phạm giới của ông Tỳ-kheo hư hay thật, 
            đúng hay không đúng; có thật hay chỉ là sự đồn đại mà ra... 
            
 
          
          
            
-             d- Sự 
            tránh: Tranh cãi về việc kiết-ma như vậy như pháp hay không như pháp. 
            Ví dụ, việc như vậy nên bạch nhị, bạch tứ kiết-ma hay đơn bạch; bạch 
            như vậy là đúng pháp hay phi pháp. 
                        Do bốn việc vừa nêu mà khởi lên tranh cãi. Muốn chấm dứt 
            sự tranh cãi đó, phải dùng bảy phương pháp sau đây để chấm dứt sự 
            tranh cãi (diệt tránh: chấm dứt sự tranh cãi): 
                        I- 
            Ưng dữ hiện tiền Tì-ni đương dữ hiện tiền Tì-ni:  
          
          
            
-             Hay 
            nói tắt là hiện tiền Tì-ni, cũng có từ khác nữa là Diện tiền chỉ 
            tránh luật, tức luật chấm dứt sự tranh cãi giữa hiện diện. 
            
 
          
          
            
-             Hiện 
            tiền Tì-ni là gì? Là có vụ tranh cãi và cần có vụ đối chất giữa hai 
            bên A và B. Vấn đề tranh cãi ấy phải có mặt A và B đối chất nhau để 
            giải quyết. Trong lúc hiện tiền, cần dẫn chứng lời dạy trong kinh 
            Phật hoặc dẫn Luật để xét đoán việc tranh cãi có đúng với Kinh pháp 
            hay không đúng với kinh pháp của Đức 
            Phật. Đem lời pháp của Đức
            Phật để giải quyết sự 
            tranh cãi đó. Thí dụ: Bữa kia, có người ăn cơm không hết và sau đó 
            đem đổ, người khác lại không có ăn nên chúng Tăng đem ra cãi nhau. 
            Khi ấy phải dẫn Kinh ra để thuyết phục: “Thầy nên biết, trong phép 
            Lục hòa có lợi hòa đồng quân, thầy không giữ phép Lục hòa, không 
            chia cho người khác, như vậy là không đúng”. Chỉ cho hai bên thấy để 
            chấm dứt sự tranh cãi. 
 
          
          
            
-             
            II- Ưng dữ ức niệm 
            Tì-ni đương dữ ức niệm Tì-ni: 
 
          
          
            
-             Cũng 
            gọi là ức chỉ tránh luật. Đây là Luật nhắc nhở người phạm biết mình 
            làm, để chấm dứt việc tranh cãi. Ví dụ: Trong khi cãi nhau về chuyện 
            có tội hay không có tội, trước hết phải người có tội nên nhớ lại. 
            Vậy nên hỏi: “Thầy nhớ lại thầy có phạm tội hay không phạm. Nếu thầy 
            nhớ là thầy không phạm mà chúng Tăng cứ gạn hỏi hoài, thì thầy xin 
            Tăng bạch tứ kiết-ma cho thầy nhớ lại (ức niệm)”. Từ đó cho qua, 
            không ai được phép hỏi. Cho qua trong trường hợp thầy đó sống nghiêm 
            túc sống đúng luật, có hạnh, có tu, sống gần thiện tri thức, chứ còn 
            thầy đó sống bê tha, thiếu nghiêm túc... hỏi thầy, thầy nói tôi 
            không nhớ thì không cho qua được. 
 
          
          
            
-             
            III- Ưng dữ bất si 
            Tì-ni đương dữ bất si Tì-ni: 
 
          
          
            
-             Cũng 
            gọi là bất si chỉ tránh luật. Chấm dứt sự tranh cãi bằng bất si. Tức 
            người phạm giới trong lúc tinh thần bị bấn loạn, bất thường, bị thần 
            kinh, thì phải kiết-ma bất si Tì-ni để chờ khỏi bệnh mới đem xét để 
            thầy sám hối, chứ bây giờ thầy đang lên cơn điên mà đem ra xét (bất 
            si) thì không xét được. Khi nào thấy tỉnh rồi mới xét. 
 
          
          
            
-             
            IV- Ưng dĩ tự ngôn trị 
            đương dữ tự ngôn trị: 
 
          
          
            
-             Cũng 
            gọi là tự phát lộ chỉ tránh luật. Ngôn trị đây là để người đó tự nói 
            lên cái lỗi của mình phạm mà trị. Có những lỗi tự nói lên là có thể 
            theo đó mà xử không cần gạn hỏi, tra vấn, ép bức. 
 
          
          
            
-             
            V- Ưng dữ mích tội 
            tướng, đương dữ mích tội tướng: 
 
          
          
            
-             Cũng 
            gọi là cư chỉ tránh luật. Tức người phạm tội không nói tội của họ ra, 
            cứ nói quanh co, mâu thuẫn, lộn ngược lộn xuôi, nói điên đảo. Khi đó 
            phải nêu từng tướng một thầy ấy phạm, phải lý giải tội không thể 
            chối cãi của thầy ra để bắt thầy nhận tội. Ví dụ tội ăn cắp. Khi hỏi 
            thầy có ăn cắp không, thầy ấy chối và nói không ăn cắp. Bây giờ 
            chúng Tăng phải trưng bằng chứng: “Bữa đó tới chỗ đó, khi thầy đi ra 
            người ta mất đồ. Bữa trước thầy không có tiền, nay thầy lấy tiền đâu 
            mà mua cái này, sắm thứ nọ, vậy tiền đâu thầy có?”. Phải trưng bằng 
            cớ để xét tội ăn cắp của vị ấy. Người bị như vậy phải phạt tội suốt 
            đời, không cho vị ấy làm 8 việc như độ người xuất gia, nhận nuôi 
            người, làm y chỉ...  
 
