Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật
QUYỂN THỨ MƯỜI

Hán dịch: Pháp Sư Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Tịnh

PHẨM BỬU PHÁP ÐẠI MINH THỨ BA MƯƠI HAI

            Ðức Phật nói với Thiên Ðế: "Này Kiều Thi Ca! Nếu có thiện nam thiện nữ nghe Bát-Nhã ba la mật này rồi thọ trì thân cận đọc tụng giảng thuyết chánh ức niệm chẳng rời tâm nhứt thiêt trí, lúc lâm trận, do tụng Bát-Nhã ba la mật nên vào trong quân trận trọn chẳng mất mạng, đao tên không hại. Tại sao vậy? Thiện nam thiện nữ này mãi mãi thật hành sáu ba la mật, tự trừ đao tên dâm dục của mình cũng trừ đao tên dâm dục của người khác, tự trừ đao tên sân khuể của mình cũng trừ đao tên sân khuể của ngưòi khác, tự trừ đao tên ngu si của mình cũng trừ đao tên ngu si của người khác, tự trừ đao tên tà kiến cũng trừ đao tên tà kiến của người, tự trừ đao tên triền cấu cũng trừ đao tên triền cấu của người, tự trừ đao tên kiết sử cũng trừ đao tên kiết sử của người.
            Này Kiều Thi Ca! Do nhơn duyên này nên thiện nam thiện nữ này chẳng bị đao tên làm hại.
            Lại này Kiều Thi Ca! Thiện nam thiện nữ nghe Bát-Nhã ba la mật này thọ trì thân cận đọc tụng giảng thuyết chánh ức niệm chẳng rời tâm nhứt thiết trí, tất cả những độc những ác như thuốc độc, cổ độc, hầm lửa, nước sâu, dao chém đều không làm hại được.
            Tại sao vậy? Vì Bát-Nhã ba la mật này là đại minh chú, là vô thượng chú.
            Nếu thiện nam thiện nữ học đại minh chú này thời chẳng tự não hại lấy thânÕ mình, cũng chẳng não hại người khác, cũng chẳng não hại cả mình và người.
            Tại sao vậy? Vì thiện nam thiện nữ này chẳng thấy có ngã, chẳng thấy có chúng sanh, nhẫn đến tri giả kiến giả đều bất khả đắc. Chẳng thấy có sắc nhẫn đến chẳng thấy có nhứt thiết chủng trí.
            Vì chẳng thấy có, nên chẳng tự não hại thân mình, chẳng ão hại người khác, cũng chẳng não hại cả mình lẫn người.
            Vì học đại minh chú này nên được vô thượng bồ đề, quán của tất cả chúng sanh mà tùy ý thuyết pháp.
            Tại sao vậy? Vì quá khứ chư Phật học đại minh chú này đã được vô thượng bồ đề, vị lai chư Phật học đại minh chú này sẽ được vô thượng bồ đề, hiện tại chư Phật học đại minh chú này được vô thượng bồ đề.
            Lại này Kiều Thi Ca! Nếu có người chỉ biên chép quyển kinh Bát-Nhã ba la mật này mà thờ nơi nhà, chớ không thọ trì không đọc tụng chẳng giảng thuyết chẳng chánh ức niệm, tất cả hàng nhơn phi nhơn không thể phá hại chỗ đó được.
            Tại sao vậy? Vì Bát-Nhã ba la mật này được tất cả chư Thiên Vương, chư Phạm Vương cùng chư Thiên trong Ðại Thiên Thế Giới và trong vô số vô lượng thế giới mười phương đồng thủ hộ.
            Chỗ thờ Bát-Nhã ba la mật này chư Thiên đều đến cúng dường kính trọng tán thán lễ lạy rồi đi.
            Chỉ có biên chép Bát-Nhã ba la mật để thờ tại nhà, mà thiện nam thiện nữ ấy còn được công đức hiện đời như vậy.
            Ví như hoặc có người hoặc có súc vật đến dưới cây bồ đề, thời hàng nhơn phi nhơn mang ác ý đến không làm hại được.
