- 
                    
                    Ý Nghĩa Ðản Sanh
 
                    
                  
                  
                     
                    - 
                    
                    Nhất Quán
 
                    
                  
                  
                     
                    - 
                    
                    --o0o--
 
                    
                  
                  - 
                   
 
                  - 
                  
                  Sự xuất hiện của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni trong cõi Ta Bà nầy 
                  là một phước đức lớn lao cho nhân loại. Ngài là hiện thân của 
                  Từ Bi, Trí Tuệ, và ánh sáng của chân lý. Như trong kinh Ðại 
                  Thừa Diệu Pháp Liên Hoa có nói: Ngài ra đời vì mục đích trọng 
                  đại là Khai Thị Chúng Sanh Ngộ Nhập Phật Tri Kiến. Chúng ta là 
                  môn đệ của ngài, cho nên dù muốn dù không cũng cần phải biết 
                  một vài nét lịch sử sơ lược về cuộc đời của ngài. 
 
                  - 
                  
                  Ðứng về phương diện bản thể mà xét thì Ðạo Phật có từ vô thỉ. 
                  Nói là vô thỉ vì nó không có đầu mối. Cũng không giới hạn ở 
                  trong thời gian, bởi vì Ðạo Phật là bản tánh sáng suốt của 
                  chúng sanh, nên có chúng sanh là có Ðạo Phật, mà chúng sanh có 
                  từ vô thỉ thì Ðạo Phật cũng có từ vô thỉ. Tất cả các Ðức Phật 
                  nói chung và Ðức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật nói riêng, trước 
                  khi thành đạo các ngài cũng như tất cả các chúng sanh khác 
                  trong tam thiên đại thiên thế giới. Trong lúc tu nhân để trở 
                  thành những vị bồ tát và cuối cùng là Bổ Xứ Bồ Tát trước khi 
                  giáng trần thì theo trong Nhân Duyên Ðàm Phật truyện được chia 
                  ra làm ba thời kỳ: 
 
                  - 
                  
                  Thời Kỳ Viễn kỳ: Là thời kỳ kinh lịch của Phật từ A Tăng kỳ 
                  trăm nghìn kiếp về trước cho đến khi thành nhất sanh bổ xứ ở 
                  trên Cung Trời Ðâu Suất. 
 
                  - 
                  
                  Thời Kỳ Trung Kỳ: Là kể lại từ Cung Trời Ðâu Suất giáng sinh 
                  làm Thái Tử Tất Ðạt Ða, rồi xuất gia và thành đạo.
 
                  - 
                  
                  Thời Kỳ Cận Kỳ: Là thời kỳ từ khi thành đạo bắt đầu thuyết 
                  pháp cho đến khi nhận Kỳ Viên Tịnh Xá.
 
                  - 
                  
                  Như trên là ba thời kỳ từ khi tu nhân cho đến ngày giáng trần 
                  của chư Phật, tuy nhiên theo học giả Kimura Taiken thì ông 
                  chia ra làm hai thời kỳ đó là: Thời gian tu nhân của Bồ Tát ở 
                  quá khứ và từ Ðản Sanh đến Nhập Niết Bàn.
 