          
          
            
-             
            VI- Đa nhân mích tội, 
            ưng dữ đa nhân mích tội tướng đương dữ đa nhân mích tội tướng: 
            Cũng gọi là triển chuyển chỉ tránh luật, nghĩa là Luật ngăn dứt 
            tranh cãi bằng cách triển chuyển. Triển chuyển là thế nào? Tức là 
            hai bên tranh nghị nhau mãi, không làm sao giải quyết được hết. Vậy 
            bây giờ tập trung các vị Tăng hữu đức lại mà thẩm đỉnh tội đó, lấy ý 
            kiến đa số, phạm như thế nào thì y như vậy mà xử. 
 
          
          
            
-             
            VII- Ưng dữ như thảo 
            phú đia đương dữ như thảo phú đia: 
 
          
          
            
-             Hoặc 
            gọi như khí phấn tảo chỉ tránh luật. Luật chấm dứt sự tranh cãi y 
            như vứt miếng vải rách. Câu này có hai cách cắt nghĩa: 
 
          
          
            
-             a) Khi 
            hai bên đều tỉnh lại cả, hai bên đều nhận lỗi cả, thì lỗi đó đều bị 
            vứt đi như miếng vải rách vứt xuống đất. 
 
          
          
            
-             b) Hai 
            bên đều có lỗi (lỗi nhẹ), lỗi tùm lum, nếu khươi ra thì nó lắm 
            chuyện, không làm sao xử được. Thôi thì như lấy cỏ lấp đất trên mặt 
            cho yên, hoặc như thảo phú địa.  
 
          
          
            
-             Đó là 
            thất diệt tránh.   
 
          
          
            
-            
            Còn trong đời sống 
            chúng ta hịện giờ, có một số việc nó đi ra ngoài, tuy không phạm 
            Kinh phạm Luật gì lắm. Ví dụ: Tổ chức Giáo hội, tổ chức đoàn thể mà 
            cãi thì đem Luật nào để xử! Khó lắm. Cho nên ta phải biết, khi nói 
            về Giới luật, ta đem giới luật để nói, còn khi nói về Giáo hội, tổ 
            chức hành chánh thì ta đem Giáo hội, tổ chức hành chánh để nói, 
            không hẳn đem Giới luật ra mà nói đưọc. Tỉ dụ như chuyện thọ giới. 
            Chúng Tăng truyền thọ Cụ túc khi kiêt-ma thì không cho Ni, cư sĩ dự 
            vào. Nhưng mở một Đại hội Phật giáo gồm cả Tăng, Ni, cư sĩ, bầu Ban 
            trị sụ, giải quyết một việc gì trong Ban trị sự không có Ni, không 
            có cư sĩ không được. Cho nên nói Giới luật là chỉ để giải quyêt về 
            vấn đề giới luật, còn tổ chức thì là nguyên tắc của hành chánh. Vì 
            trong Luật có chỗ nào nói bầu Ban trị sự đâu. Cho nên Luật nói Luật, 
            nguyên tắc hành chánh nói nguyên tắc hành chánh thì mới không phức 
            tạp. 
 
          
          
            
-             05-  
            Kiết-Ma 
 
          
          
            
-             Kiết-ma, 
            tiếng Phạn là Kamla, nghĩa là nghiệp. Nghiệp trong kinh Đức Phật dạy 
            là, việc gì mình làm có dụng ý, cố ý làm thì thành nghiệp; nếu làm 
            vô tâm thì không thành nghiệp. 
                        Do vậy, bất cứ cá nhân, đoàn thể hễ có động tác hành, có 
            động tác làm đều gọi là nghiệp. Nếu trong đoàn thể tập họp, biểu 
            quyết một việc gì đó cũng là một hành động, cũng gọi là nghiệp. Vì 
            vậy trong Luật, Phật dùng chữ kiết-ma. Kiết-ma coi như là một phương 
            thức biểu quyết để xử lý mọi công việc Nếu mọi công việc của chúng 
            Tăng mà không đi qua sự biểu quyết này thì công việc không thành, 
            hay có ép thành cũng không hợp pháp. Cho nên Luật định nghĩa chữ 
            Kiết-ma là tác pháp biện sự. Vì vậy, cá nhân tụng kinh cũng là 
            nghiệp, thuyết giới cũng là nghiệp, dự việc chung của chúng Tăng 
            cũng là nghiệp; cho đến thủ tục giải quyết công việc chung của chúng 
            Tăng gọi là kiết-ma, cũng là nghiệp.  
          
          
            
-             06-  
            Điều kiện của Kiết-ma 
 
          
          
            
-             Muốn 
            kiết-ma một việc gì thì phải có một thủ tục biểu quyết. Do đó, kiết-ma 
            còn được hiểu là một phương thức, một phương pháp hay là một thủ tục 
            biểu quyết. Muốn biểu quyết thì cần phải có bốn điều kiện: pháp, 
            nhân, sự và xứ. 
 
          
          
            
-            
            A- Pháp
            
 
          
          
            
-             Vậy 
            Pháp là gì? 
 
          
          
            
-             Là 
            nguyên tắc, thủ tục, phương thức kiết-ma. Luật Tứ phần nói có 3 cách 
            thức biểư quyết: đơn bạch, bạch nhị và bạch tứ. Trong luật Tăng kỳ 
            thêm mộl điều nữa là cầu thính. Tức trước khi đem một chuyện gì đó 
            ra đơn bạch, bạch nhị, bạch tứ phải cầu thính, tức phải thưa trước 
            vị chủ trì trong chúng kiết-ma đó biết. Hoặc muốn nêu tội của ai thì 
            cũng nói trước người đó biết, chứ không nêu sự việc lên một cách đột 
            ngột; nếu báo cho vị chủ trì biết (chủ pháp sự) hay bỉnh pháp biết, 
            là để tránh câu chuyện thưa ra sẽ bị động, tác hại tâm lý không ổn 
            trong chúng, cần phải tránh. 
 