            Tại sao vậy? Vì chỗ cây bồ đề này là nơi mà quá khứ chư Phật được vô thượng bồ đề, vị lai chư Phật và hiện tại chư Phật cũng ở nơi đó được vô thượng bồ đề. Khi được thành Phật rồi, đều bố thí sự không kinh sợ cho tất cả chúng sanh, làm cho vô lượng vô số chúng sanh được phước lạc trong người trên trời, cũng làm cho vô lượng vô số chúng sanh được quả Tu Ðà Hoàn đến quả vô thượng bồ đề.
            Do oai lực của Bát-Nhã ba la mật, nên chỗ ấy được cung kính lễ bái cúng dường.
            Thiên Ðế thưa: "Bạch đức Thế-Tôn! Nếu có thiện nam thiện nữ biên chép cúng dường Bát-Nhã ba la mật, hoặc có thiện nam thiện nữ sau khi đức Phật nhập diệt xây tháp cúng dường xá lợi, hai người này ai được phước nhiều?
            Ðức Phật nói: "Này Kiều Thi Ca! Ta hỏi lại ngài tùy ý ngài đáp.
            Do học đạo gì mà Phật được vô thượng bồ đề cùng thân tướng hảo này?
            Thiên Ðế thưa: "Bạch Thế-Tôn! Do học trong Bát-Nhã ba la mật mà đức Phật vô thượng bồ đề cùng thân tướng hảo đoan nghiêm.
            Ðức Phật nói: "Ðúng như vậy! Này Kiều Thi Ca! Ðức Phật từ trong Bát-Nhã ba la mật mà học được nhứt thiết chủng trí.
            Này Kiều Thi Ca! Chẳng phải do thân tướngÕ hảo mà gọi là Phật. Chính là do được nhứt thiết chủng trí nên gọi là Phật.
            Này Kiều Thi Ca! Thân của Phật đây là chỗ sở y của nhứt thiết chủng trí. Nhơn nơi thân này mà Phật được nhứt thiết chủng trí. Nên nghĩ rằng thân của đức Phật đây là chỗ sở y của nhứt thiết chủng trí. Vì thế nên sau khi Phật nhập Niết-Bàn, xá lợi sẽ được cúng dường.
            Lại này Kiều Thi Ca! Nếu Thiện nam thiện nữ nghe Bát-Nhã ba la mật này rồi biên chép thọ trì thân cận đọc tụng chánh ức niệm cung kính cúng dường tôn trọng tán thán, thời tức là cúng dường nhứt thiết chủng trí.
            Do cớ này nên thiện nam thiện nữ nên biên chép Bát-Nhã ba la mật này, rồi hoặc thọ trì thân cận đọc tụng chánh ức niệm kính trọng cúng dường tán thán.
            Sau khi đức Phật nhập Niết-Bàn, nếu có thiện nam thiện nữ xây tháp cúng dường xá lợi kính lễ tán thán.
            Lại có thiện nam thiện nữ biên chép thọ trì Bát-Nhã ba la mật này và kính trọng cúng dường tán thán, thời được phước rất nhiều.
            Tại sao vậy? Vì trong Bát-Nhã ba la mật này xuất sanh nội không đến vô pháp hữu pháp không, xuất sanh tứ niệm xứ đến mười tám pháp bất cộng, xuất sanh tất cả tam muội tất cả thiền định tất cả đà la ni. Thành tựu chúng sanh thanh tịnh Phật độ đều xuất sanh từ trong Bát-Nhã ba la mật này. Bồ-Tát thành tựu tất cả công hạnh cũng từ trong Bát-Nhã ba la mật này. Tất cả phước quả của loài người cùng cõi trời đến Sắc Cứu Cánh Thiên đều từ Bát-Nhã ba la mật này sanh. Những Thánh quả từ Tu Ðà Hoàn đến chư Phật và nhứt thiết chủng trí của chư Phật đều từ trong Bát-Nhã ba la mật này xuất sanh.
            Thiên Ðế thưa: "Bạch đức Thế-Tôn! Người Diêm Phù Ðề chẳng cúng dường kính trọng tán thán Bát-Nhã ba la mật, phải chăng vì họ chẳng biết cúng dường thời được nhiều lợi ích?