                  - 
                  
                  A- Phương Diện Tôn Giáo Học: Thời Quá Khứ Bồ Tát Tu Nhân
 
                  - 
                  
                  Vào thời Ðức Phật Nhiên Ðăng cách đây bốn A Tăng Kỳ và trăm 
                  nghìn kiếp về trước, có một cư sĩ tên là Thiện Tuệ vì nhận 
                  thấy đời là vô thường nên xuất gia tu đạo trong núi tuyết và 
                  có ý định nhập diệt tại đó. Nhưng khi gặp Phật Nhiên Ðăng xuất 
                  hiện thuyết pháp cho nghe thì Thiện Tuệ bỏ đi ý định nhập Niết 
                  Bàn, trái lại còn phát tâm độ hết thảy tất cả chúng sanh và 
                  quyết tu cho đến khi thành Phật. Thiện Tuệ một mực thờ Phật 
                  Nhiên Ðăng, và cuối cùng được Phật thọ ký trải qua bốn A Tăng 
                  Kỳ trăm ngàn kiếp sau được thành Phật hiệu là Thích Ca. Ðó là 
                  khởi đầu cho các kiếp làm Bồ Tát ở quá khứ. Bồ Tát có nghĩa là 
                  người tìm cầu trí tuệ, điều kiện chủ yếu của Bồ Tát hạnh là 
                  quên mình, vì người, nghĩa là lấy việc trên cầu Bồ Ðề, dưới độ 
                  chúng sanh làm căn bản tu hành. Sau khi được thọ ký, Bồ Tát 
                  trải qua nhiều đời nhiều kiếp sinh vào các loài hữu tình để 
                  hoàn thành những hạnh nguyện của mình, cho nên có khi Bồ Tát 
                  làm Chuyển Luân Thánh Vương, có khi làm Ngư Phụ, có khi mang 
                  thân phàm phu nhiều phiền não, cũng có khi sinh làm Vượn, Khỉ, 
                  Giả Can, loài Thỏ..v..v..tất cả những hình tướng đó rốt cuộc 
                  cũng chỉ để hoàn thành tâm nguyện trên cầu Phật Ðạo, dưới hoá 
                  độ chúng sanh. Trong tất cả các cảnh giới và các loại thân 
                  hình, Bồ Tát tuy nổ lực hành trì, nhưng pháp tướng để các ngài 
                  dùng làm căn bản tu tập vẫn là mười Ba La Mật:
 
                  - 
                  
                  01- Bố Thí Ba La Mật
 
                  - 
                  
                  02- Giới Ba La Mật
 
                  - 
                  
                  03- Xuất Ly Ba La Mật
 
                  - 
                  
                  04- Trí Huệ Ba La Mật
 
                  - 
                  
                  05- Tinh Tấn Ba La Mật 
 
                  - 
                  
                  06- Nhẫn Nhục Ba La Mật 
 
                  - 
                  
                  07- Chân Thật Ba La Mật
 
                  - 
                  
                  08- Quyết Ðịnh Ba La Mật 
 
                  - 
                  
                  09- Từ Bi Ba La Mật
 
                  - 
                  
                  10- Xả Ba La Mật
 
                  - 
                  
                  Trong khoảng thời gian bốn A Tăng Kỳ trăm ngàn kiếp ấy Bồ tát 
                  đã được gặp và cúng dường vô số Phật, nhưng mối quan hệ đặc 
                  biệt thâm thiết thì chỉ có hai mươi bốn đức Phật:
 
                  - 
                  
                  01- Nhiên Ðăng Phật
 
                  - 
                  
                  02- Kiều Trần Như Phật
 
                  - 
                  
                  03- Cát Tường Phật
 
                  - 
                  
                  04- Thiện Ý Tu Ma Da Phật
 
                  - 
                  
                  05- Ly Bà Ða Phật
 
                  - 
                  
                  06- Du Tỳ Ða Phật
 
                  - 
                  
                  07- Anomadass Phật
 
                  - 
                  
                  08- Hồng Liên Hoa Phật
 
                  - 
                  
                  09- Na La Ðà Phật
 
                  - 
                  
                  10- Thượng Liên Hoa Phật
 
                  - 
                  
                  11- Thiện Tuệ Phật
 
                  - 
                  
                  12- Thiện Sinh Phật
 
                  - 
                  
                  13- Piyadassi Phật
 
                  - 
                  
                  14- Atthadassi Phật
 
                  - 
                  
                  15- Dhammadassi Phật
 
                  - 
                  
                  16- Tất Ðạt Ða Phật
 
                  - 
                  
                  17- Ðể Sa Phật
 
                  - 
                  
                  18- Bổ Sa Phật
 
                  - 
                  
                  19- Tỳ Bà Thi Phật
 
                  - 
                  
                  20- Thi Khí Phật
 
                  - 
                  
                  21- Tỳ Xá Bà Phật
 
                  - 
                  
                  22- Câu Lưu Tôn Phật
 
                  - 
                  
                  23- Câu Na Hàm Mâu Ni Phật.
 
