Mắt Thiền Nhìn Xuân
Hoàng Thiệu Khang
--o0o--
 
Lịch trình tư tưởng thiền học là sự thoát khỏi cái thường đề thấy được cái vô thường, thoát khỏi cái ngã để tiến tới cái vô ngã. Lịch trình mỹ học của thiền học là sự nhìn nhận chân phạm trù cái bi để tiến đến cái đẹp nơi từng nhân cách.  Hai lịch trình đó là linh hồn của Thiền Học.
Như vậy, Thiền là tư tưởngtriết học, cũng vừa là thái độ, cách thể sống của con người giác ngộ.
Con người giác ngộ ấy, trước hết bộc lộ mình nơi con mắt nhìn cõi tự nhiên và nhìn cuộc sống.  đó là đôi mắt đạt đến độ Tuệ Nhãn
Bằng đôi mắt Tuệ Nhãn ấy, các vị Thiền Sư đã nhìn cảnh mùa xuân. đó là ý niệm thời gian của bậc minh triết
Muà xuân được Thiền cảm nhận như là một tương đối của cái vô thường tuyệt đối.  đó là thời gian được hiện tượng hóa, vật thể hoá, biểu thị cho quy luật đang vận hành ẩn tàng trong vũ trụ.  đó là dòng chảy mang tính chất tự nhiên, khách quan.
Mãn Giác Thiền Sư đã nhìn mùa xuân:
- Xuân trôi trăm hoa rụng
Xuân tới trăm hoa cười
(Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai)
Vạn Hạnh thiền Sư cũng đã nhìn mùa xuân:
Cây cối xuân tươi, thu não nùng
(Vạn mộc Xuân vinh, thu hựu khô)
Trung tâm nội dung của những câu kệ và câu thơ trên được nằm trong ý nghĩa của hai chữ "vô tình".  Nó không mang nghĩa thông thường, nghĩa tâm lý, tình cảm (thờ ơ, lạnh nhạt...) đó chỉ là một thuật ngữ triết học.  Nó chỉ định tính chất khách quan của quy luật.  đã là quy luật thì không phụ thuộc vào bất cứ ý chí ý muốn chủ quan nào cả, không thiên ái thiên vị.  Như vậy "vô tình"là một khái niệm nằm trong phạm trù vô thường.  Dưới một thác nước từ trời cao đổ xuống thì nhà sang hay nhà hèn...đều bị cuốn trôi như nhau.
Tư tưởng này cũng được Lão Tử đề cập tới trong chương V của đạo đức Kinh:
Trời đất không có nhân
Coi vạn vật như loài chó rơm
Thánh nhân không có nhân
Coi trăm họ như loài chó rơm.
 