            Ðức Phật nói: "Này Kiều Thi Ca! Trong Diêm Phù Ðề, đối với Phật, Pháp và Tăng có bao nhiêu người có lòng tin bất hoại? Có bao nhiêu người không nghi? Có bao nhiêu người quyết liễu?
            Thiên Ðế thưa: "Bạch đức Thế-Tôn! Ðối với Phật, Pháp và Tăng, trong Diêm Phù Ðề ít người có lòng tin bất hoại, cũng ít người không nghi và quyết liễu.
            Ðức Phật nói: "Này Kiều Thi Ca! Trong Diêm Phù Ðề có bao nhiêu người được ba mươi bảy phẩm trợ đạo, ba môn giải thoát, tám bội xả, chín thứ đệ định, bốn trí vô ngại, sáu thần thông?
            Trong Diêm Phù Ðề có bao nhiêu người dứt ba kiết sử được đạo Tu Ðà Hoàn? Bao nhiêu người dứt ba kiết sử cũng mỏng tham sân si được đạo Tư Ðà Hàm? Bao nhiêu người dứt năm hạ phần kiết được đạo A Na Hàm? Bao nhiêu người dứt năm thượng phần kiết được đạo A La hán? Bao nhiêu người cầu đạo Bích Chi Phật? Bao nhiêu người phát tâm vô thượng bồ đề?
            Thiên Ðế thưa: "Trong Diêm Phù Ðề ít người được ba mươi bảy phẩm trợ đạo, nhẫn đến ít người phát tâm vô thượng bồ đề.
            Ðức Phật nói: "Ðúng như vậy. Này Kiều Thi Ca! Trong Diêm Phù Ðề ít người đối với Phật, Pháp, Tăng có lòng tin bất hoại không nghi và quyết liễu. Cũng ít người được ba mươi bảy phẩm trợ đạo, nhẫn đến ít người phát tâm vô thượng bồ đề.
            Trong những người phát tâm này lại ít người thật hành Bồ-Tát hạnh.
            Tại sao vậy? Vì những chúng sanh trong Diêm Phù Ðề, đời trước của họ chẳng thấy Phật, chẳng nghe Pháp, chẳng cúng dường Tỳ Kheo Tăng, chẳng bố thí, chẳng trì giới, chẳng nhẫn nhục, chẳng tinh tấn, chẳng thiền định, chẳng trí huệ, chẳng nghe nội không đến vô pháp hữu pháp không, chẳng nghe chẳng tu tứ niệm xứ đến bất cộng pháp, chẳng nghe chẳng tu những môn tam muội những môn đà la ni, cũng chẳng tu nhứt thiết trí và nhứt thiết chủng trí.
            Do cớ trên đây nên chúng sanh tin bất hoại nơi tam bảo, nhẫn đến ít người phát tâm vô thượng bồ đề.
            Trong những người phát tâm lại ít người thật hành Bồ-Tát đạo.
            Trong những người thật hành Bồ-Tát đạo lại ít người được vô thượng bồ đề.
            Này Kiều Thi Ca! Ta dùng Phật nhãn thấy trong những thế giới phương đông có vô lượng vô số chúng sanh phát tâm vô thượng bồ đề thật hành Bồ-Tát đạo, nhưng vì xa lìa sức phương tiện Bát-Nhã ba la mật nên có rất ít người được an trụ bực bất thối chuyển, còn phần nhiều thời sa vào hàng Thanh Văn Bích Chi Phật. Trong chín phương kia cũng như vậy.
            Vì thế nên thiện nam thiện nữ phát tâm cầu vô thượng bồ đề phải nghe Bát-Nhã ba la mật và phải thọ trì thân cận đọc tụng giảng thuyết chánh ức niệm. Xong rồi lại phải biên chép cung kính tôn trọng tán thán và cúng dường Bát-Nhã ba la mật.
            Những thiện pháp khác vào trong Bát-Nhã ba la mật cũng phải nghe thọ trì nhẫn đến cúng dường. Những gì là thiện pháp khác? Chính là đàn na ba la mật đến thiền na ba la mật, nội không đến vô pháp hữu pháp không, những tam muội môn, đà la ni môn, tứ niệm xứ đến bất cộng pháp, đại từ đại bi.