                  - 
                  
                  24- 
                  
                  Ca Diếp Phật
 
                  - 
                  
                              Như vậy những kiếp làm Bồ Tát, Phật Thích Ca đã 
                  được gặp rất nhiều Phật, mà mỗi lần gặp một vị Phật nào đều hy 
                  sinh bản thân để cúng dường Phật đó, đồng thời cũng nhận chịu 
                  sự giáo hóa của vị đó. Trên con đường tu Bồ tát hạnh Ðức phật 
                  Thích Ca đã lấy sự phát tâm từ thời đại Thiện Tuệ làm khởi 
                  điểm để rồi hiện thân nơi Liên Hoa Ðài Tạng, rồi qua phương 
                  Ðông tại cung trời Thiên Vương diễn nói kinh Ma Thọ Hóa trong 
                  suốt thời gian dài như vậy cũng chỉ cốt để hoàn thành các Ba 
                  La mật, và cuối cùng an trú nơi Cung Trời Ðâu Suất, sau đó 
                  giáng trần độ sanh.
 
                  - 
                  
                  B- 
                  
                  Về Phương Diện Lịch Sử:
 
                  - 
                  
                  a- Niên Ðại Ðản Sanh:
 
                  - 
                  
                  Bồ Tát ở tại Cung Trời Ðâu Suất được mấy nghìn tuổi thì thời 
                  gian thành Phật đã đến. Lúc đó, trên thiên cung các thiên sứ 
                  tuyên ngôn về sự xuất hiện của Phật: Từ đây đến một ngàn năm 
                  sau ở cõi Ta Bà sẽ có một vị Phật ra đời. Nghe xong chư thiên 
                  tụ họp lại để thỉnh cầu Bồ Tát sớm thành Phật. Lúc đó Bồ Tát 
                  liền dự liệu về thời gian giáng sinh, châu, quốc độ, chủng tộc 
                  và thân mẫu. Sau cùng ngài đã quyết định thác thai vào hoàng 
                  hậu Ma Da, vương phi của vua Tịnh Phạn, thuộc cõi Diêm Phù Ðề. 
                  Ðể thích ứng với điều đó, hoàng hậu Ma Da đã thấy một giấc 
                  mộng đẹp. Vào một buổi cuối mùa hạ, sau khi hoàng hậu bố thí 
                  cho mọi người, lúc lui về yên nghỉ, thì thấy bốn vị thiên thần 
                  đến khiêng giường hoàng hậu đi về phía núi tuyết, đặt dưới gốc 
                  cây Sa La rồi mời hoàng hậu vào tắm trong ao nước tám công 
                  đức. Lúc đó một con voi trắng, nơi vòi có quấn một bông sen 
                  trắng đến lạy hoàng hậu rồi theo đường hông bên hửu mà vào 
                  thai tạng. Hoàng hậu khi tỉnh giấc liền đem chuyện chiêm bao 
                  thuật lại cho nhà vua, nhà vua liền cho triệu thầy tướng vào 
                  cung để hỏi giấc mộng kỳ lạ đó. Thầy tướng cho đây là điềm 
                  mang thai, và người con sau nầy nếu đi tu sẽ là một bậc Ðại 
                  Giác, còn nếu ở tại thế gian thì sẽ là một vị Chuyển Luân 
                  Thánh Vương. Khi đủ ngày tháng, theo tục lệ của người Ấn Ðộ, 
                  hoàng hậu phải về nhà cha mẹ tại thành Thiên Chỉ để sanh, 
                  nhưng mới đi được nửa đường đến vườn Lâm Tỳ Ni thì sinh Thái 
                  Tử bên gốc cây Hoa Vô Ưu.
 
                  - 
                  
                  Về niên đại Ðản Sanh của Ðức Thích Ca Mâu Ni có nhiều thuyết 
                  nói khác nhau, như nói ngài sanh và năm 1023 TCN, 685 TCN, 624 
                  TCN, 623 TCN, 566 TCN, 561 TCN, 559 TCN, 557 TCN. Tuy nhiên 
                  theo Phật Giáo Việt Nam từ khởi thỉ cho đến ngày nay vẫn 
                  thường kỷ niệm vào những ngày lễ như:
 
                  - 
                  
                  Ngày 08 tháng 4 đức Phật đản sanh
 
                  - 
                  
                  Ngày 08 tháng 02         -           -           xuất gia
 
                  - 
                  
                  Ngày 08 tháng 12         -           -           thành đạo
 
                  - 
                  
                  Ngày 15 tháng 02         -           -           niết bàn.
 