          
          
            
-             - Đơn 
            bạch: Là vấn đề gì muốn làm, chỉ cần trình ra cho đại chúng biết, 
            chứ không cần lấy ý kiến biểu quyết. Ví dụ: Trong giới đàn mà thỉnh 
            giáo thọ, thì chỉ cần nói: Đại đức Tăng thính, kim thời đáo Tăng sai 
            vị Tỳ-kheo tên A, tên B làm giáo thọ. Bạch như thị, chứ không có 
            kiết-ma thành phủ. Nghĩa là không cần lấy ý kiến biểu quyết. Thí dụ 
            khác là Tự tứ, thì bạch: Hôm nay chúng Tăng Tự tứ, xin trình cho 
            chúng Tăng biết gọi là đơn bạch. Đơn bạch cũng là một hình thức biểu 
            quyết dành cho những việc thông thường.  
 
          
          
            
-             - Bạch 
            nhị: Bạch nhị là một vấn đề đưa ra cần lấy ý kiến. Việc đưa ra này 
            có hơi quan trọng nhưng không quan trọng lắm. Tức một vài vấn đề đưa 
            ra giữa chúng Tăng và xin kiết-ma thành phủ, tức là ai đồng ý việc 
            đó thì im lặng, ai không đồng ý xin nói lên. Công thức là: một lần 
            bạch, một lần kiết-ma, gọi là bạch nhị. 
 
          
          
            
-             - Bạch 
            tứ: Có những vấn đề quan trọng hơn, lấy ý kiến một lần chưa đủ, phải 
            lấy ý kiến ba lần, gọi là bạch tứ (một lần bạch, ba lần kiết-ma). 
            Thí dụ, một vấn đề đưa ra như: thọ đại giới chẳng hạn (một lần bạch), 
            xong rồi kiết-ma: Tôi xin hỏi sự việc như vậy, ai đồng ý thì im lặng, 
            ai không đồng ý thì nói lên (l lần), rồi kiết-ma lần hai, lần ba 
            cũng như vậy. Công thức: một bạch, ba lần kiết-ma, nên gọi là bạch 
            tứ. 
 
          
          
            
-             Trong 
            Bạch nhất kiết-ma có nêu: Đơn bạch có 24 sự việc, Tứ phần luật nên 
            có 40, Kiết-ma chỉ nam nêu có 44. Bạch nhị có nêu ra 47 sự việc. 
            Bạch tứ có nêu 30 sự việc, Tứ phần luật nêu 38, Kiết-ma chỉ nam nêu 
            39. Ngoài đơn bạch, bạch nhị, bạch tứ như vậy gọi là Tăng bỉnh kiết-ma 
            (bỉnh là cầm), là thứ kiết-ma giữa chúng Tăng. Đơn bạch cũng là loại 
            bạch giữa chúng Tăng đông người, bốn người trở lên). Bạch nhị, bạch 
            tứ cũng vậy. Nhưng trường hợp chỉ có 3 người, hai người, một người 
            thì sao? 
 
          
          
            
-             Có hai 
            cách: một là đối thú và hai là tâm niệm: 
 
          
          
            
-             1- Tâm 
            niệm là trường hợp một người, một cá nhân. Ví dụ: Phạm tội 
            Đột-kiết-la chỉ tâm niệm sám hối là hết tội. Tâm niệm pháp có 3 cách:
            
 
          
          
            
-             - Đản 
            tâm niệm: Là chỉ có mình tâm niệm với mình mà thôi, vì vấn đề nhỏ.
            
 
          
          
            
-             - Đối 
            thú tâm niệm: Vấn đề cần đối thú (hai đến ba người). Ví dụ: Kiết 
            giới Tự tứ cần đối thú trước người khác mà nói lên, nhưng ở trong 
            nội giới không có ai để cho mình đối thú hết, buộc lòng phải tâm 
            niệm, gọi là đối thú tâm niệm. 
 
          
          
            
-             - 
            Chúng pháp tâm niệm: Việc này đáng phải đối giữa chúng mà làm, nhưng 
            bây giờ ở trong nội giới đơn độc một mình, không có chúng để làm nên 
            phải tâm niệm. Như tâm niệm kiết giới, tâm niệm Tự tứ. Tâm niệm Tự 
            tứ là không có ai, còn nếu có thì bỏ tâm niệm để làm đúng theo đối 
            thú hay chúng pháp. 
 
          
          
            
-             2- Đối 
            thú kiết-ma có 2 trường hợp: 
 
          
          
            
-             - Đản 
            đối thú: Thí dụ, một người phạm hối quá pháp, phạm Ba-dật-đề thì chỉ 
            cần đối với một người có thể sám hối là hết tội. 
 
          
          
            
-             - 
            Chúng pháp đối thú: Vấn đề cần đối thú giữa chúng mà sám hối, nhưng 
            nội giới không có chúng để đối thú, vì vậy phải chúng pháp đối thú (đối 
            giữa hai người mà làm, vì không đủ bốn người). Dầu có đối thú tâm 
            niệm, là đối thú khi mình đối trước người khác, cũng phải nói: Trước 
            Tam Bảo, con hôm nay có phạm lỗi Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề, hối quá pháp, 
            con xin sám hối. Trong khi An cư, thọ thuyết tịnh, thọ dược, thọ 
            thất nhật... là việc phải đối thú. Ví dụ: Khi thọ An cư, mặc dầu 
            chúng rất đông nhưng chỉ đối thú một người (vị chủ pháp sự) chứ 
            không phải giữa chúng. Tuy đông, nhưng chỉ đối ngay một người mà thọ 
            An cư, chứ không phải đối cả chúng. Khi đối thú phải nói lên, nếu 
            không nói thì bất thành. 
 