(Thiên địa bất nhân
Dĩ vạn vật vi sô cẩu
Thánh nhân bất nhân
Dĩ bách tính vi sô cẩu)
Thoạt nghe thấy lạ lùng! Nhưng nếu hiểu cái nghĩa đích thực của chữ "đạo" thì sẽ hết thắc mắc. đạo là cái luật lạnh lùng của trời đất, không tư vị ai cả nên gọi là " bất nhân".  Bậc thánh nhân đã đại giác lẽ đạo nên cũng hành xử theo quy luật.  Về sau Lão tử nói rõ cái nghĩa hai chữ " bất nhân"này trong bài "Sô Cẩu"
Như vậy, cặp mắt nhìn vũ trụ trong vô thường là cặp mắt khám phá được luật biến động, vận động, đổi thay...cuả vũ trụ, dẫu chúng đã hiện hành nơi cõi tự nhiên hay đang âm thầm tiềm ần.
Cặp mắt đại giác ấy đã nhìn vào cõi nhân sinh.   Cõi ấy cũng vô thường.  Nó luôn luôn vận động tuyệt đối, một thay đổi liên tục"Thế gian biến cải vũng nên đồi"(Nguyễn Bỉnh Khiêm), hay "Sông xưa rày đã biến nên đồng"
Trước cái lẽ biến đổi bất tận ấy, con người phải cảm nhận và xử xự như thế nào? đó là cái lẽ thứ hai của Thiền.
Vạn Hạnh thiền Sư đã nhìn vào thân để chiêm nghiệm:
Thân như bóng chớp có rồi không
(Thân như điện ảnh hữu hoàn vô)
Như vậy, đừng bao giờ nghĩ rằng cái thân của ta là vĩnh viễn có, là thường.  Tất cả tạo vật, con người đang sống chỉ là ở "trọ "mà thôi "Con chim ở đậu cành tre.
Con cá ở trọ trong khe suối nguồn...
Trăm năm ở trọ ngàn năm"
(Trịnh Công Sơn)
Lầm tưởng mình là có cũng vì cái căn ngã của mình còn nặng.  Thường và Ngã là hai biều hiện tập trung của ngộ nhận, của cái bi thẩm mỹ.  Tất cả đều là trong sự điều hành vô hình của vô thường.  Cho nên đừng mãi miết đi trong cõi phù du mờ mịt của thân ta đòi hỏi:
"Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi
đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt
Trên hai vai ta hai vầng nhật nguyệt
Rọi suốt trăm năm một cõi đi về"
Con người phải tiến được đến cách thế vô ngã.   Có như thế thì con người mới được an nhiên tự tại.   đã thức nhận được thân như là bóng chớp, thức nhận được "cây cối xuân tươi, thu não nùng" thì không còn cảm giác sợ hãi:
"Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi"
(Nhiệm vận thịnh suy vô bổ uý)
Ta coi thịnh cũng như suy đều chỉ là tạm thời.   Chúng đều nhẹ như giọt sương đọng trên lá cỏ(Thịnh suy như lộ thảo  đầu phô).  Vả chăng trong thịnh có suy và trong suy có hàm chứa một tiềm năng, một khả thể cuả thịnh.  Nhìn được thịnh suy như vậy mới thanh thản tinh thần.  Lão Tử cũng đã nói cái nghĩa ấy trong một câu ở chương XIII  của đạo đức Kinh:"Vinh trên thì nhục dưới"(Sủng vị thượng, nhục vị hạ). đó  chính là lẽ biện chứng nhân sinh.
Lại nữa thịnh suy cũng chỉ là những cái diễn ra trong cõi hiện tượng, cõi ":sự vật cho ta"(I.Kant) mà thôi. Thật ra là cõi huyễn tượng.
Giác Hải Thiền Sư đã nhìn vào cái tươi tốt rộn rã của mùa xuân bằng cặp mắt đại giác ấy:
Xuân sang hoa bướm khéo quen thì
Bướm liệng hoa cười vẫn đúng kỳ
Nên biết bướm hoa đều huyễn ảo
Thấy hoa mặc bướm để lòng chi
 
(Xuân lai hoa điệp thiện tri thì
Hoa điệp ưng tu cộng ứng kỳ
Hoa điệp bản lai giai thị uyển
Mạc tu hoa điệp hướng tâm tri)
Tất cả thế giới hiện hình chỉ là một cõi bát ngát của huyễn ảo.  Cho nên cũng đừng bị huyễn hoặc bởi nó.   Không bị huyễn hoặc nữa thì lòng ta thanh thản.  Lúc ấy nói như Thiền Sư Hiện Quang:
Mông mênh quãng đồng ruộng
Tùy ý tự rong chơi
(Vô vi cư khoáng dã
Tiêu dao tự tại thân)
Thoát khỏi thường và ngã, con người trở thảnh lạc quan, tin tưởng vào cuộc sống.  Thiền sư Mãn Giác đã phát biểu tư tưởng ấy:
Đừng tưởng Xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một cành mai
(Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai)
Không phải đến muà Xuân sau, ngay trong mùa Xuân tàn này vẫn đang chất chứa một tiềm năng của sự sống sinh nở.   đó là cái nhìn biện chứng của Thiền.
-- o0o --