                  - 
                  
                  Theo phổ thông hiện nay, thì ngày đức Phật Ðản Sanh là ngày 15 
                  tháng 04 âm lịch năm 623 TCN. Như vậy tính đến năm 1997 ngày 
                  Phật Ðản Sanh là 2621 năm. Năm 1952 trong Ðại Hội Nghị Phật 
                  Giáo Thế Giới kỳ II tại Tokyo kinh đô của Nhật Bản đã quyết 
                  định lấy năm đức Phật nhập Niết Bàn làm ngày kỷ niệm Phật Lịch 
                  thống nhất cho toàn thế giới, và như vậy tính cho đến năm 1997 
                  mùa Phật Ðản năm nầy là Phật Lịch lần thứ 2541.
 
                  - 
                  
                  b- Nơi Ðản Sanh Của Thái Tử: 
 
                  - 
                  
                  Như chúng ta biết trước đức Phật xuất thế, văn hoá Ấn Ðộ cũng 
                  đã phát triển đến mức khá cao nhưng tất cả đều dựa trên căn 
                  bản tư tưởng của Bà La Môn giáo. Từ khi Ðức Phật xuất thế, thế 
                  lực của Bà La Môn lần sút kém và được thay thế vào đó bằng tư 
                  tưởng Phật Ðà. Chính vì sự mất địa vị, cho nên người Bà La Môn 
                  giáo lúc nào cũng nuôi ý chí khôi phục lại quyền lực của họ. 
                  Sau khi đức Phật nhập Niết Bàn, nhân sự phân hóa trong tổ chức 
                  của Phật đệ tử, nên người Bà La Môn trà trộn vào hàng ngũ tăng 
                  chúng để hoạt động bằng cách trá hình làm tăng sĩ để tạo những 
                  điều nghi kỵ phân tán trong tăng chúng. Vua A Dục là một đệ tử 
                  thuần thành của Ðức Phật thấy thế ông rất lo ngại cho tiền đồ 
                  đạo pháp, nên ông quyết ý muốn minh xét lại giáo nghĩa của đức 
                  Thế Tôn. Nhà vua cho sứ giả đến núi Ahoganga cung thỉnh ngài 
                  Mục Kiền Liên Ðế Tu về triều và tuyển chọn 1000 cao tăng để 
                  kết tập kinh điển tại thành Hoa Thị. Hội nghị nầy được đặt 
                  dưới quyền chủ tọa của ngài Mục Kiền Liên Ðế Tu. Ðại hội làm 
                  việc 9 tháng thì hoàn thành. Nội dung kết tập kỳ nầy là Kinh, 
                  Luật, và Luận Tạng. Trong dịp nầy nhà vua cũng đã loại bớt một 
                  số người Bà La Môn đội lốt Phật Giáo để gây sự phân hóa trong 
                  hàng thánh chúng, đồng thời nhà vua cũng cho dựng những trụ đá 
                  để lưu niệm tại nơi Ðản Sanh của đức Từ Phụ nói riêng và nói 
                  chung là nơi nào có dấu chân của đức từ phụ là nơi đó ông cho 
                  dựng bia đá để kỷ niệm. Riêng về nơi đức Phật Ðản Sanh, khi 
                  dựng trụ đá xong nhà Vua ra lệnh cho một phần tám dân số đến 
                  cư ngụ quanh vùng để bảo vệ di tích.
 
                  - 
                  
                  Ðến thế kỷ thứ 13 tức là vào khoảng năm 1203 quân Hồi Giáo do 
                  tưóng Iktiyar Uddin chỉ huy, đem đại quân đánh chiếm và tiêu 
                  diệt vương triều Sena rồi làm bá chủ cõi Trung Ấn. Về sau thế 
                  lực quân Hồi bành trướng khắp các nơi, đi đến đâu họ tiêu diệt 
                  đến đó, nếu nơi đó không phải là Hồi Giáo. Phật Giáo và Ấn Ðộ 
                  giáo đều bị thảm họa chung trong lúc đạo quân Hồi Giáo xâm 
                  lăng, nhưng riêng về Phật Giáo quân đội Hồi Giáo lại tàn bạo 
                  hơn. Họ phá hủy chùa tháp, thánh tích, thiêu đốt kinh điển, 
                  tịch thu bảo vật, hãm hại tăng ni, làm cho Phật Giáo ở Ấn Ðộ 
                  lúc bấy giờ gần như không còn gì nữa. Có thể nói Phật Giáo Ấn 
                  Ðộ chỉ thấy được cái huy hoàng của 15 thế kỷ đầu, nhưng từ 15 
                  thế kỷ trở về sau Phật Giáo Ấn lu mờ dần. Mãi cho đến khi 
                  người Anh cai trị, lớp tri thức Anh bắt đầu tìm hiểu đời sống, 
                  phong tục tập quán, văn hoá Ấn, họ rất ngạc nhiên khi thấy nền 
                  triết học thâm thúy của Phật Giáo đã bị chôn vùi trong quên 
                  lãng, trong khi đó dân tộc Ấn không mảy may lưu tâm tới. Chính 
                  lúc người Anh bắt đầu thiết lập những công trình khảo cứu, sưu 
                  tầm những di tích, thánh tích lịch sử Phật thì cũng là lúc 
                  giới tri thức của Ấn cũng bắt đầu thức tỉnh, từ đấy họ hô hào, 
                  phát động những phong trào chấn hưng Phật Giáo.
 