          
          
            
-             Chúng 
            pháp tâm niệm: điều này có nghĩa nguyên phải đối giữa chúng Tăng mà 
            nói ra, nhưng trong nội giới không có chúng, đơn độc một mình, cho 
            nên tâm niệm mà miệng phải nói lên (như thuyết giới, Tự tứ). 
            
 
          
          
            
-             Gọi là 
            đối thú thì phải từ một đến 3 người. Nếu một người thì gọi là tâm 
            niệm, còn bốn người trở lên gọi là chúng pháp. 
 
          
          
            
-            
            B- Nhân
            
 
          
          
            
-             Tức 
            nói về Tăng số. Sự việc đem ra kiết-ma cần bao nhiêu người. Nếu đẳng 
            tâm niệm thì một người, việc đối thú thì 2 hoặc 3 người; việc thuyết 
            giới thì 4 người; việc biên địa thọ giới, tức nơi ít Tăng thì 5 
            người; việc nơi nhiều Tăng, Tăng đông, khi thọ Cụ túc giới thì phải 
            mười người, tức trung quốc thọ giới, nếu không đủ thì bất thành. 
            Việc kết tội thì chỉ cần 4 người và xuất tội Tăng tàn phải giữa 20 
            người. Về phía Ni thì xuất tội Tăng tàn đều phải đủ 20 Tăng và 20 
            Ni, thành 40 người. 
 
          
          
            
-             Nhưng 
            người nào được kể đủ trong số đó? Một nguời là tâm niệm. Tăng 2, 3 
            người là đối thú; Tăng 4 người thì chỉ trừ việc thọ đại giới, tự tứ, 
            còn tất cả việc khác đều có thể kiết-ma làm được hết. Tăng 5 người, 
            thì trừ xuất tội Tăng tàn và trung quốc thọ giới ra, tất cả việc 
            khác đều có thể làm được hết. Tăng 10 người thì trừ việc xuất tội 
            Tăng tàn, còn tất cả việc khác đều làm được hết. Tăng 20 người thì 
            tất cả mọi kiết-ma đều làm được hết. 
 
          
          
            
-             Tăng 
            như thế nào mới tham dự đơn bạch, bạch nhị, bạch tứ đó?      Có 4 
            trường hợp: 
 
          
          
            
-             1- 
            Tăng mãn số bất khả ha: 
 
          
          
            
-             Trường 
            hợp Tăng mãn số bất khả ha. Ví dụ: Trường hợp kiết-ma Ha-trách một 
            vị Tỳ-kheo nào phạm tội hay để tẩn xuất một vị Tỳ-kheo phạm tội, thì 
            tuy vị Tỳ-kheo đó phạm tội nhưng khi Tăng chưa kiết-ma xử trị thì 
            ông đó vẫn là Tăng và vẫn được kể vào mãn số Tăng. Đến khi kết tội 
            Ba-la-di là bất cộng trú thì ông đó không còn là Tăng, mới không kể 
            ông vô mãn số. Ví dụ ông phạm tội Tăng tàn thì ông vẫn là Tăng. Tăng 
            đương tàn nhưng vẫn là Tăng. Trong khi chúng Tăng kết tội ông thì 
            ông không có tư cách và thẩm quyền chặn kiết-ma không cho Tăng làm. 
            Đó là Tăng mãn số bất khả ha (ha: có nghĩa là ngăn, và cũng có nghĩa 
            là ngăn không cho kiết-ma, phủ nhận kiết-ma). Hoặc ông Tăng ra chọc 
            tức, quấy rầy nhà cư sĩ, bấy giờ chúng Tăng kết tội ông, ngăn không 
            cho tới nhà cư sĩ đó nữa, ông không có tư cách chặn lại không cho 
            kết tội. 
 
          
          
            
-             2- 
            Tăng mãn số khả ha: 
 
          
          
            
-             Thí dụ 
            trong lần kiết-ma đó, ai cũng thanh tịnh hết, như pháp hết, nhưng có 
            một vị Tăng không đồng ý, vị Tăng đó có quyền ngăn kiết-ma (khả ha: 
            ngăn) không cho kiết-ma đó thành, mà vị đó là một vị Tăng như pháp, 
            thanh tịnh thì mới ngăn được. 
 
          
          
            
-             3- Bát 
            mãn số khả ha: 
 
          
          
            
-             Ví dụ: 
            có một vị xin vô thọ giới giữa Thập sư. Thập sư là Tăng số Tỳ-kheo, 
            còn giới tử đó không thể kể vô số Thập sư được, nên gọi là bất mãn 
            số, nhưng khả ha. Thí dụ, Thập sư mới kiết-ma lần thứ hai, hỏi thành 
            không, thì ông nói: Thôi thôi, tôi không thọ nữa, rút lui thì Thập 
            sư cũng chịu thua (khả ha). Gọi là bất mãn số mà khả ha, tức không 
            được kể vào số trong Tăng chúng những người đó có quyền ngăn chặn 
            kiết-ma đó cho không thành tựu. Thập sư cũng chịu, kiết-ma sao được, 
            kiết-ma làm gì! 
 