            Vô lượng thiện pháp như vậy đều vào trong Bát-Nhã ba la mật cũng phải nghe thọ trì nhẫn đến chánh ức niệm và tán thán cúng dường.
            Thiện nam thiện nữ phải nghĩ rằng lúc làm Bồ-Tát, đức Phật học và thật hành Bát-Nhã ba la mật cùng vô lượng thiện pháp như vậy. Chúng tôi cũng phải tùy học như vậy.
            Tại sao vậy? Vì Bát-Nhã ba la mật cùng vô lượng thiện pháp là chỗ tôn quý của tôi, là pháp ấn của chư Phật, cũng là pháp ấn của Thanh Văn Bích Chi Phật.
            Chư Phật do học Bát-Nhã ba la mật nhẫn đến nhứt thiết chủng trí mà được đến bỉ ngạn.
            Này Kiều Thi Ca! Thế nên thiện nam thiện nữ, lúc còn tại thế hoặc sau khi Phật nhập Niết-bàn, phải y chỉ Bát-Nhã ba la mật, thiền na ba la mật, tinh tấn ba la mật, nhẫn nhục ba la mật, thi la ba la mật, đàn na ba la mật, nhẫn đến phải y chỉ nhứt thiết chủng trí.
            Tại sao vậy? Vì Bát-Nhã ba la mật nhẫn đến nhứt thiết chủng trí là chỗ mà chư Thanh Văn, Bích Chi Phật, Bồ-Tát, chư Phật và tất cả thế gian Trời người A Tu La đều đáng y chỉ nơi đó.
            Sau khi Phật nhập Niết-Bàn, nếu thiện nam thiện nữ, vì cúng dường Phật mà xây tháp bảy báu cao một do tuần, dùng hoa hương anh lạc phan cái kỹ nhạc cõi trời để cúng dường cung kính tôn trọng tán thán.
            Này Kiều Thi Ca! Do nhơn duyên này thiện nam thiện nữ ấy được phước nhiều chăng?
            Thiên Ðê nói: "Bạch đức Thế-Tôn! Rất nhiều rất nhiều!
            Ðức Phật nói: "Nhưng vẫn không bằng phước của thiện nam thiện nữ nghe Bát-Nhã ba la mật này và biên chép thọ trì thân cận đọc tụng chánh ức niệm chẳng rời tâm tát bà nhã, cung kính tôn trọng tán thán cúng dường.
            Này Kiều Thi Ca! Chẳng luận một tháp bảy báu. Sau khi Phật nhập Niết-Bàn, vì cúng dường Phật nên thiện nam thiện nữ xây tháp bảy báu khắp Diêm Phù Ðề cũng đều cao một do tuần, dùng hoa hương anh lạc phan cái kỹ nhạc cõi trời để cúng dường cung kính tôn trọng tán thán. Thiện nam thiện nữ ấy được phước nhiều chăng?
            Thiên Ðế thưa: "Bạch đức Thế-Tôn! Phước của thiện nam thiện nữ ấy rất nhiều.
            Ðức Phật nói: "Nhưng vẫn chẳng bằng phước của thiện nam thiện nữ nghe Bát-Nhã ba la mật nhẫn đến cúng dường kính trọng tán thán.
            Này Kiều Thi Ca! Chẳng luận xây tháp một Diêm Phù Ðề. Sau khi Phật nhaập Niết-Bàn, thiện nam thiện nữ vì cúng dường Phật xây tháp bảy báu đều cao một do tuần khắp bốn châu thiên hạ..
            Thiện nam thiện nữ này được phước nhiều chăng?
            Thiên Ðế thưa: "Bạch đức Thế-Tôn! Rất nhiều.
            Ðức Phật nói: "Nhưng vẫn chẳng bằng phước của thiện nam thiện nữ biên chép đến cúng dường Bát-Nhã ba la mật.
            Này Kiều Thi Ca! Chẳng luận xây tháp bảy báu khắp bốn châu thiên hạ.
            Sau khi Phật nhập Niết-Bàn, thiện nam thiện nữ vì cúng dường Phật xây tháp bảy báu đều cao một do tuần khắp tiểu thiên thế giới. Thiện nam thiện nữ này được phước nhiều chăng?