          
          
            
-             4- Bất 
            mãn số bất khả ha: 
 
          
          
            
-             Ví dụ 
            như Tăng kiết-ma, bên Ni có ngồi đó cũng ngồi cho vui vậy thôi, làm 
            sao kể vào mãn số với Tăng, như vậy ha sao được. Nhưng trừ ba trường 
            hợp (Ghi chú: cho nên Đức Phật ngày xưa, nói bên Ni đừng buồn. Nhiều 
            khi các vị học chưa chu đáo, trách Đức Phật sao Ngài bất công quá, 
            bắt Ni thọ bát kỉnh pháp, gặp mấy ông thầy chi chi cũng phải Bát 
            kỉnh pháp, buồn quá! Té ra, ngày xưa Đức
            Phật khi đưa 
            Bát kỉnh pháp đó ra, bất đồ bị mấy ông Lục quần Tỳ-kheo bắt bẻ Ni đủ 
            điều đủ cách. Đụng đâu đưa ra bát kỉnh pháp nấy, làm cho Ni đau dầu 
            chịu không nổi, sau Đức
            Phật biết việc 
            đó nên khai ra ba trường hợp): 
 
          
          
            
-             - Bên 
            Tăng kiết-ma về việc của Ni phải có mặt của Ni đó. Ví dụ, thọ đại 
            giới cho Ni, Tăng kiết-ma thọ đại giới cho Ni, bên Thập sư Ni cũng 
            có mặt. 
 
          
          
            
-             - Kết 
            tội Tăng tàn của Ni, Ni cũng có mặt. 
 
          
          
            
-             - Xuất 
            tội Tăng tàn của Ni, Ni cũng có mặt. 
 
          
          
            
-             Đó là 
            ba việc của Tỳ-kheo kiết-ma cho Ni, Ni phải có mặt. Ngược lại, Ni 
            cũng có 3 trường hợp kiết-ma về Tăng là, nếu ông Tăng có điều vô lý 
            xúc phạm đến Ni, thì Ni kiết-ma không lễ bái, không cọng ngữ, không 
            cúng dường cho vị Tăng ấy. 
 
          
          
            
-             Hoặc 
            giả ông Tỳ-kheo đã bị diệt tẩn, Ni cũng kiết-ma đối với ông Tăng đó; 
            không lễ bái, không cọng ngữ, không cúng dường. Nếu Ni ủng hộ thì Ni 
            phạm tội.  
 
          
          
            
-             Trường 
            hợp có một ông Sa-di đến chùa Ni phá phách, vị Ni lớn có thể kêu ông 
            Sa-di tới khuyên răn; khuyên không được, Ni cũng có quyền kiết-ma 
            không lễ bái, không cọng ngữ, không cúng dường đối với 2 vị Hòa 
            thượng và giáo thọ của ông Sa-di đó, vì Sa-di chưa đủ 18 tuổi nên 
            hai vị Hòa thượng thọ giới cho vị Sa-di đó phải chịu trách nhiệm.
            
 
          
          
            
-            
            C- Sự
 
          
          
            
-             Là sự 
            việc. Tức nói rõ sự việc đem ra kiết-ma. Đem kiết-ma về việc gì? Sự 
            việc đem ra biểu quyết cần bao nhiêu người để sắp đặt kiết-ma. Sự 
            việc ấy cần bạch nhị hay bạch tứ? Sự vụ thì có 101 kiết-ma. Đó là 
            nêu đại khái, thật ra còn có nhiều hơn nữa, nhưng tóm lại không 
            ngoài hai loại: một là thành thiện kiết-ma; hai là trừ ác kiết-ma.
            
 
          
          
            
-             
            I- 
            Thành thiện kiết-ma: 
 
          
          
            
-             Loại 
            kiết-ma để hoàn thành công việc tốt đẹp, như công việc tiến tu đạo 
            hạnh là công việc thiện. Ví dụ, như kiết-ma thọ giới, thuyết giới, 
            an cư, tự tứ... là thành thiện. Những kiết-ma như vậy là thành thiện 
            kiết-ma. 
 
          
          
            
-             
            II- 
            Trừ ác kiết-ma: 
 
          
          
            
-             Ngược 
            lại kiết-ma trừ ác là loại kiết-ma trị tội. Ví dụ, kiết-ma trị tội 
            Đột-kiết-la, Ba-dật-đề, Đề-xá-ni, Thâu-lan-giá, Tăng tàn, Ba-la-di, 
            gọi là trừ ác. Kiết-ma trừ ác trong Luật nêu ra có 7 cách trị tội:  
            
 
          
          
            
-             1- Ha-trách 
            kiết-ma; 
 
          
          
            
-             2- Tẩn 
            xuất kiết-ma; 
 
          
          
            
-             3- Y 
            chỉ kiết-ma; 
 
          
          
            
-             4- Giá 
            bất chí bạch y gia kiết-ma; 
 
          
          
            
-             5- Bất 
            kiến cử kiết-ma; 
 
          
          
            
-             6. Bất 
            sám cử kiết-ma; 
 
          
          
            
-             7. Ác 
            kiến bất xả cử kiết-ma. 
 
          
          
            
-             
            1- Ha-trách kiết-ma
            
 
          
          
            
-             Nguyên 
            do, trong Luật có kể như sau: Có hai vị Tỳ-kheo, một tên Trí tuệ, 
            một tên Lôi-ê-na, chuyên tìm tòi chuyện hay dở của nhau để cãi cọ 
            đấu đá nhau. Việc cãi vã bằng binh khí miệng lưỡi này không còn là 
            chuyện cãi vã giữa hai người mà nó lây lan ra những người khác, 
            khiến cho việc trong chúng chưa có, bây giờ nó xảy ra, trước có ít 
            bây giờ nó tiếp tục lớn ra. Theo trong văn ta thấy có nói: Hãy tác 
            ha kiết-ma Ha-trách bạch tứ đối với hai ông Tỳ-kheo đó. Nhưng muốn 
            cử tội thì phải tuần tự: kiết-ma cử tội (nêu tội ra). Sau khi nêu 
            tội ra, hỏi thầy có nhớ tội khẩu như đao kiếm không? (tác ức niệm). 
            Khi tác ức niệm, hỏi thầy có nhận tội đó không? (tự ngôn). Nếu thầy 
            không nhận thì chúng Tăng sẽ cử tội thầy (thầy có tội ấy). Khi cử 
            tội thì phải tập Tăng, bạch tứ kiết-ma. Thí đụ: Đại đức Tăng lắng 
            nghe: nay có 2 thầy Tỳ-kheo này đã cùng nhau tìm tòi lỗi hay dở của 
            nhau, dẫn đến cãi cọ nhau, miệng tuôn ra lời như đao kiếm chém nhau, 
            nên hôm nay Tăng vì hai thầy Tỳ-kheo này tác Ha trách kiết-ma. Nếu 
            về sau vẫn chứng nào tật nấy thì sẽ gia Tăng thêm tội nữa. Bạch như 
            thị (kính trình như vậy) xong rồi mới ba lần kiết ma Ha-trách. Người 
            bị tội Ha-trách trong thời gian chưa giải tội chưa sám hối thì không 
            được làm thầy y chỉ cho người, không được thuyết giới, không được 
            thọ đại giới cho người. Tăng có sai đi giáo thọ cho Ni cũng không 
            được nhận. Ở giữa chúng Tăng có hỏi giáo lý cũng không được phép đáp, 
            Tăng sai làm cũng không được làm. Tăng có thảo luận, bình nghị về 
            giáo điển cũng không được dự vào. Nếu sau đó biết ăn năn sám hối: 
            Nay tôi xin từ bỏ, không dám miệng xuất ra lời như dao kiếm nữa, xin 
            Tăng giải tội cho. Muốn giải tội cũng phải tập Tăng kiết-ma bạch tứ 
            giải tội cho thầy. Trường hợp thầy cứ phạm mãi thì cử tội tẩn xuất, 
            không cho ở trú xứ cũ . 
 
          
          
            
-             
            2- Tẩn xuất kiết-ma
            
 
          
          
            
-             Đây là 
            phạm Tăng tàn ô-tha-gia hành ác hạnh (trong Tăng tàn có tội ô tha 
            gia hành ác hạnh, Tăng tàn thứ 12). Đó là trường hợp của 2 thầy 
            Tỳ-kheo A-tháp-bà và Phú-na-bà ở tại Kỳ-liên. Họ ăn rồi chuyên trồng 
            cây hoa lá đem tặng cho cư sĩ, cùng người nữ ngồi chung thân mật nói 
            chuyện, đờn ca xướng hát, múa may quay cuồng, đi đứng thiếu oai nghi, 
            nhìn qua liếc lại, chân trước chân sau xoay qua đá lại. Việc làm như 
            vậy ai thấy cũng chê bai (ô tha gia hành ác hạnh cu hữu kiến văn là 
            câu chuyện trong Luật có nói, là chuyện sờ sờ trước mắt, ai cũng 
            thấy, ai cũng nghe hết), nhưng cũng có một số người hoan nghênh hùa 
            theo. 
 
          
          
            
-             Thời 
            gian đó cũng có một số Tỳ-kheo ở nơi xứ Gia-thi-di-đế du hành nhân 
            gian khất thực, ai nấy nghiêm trang, mắt cứ nhìn thẳng mà bước, 
            không nhìn qua ngó lại, không cười giỡn. Các cư sĩ trong vùng đó bàn 
            tán: Mấy vị này ở đâu tới mà nghiêm trang, coi bộ khó thân cận quá, 
            không như hai thầy Tỳ-kheo A-thấp-bà và Phú-na-bà vui vẻ, nói cười 
            tươi tắn. Họ bèn bảo nhau: Thôi, chúng ta không cúng cho mấy ông mới 
            này nữa, mà chỉ riêng cúng cho A-Thấp-Bà và Phú-Na-Bà mà thôi. Đức 
            Phật nghe chuyện lạ quá, sai đi hỏi, mới biết cơ sự như vậy, bèn bảo 
            Tôn giả Xá-Lợi-Phất và Mục-Kiền-Liên đem Tăng chúng qua Kỳ-liên bạch 
            tứ kiết-ma để tẩn xuất hai thầy Tỳ-kheo A-Thấp-Bà và Phú-Na-Bà ra 
            khỏi trú xứ đó. Khi bị tẩn xuất, hai thầy còn nói lại với dân chúng 
            đó rằng: “Tôi nói cho các vị biết, ông Xá-Lợi-Phất cùng ông 
            Mục-Kiền-Liên, ông thì thuyết pháp hay, ông thì thần thông giỏi, các 
            vị nên coi chừng kẻo bị mấy ông dụ dỗ mê hoặc đó. Các ông đó dễ sợ 
            lắm. Tụi tui đi thì đi, ở nhà các vị phải canh chừng, đừng theo mấy 
            ổng”. 
                        
            3- Y chỉ kiết-ma
             
          
          
            
-             Trường 
            hợp Thầy Tỳ-kheo tên Sô-Vô-Trí mà phạm tội. Thầy xen lộn với bạch y, 
            ở chung ở chạ với họ, gần gũi với họ, không thuận theo Phật pháp. 
            Phật nghe vậy khiến các Tỳ-kheo khác kêu thầy về, sai bạch tứ kiết-ma 
            bắt phải y chỉ. Từ nay thầy phải y chỉ trú, tức là phải tìm một vị 
            Tỳ-kheo đa văn, giới đức để dựa vào mà học Luật, học pháp, để mà tu 
            hành. 
 