            Thiên Ðế thưa: "Bạch đức Thế-Tôn! Rất nhiều.
            Ðức Phật nói: "Nhưng vẫn chẳng bằng phước của thiện nam thiện nữ biên chép đến cúng dường Bát-Nhã ba la mật.
            Này Kiều Thi Ca! Lại chẳng luận xây tháp bảy báu khắp tiểu thiên thế giới.
            Sau khi Phật nhập Niết-Bàn, thiện nam thiện nữ vì cúng dường Phật nên xây tháp bảy báu đều cao một do tuần khắp trung thiên thế giới. Thiện nam thiện nữ này được phước nhiều chăng?
            Thiên Ðế thưa: "Bạch đức Thế-Tôn! Rất nhiều.
            Ðức Phật nói: "Nhưng vẫn chẳng bằng phước của thiện nam thiện nữ cúng dường Bát-Nhã ba la mật.
            Này Kiều Thi Ca! Lại chẳng luận xây tháp bảy báu đầy trung thiên thế giới.
            Sau khi Phật nhập Niết-Bàn, thiện nam thiện nữ vì cúng dường Phất nên xây tháp bảy báu đều cao một do tuần khắp đại thiên thế giới, rồi cúng dường trọn đời. Thiện nam thiện nữ này được phước nhiều chăng?
            Thiên Ðế thưa: "Bạch đức Thế-Tôn! Rất nhiều rất nhiều.
            Ðức Phật nói: "Nhưng vẫn chẳng bằng phước của thiện nam thiện nữ biên chép Bát-Nhã ba la mật này, rồi thọ trì cung kính tôn trọng tán thán cúng dường.
            Này Kiều Thi Ca! Lại chẳng luận xây tháp bảy báu đầy đại thiên thế giới.
            Sau khi Phật nhập Niết-Bàn, vì cúng dường Phật nên mỗi mỗi chúng sanh trong đại thiên thế giới đều xây tháp bảy báu và cúng dường trọn đời, vẫn chẳng bằng phước của thiện nam thiện nữ biên chép thọ trì Bát-Nhã ba la mật nhẫn đến chánh ức niệm chẳng rời tâm nhứt thiết trí, và cũng cung kính tôn trọng tán thán cúng duờng.
            Thích Ðề Hoàn Nhơn thưa: "Bạch đức Thế-Tôn! Ðúng như vậy. Nếu có ai cúng dường tôn trọng tán thán Bát-Nhã ba la mật này, thời là cúng dường chư Phật quá khứ vị lai hiện tại.
            Bạch đức Thế-Tôn! Sau khi đức Phật nhập Niết-Bàn, nếu mỗi mỗi chúng sanh trong hằng sa quốc độ mười phương, vì cúng dường chư Phật nên xây tháp bảy báu cao một do tuần, rồi cúng dường bửu tháp hoặc một kiếp hoặc dưới một kiếp.
            Bạch đức Thế-Tôn! Những người cúng dường như vậy, có được phước nhiều chăng?
            Ðức Phật nói: "Rất nhiều.
            Thiên Ðế thưa: "Nếu có thiện nam thiện nữ biên chép Bát-Nhã ba la mật này nhẫn đến chánh ức niệm cung kính tôn trọng tán thán và cúng dường, thời được phước lại nhiều lớn hơn. Tại sao vậy? Vì tất cả pháp lành đều nhập vào trong Bát-Nhã ba la mật. Như là những pháp lành thập thiện đạo, tứ thiền, tứ vô lượng tâm, tứ vô sắc định, ba mươi bảy phẩm trợ đạo, ba môn giải thoát, tứ đế, sáu thần thông, tám bội xả, chín thứ đệ định, sáu ba la mật, mười tám không, những tam muội môn, những đà la ni môn, mười trí lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại trí, đại từ đại bi, mười tám pháp bất cộng, nhứt thiết trí, đạo chủng trí, nhứt thiết chủng trí.
            Bạch đức Thế-Tôn! Ðây gọi là pháp ấn của tất cả chư Phật. Trong pháp này tất cả Thanh Văn, Bích Chi Phật và tam thế chư Phật do học pháp này mà được đến bĩ ngạn.