          
          
            
-             
            4- Giá bất chí bạch 
            y gia kiết-ma 
 
          
          
            
-             (Nhà 
            của người bạch y tức là cư sĩ). Tức kiết-ma ngăn không cho họ đến 
            nhà của người bạch y. Nguyên do là vì ở trong Mật lâm có thầy 
            Tỳ-kheo tên Thiện Pháp, thầy ở trong đó tu và được ông cư sĩ Chất Đa 
            hay đến cúng dường. Thời gian sau có Tôn giả Mục-Kiền-Liên và Xá Lợi 
            Phất đến Mật lâm thuyết pháp, ông cư sĩ nghe pháp thích thú, hoan hỉ 
            quá và mời hai vị về thọ trai cúng dường. Thế là thầy Thiện Pháp đi 
            qua nhà dòm ngó, thấy thức ăn cúng cho mình khác với cúng 2 Tôn giả, 
            liền sinh lòng ganh tức nói: Té ra ông cúng mình như vậy mà lại cúng 
            dường cho 2 vị hơn mình như thế, bèn châm chọc nhà cư sĩ rằng: Thức 
            ăn gì cũng ngon hết, cũng tốt hết, nhưng thiếu dầu ép gia vị (hồ ma-tể) 
            nên cũng hóa ra cúng đồ ăn tồi”. Thầy vừa nói vừa chắp tay sau lưng 
            đi qua đi lại. Ông cư sĩ nghe vậy cũng nói lại: Thầy này lạ chưa, 
            nghe thầy tu hành giữ giới hạnh, tu thiền định, theo chánh pháp sao 
            thầy nói gì mà hà tiện vậy, chẳng khác gì một nước không có gà, rồi 
            một người đem một con gà mái tới cho rập với con quạ đen sinh ra gà 
            nhưng mà nửa gà nửa quạ kêu Ô kê (gà quạ). Phật nghe chuyện đó, sai 
            người gọi về, họp chúng lại, kiết-ma cử tội Giá bất chí bạch y gia. 
            Thường thường đi khất thực thì thứ đệ khất thực, không phân biệt, 
            bình đẳng khất thực, ai cho gì lấy nấy, trừ các đồ sống và đồ hạt 
            sống, từ nhà này đến nhà khác, không cho thì đi, chứ không phải 
            người ta mới bước ra cửa đem đồ cho lại xông vào nhà liền. Trong 
            Luật nói: Đó là tác bất ưng tác, nghĩa là làm việc không nên làm. 
            Phép khất thực thì đến trước nhà người im lặng, có cho thì lấy, 
            không cho thì đi qua nhà khác, không phân biệt gì cả. Nhưng đối với 
            trường hợp thầy Thiện Pháp và cư sĩ Chất-
            Đa thì sao? Phải làm 
            phép kiết-ma, không cho thầy tới nhà cư sĩ này nữa, và cũng phải 
            kiết-ma cử người đến nhà cư sĩ Chất-
            Đa xin lỗi. 
            
 
          
          
            
-             Người 
            cử đi phải đủ 8 pháp: 
 
          
          
            
-             1- Đa 
            văn, có trí, 
 
          
          
            
-             2- 
            Khéo nói (thiện thuyết), 
 
          
          
            
-             3- Tự 
            mình biết mình, tức tự thân đã giải được tội rồi, 
 
          
          
            
-             4- 
            Biết ý người khác, 
 
          
          
            
-             5- 
            Biết nghe lời người khác nói, 
 
          
          
            
-             6- 
            Người đó có thể nhớ sự việc, 
 
          
          
            
-             7- 
            Không có tì vết, khuyết điểm gì, 
 
          
          
            
-             8- 
            Hiểu rõ được trong câu nói lành hay dữ. 
 
          
          
            
-             Xét 
            trong chúng, chỉ có Tôn giả A-Nan là đủ 8 điều đó nên cử đi. Tôn giả 
            A-Nan dắt thầy Thiện Pháp đi theo, nhưng bắt đứng ngoài chỗ xa xa, 
            Tôn giả A-Nan vào nhà cư sĩ Chất-
            Đa nói rằng: “Thưa ông 
            cư sĩ, ông là người trọng Phật, trọng Pháp, kính Tăng, mà có lời lẽ 
            thô lỗ như vậy, thiết tưởng cũng nên sám hối, vì đã xúc phạm đến Tam 
            Bảo. Nếu ông cư sĩ nhận lỗi và xin sám hối thì thôi, nhược bằng 
            không chịu sám hối, thì phải ra dắt thầy Tỳ-kheo phạm tội tới”. Ông 
            cư sĩ đứng ở chỗ mắt thấy nhưng tai không nghe, bảo vị ấy sám hối, 
            nhưng phải cốt để ông cư sĩ Chất-
            Đa thấy bóng dáng, 
            xong rồi trở về nhà cư sĩ nói: “Này ông cư sĩ, thầy Tỳ-kheo ấy đã 
            xin sám hối rồi. Ông cư sĩ chấp nhận thì tốt, còn không thì bắt thầy 
            đến ngay ông cư sĩ Chất-
            Đa mà sám hối (rất 
            công phu)”. 
 
          
          
            
-             Có 10 
            sự việc bị Tăng kiết-ma cấm Tăng đến nhà cư sĩ. Mười 
            sự ấy là gì? 
 
          
          
            
-             1- 
            Dùng lời nói thô tục mắng chửi cư sĩ. 
 
          
          
            
-             2- 
            Dùng các phương tiẹn làm cho kẻ bạch y tổn giảm. 
 
          
          
            
-             3- Làm 
            việc khóng có lợi ích (bất nhiêu ích sự) 
 
          
          
            
-             4- Làm 
            cho cư sĩ mất nơi cư trú . 
 
          
          
            
-             5- Làm 
            náo loạn nơi sinh hoạt của cư sĩ. 
 
          
          
            
-             6- Đối 
            trước nhà bạch y mà hủy báng Phật. 
 
          
          
            
-             7- Đối 
            trước nhà bạch y mà hủy báng Pháp. 
 
          
          
            
-             8- Đối 
            trước nhà bạch y mà hủy báng Tăng. 
 
          
          
            
-             9- Đối 
            trước bạch y nói những lời hạ tiện, mất tư cách. 
 
          
          
            
-             10- 
            Thất hứa, thất tín với cư sĩ, làm họ mất tin tưởng. 
 
          
          
            
-             
            5- Bất kiến cử kiết-ma
            
 
          
          
            
-             Thầy 
            Tỳ-kheo Xiển-đà phạm tội, chúng Tăng hỏi thầy có thấy tội không? 
            Thầy cứ một bề nói không thấy. Tăng bạch tứ kiết-ma cử tội “không 
            thấy” của thầy. Người đã bị Tăng kiết-ma. Loại này thì không được 
            thọ đại giới cho người, không được độ người, không làm y chỉ cho 
            người, không được thuyết giới. 
 
          
          
            
-             
            6- Bất sám cử kiết-ma
            
 
          
          
            
-             Thầy 
            Tỳ-kheo Xiển-đà phạm tội, chúng Tăng nói thầy phạm tội thì nên sám 
            hối. Thầy nói không sám. Chúng Tăng cử tội “bất sám” (bất sám tội cử).
            
 
          
          
            
-             
            7- Ác kiến bất xả cử 
            kiết-ma
 
          
          
            
-             (Có ác 
            kiến mà khuyên không chịu bỏ). Có thầy Tỳ-kheo Lôi-trà nói: Theo chỗ 
            tôi hiểu, dâm dục không phải là pháp chướng đạo. Các Tỳ-kheo khác 
            khuyên thầy không nên nói như vậy.          Như Lai không dạy như 
            vậy, nhưng thầy khư khư không bỏ. Phật nghe và gọi thầy tới quở 
            trách, tập chúng kiết-ma cử tội “có ác kiến mà không chịu bỏ” (ác 
            kiến bất tội cử). 
                        Tóm lại, mục đích của kiết-ma là thành thiện và ngăn 
            ngừa điều ác (trừ ác). Kiết-ma để làm gì?  
          
          
            
-             Có 3 
            loại: 
 
          
          
            
-             a) Vị 
            nhân tác kiết-ma: Đó là pháp kiết-ma nhân nơi người. Vì người mà 
            thiết lập nên gọi là vị nhân tác. Ví dụ, kiết-ma thọ giới, kiết ma 
            sám hối, kiết-ma trị tẩn. Loại này có thể phân làm hai loại: 
            
 
          
          
            
-             - Vị 
            nhân tác tư sự: Chỉ có lợi cho cá nhân chứ không phục vụ việc công. 
            Ví dụ, kiết ma thọ giới. Ai thọ giới thì người đó có lợi, ai sám hối 
            thì người đó được nhờ. 
 
          
          
            
-             - Vị 
            nhân tác công sự: Lợi ích được phổ cập cho nhiều người. Ví dụ, kiết-ma 
            thuyết giới, Tự tứ. Trong đó ai cũng được lợi ích, chứ không riêng 
            gì cho ai. 
 
          
          
            
-             b) Vị 
            pháp tác kiết-ma: Vì một pháp sự mà tác pháp kiết-ma. Ví như thuyết 
            giới, Tự tứ, kiết tập King tạng... nhờ việc này mà có lợi ích đến 
            mọi người. 
 
          
          
            
-             c) Vị 
            sự tác kiết ma: Vì một sự việc nào đó mà tác pháp kiết-ma. Ví như, 
            kiết tịnh địa, tịnh khố (để chứa đồ dùng), tịnh trù (để đồ ăn thức 
            uống)... 
 
          
          
            
-             Ngoài 
            ra còn có loại kiết-ma vị nhân, vị pháp và vị sự, như thọ công đức, 
            thuộc vị pháp và vị sự kiết-ma. Kiết giới đồng thuyết giới đồng lợi 
            dưỡng là pháp kiết-ma vị pháp, vị sự và vị nhân. Vì cả hai bên cùng 
            hòa hợp với nhau. 
 
          
          
            
-            
            D-  Xứ
            
 
          
          
            
-             Xứ 
            kiết-ma là nói về xứ kiết giới. Việc kiết giới phải có phép tắc. Ví 
            dụ kiết-ma ở đâu, phải có chỗ đàng hoàng chứ không phải bạ đâu làm 
            đó. Chỗ đàng hoàng là chỗ kiết giới. Giới có hai loại: tự nhiên giới 
            và tác pháp giới. 
 
          
          
            
-             Tự 
            nhiên giới là chỗ tự nhiên mà thành nơi cư trú của Tăng, chứ không 
            phải do kiết ma qui định, như chùa, viện, a-lan-nhã, thôn xóm. Thủy 
            giới cũng là tự nhiên giới, nhưng không phải chỗ trú xứ của Tăng.
            
 
          
          
            
-             Tác 
            pháp giới cũng gọi là nhiếp Tăng giới. Tức là giới hạn cho Tăng sinh 
            hoạt mọi việc pháp sự trong đó. Lớn thì có đại giới, giới trường; 
            nhỏ thì có tịnh trù, tịnh khố và tiểu giới để dùng trong khi đi 
            đường không thể đến trong giới trường để thuyết giới, Tự tứ. Giới 
            này do tập Tăng kiết-ma mà thành, cho nên gọi là tác pháp giới.