                  - 
                  
                  Trong công cuộc sưu tầm những di tích của Phật Giáo Ấn Ðộ, 
                  trong năm 1897 bác sĩ Fuhrer đã đào được một trụ đá do vua A 
                  Dục dựng  tại vườn Lâm Tỳ Ni nơi đức Phật Ðản Sanh, trên trụ 
                  đá đó có ghi năm dòng chữ:
 
                  - 
                  
                  Người yêu quý của vua
 
                  - 
                  
                  Vua A Dục thứ 20 đã đến đây
 
                  - 
                  
                  Chính ta thân hành đến đây, để chiêm bái nơi giáng trần của 
                  Thái Tử Sakya.
 
                  - 
                  
                  Ta ra lệnh làm trụ đá nầy
 
                  - 
                  
                  Ðể bảo vệ thánh địa nơi Ðức Thế Tôn đã sanh tại Lâm Tỳ Ni.
                  
 
                  - 
                  
                  Những ngày gần đây, một thành công khác trong việc sưu tầm 
                  cũng được công bố. Vào ngày 6 thánh 2 năm 1996 tờ báo Seattle 
                  Post Intelligencer có đăng tải một bài viết ngắn về bản công 
                  bố của chính phủ Nepal đề ngày 5 tháng 2 năm 1996. Trong bản 
                  công bố đó họ cho biết: Hơn 200 nhân công của 6 phái đoàn khảo 
                  cổ của sáu quốc gia Nhật, Nepal, Ấn Ðộ, Hồi, Tích Lan và 
                  Bangladesh đã đào trên hai năm trời, cuối cùng họ tìm thấy di 
                  tích 15 căn phòng, nơi Thái Tử Tất Ðạt Ða đản sanh, diện tích 
                  rộng hơn 3 dặm vuông, trong đó có cả hồ nước nhỏ mà người ta 
                  nghĩ rằng hoàng hậu Ma Da đã tắm ở đó trước khi hạ sanh Thái 
                  Tử đã bị chìm trong lòng đất dưới một ngôi chùa xưa hơn 2000 
                  năm trong khu vườn Lâm Tỳ Ni. Khu vườn Lâm Tỳ Ni nầy nằm gần 
                  vùng biên giới của hai quốc gia Ấn Ðộ và Nepal và cách thủ đô 
                  Nepal 145 dặm về hướng tây.
 
                  - 
                  
                  Những thành quả trong công cuộc tìm kiếm nầy có được là nhờ 
                  vua A Dục, là vị vua Ấn Ðộ trước khi gặp Phật đã là tín đồ của 
                  Ấn Ðộ Giáo, nhưng khi gặp Ðức Phật ông quy y Tam Bảo và trở 
                  thành một Phật Tử thuần thành như nói ở trên đã làm thạch trụ, 
                  cho mọi người biết vào thế kỷ thứ 6 trước công nguyên, Thái Tử 
                  Tất Ðạt Ða đã từ bỏ thế giới vật chất để trở thành một du tăng 
                  hành khất và ngài đã trở thành đấng Giác Ngộ. Những bia ký mặt 
                  thạch trụ nằm trên những căn phòng mới đào nầy đã ghi rõ đấng 
                  Giác Ngộ đã sinh ở đây. Theo ông Babu Krishna Rijal là một 
                  trong hai nhà khảo cổ gốc Nepal nói rằng sự khám phá những di 
                  tích nầy đã xác nhận những điều mà sách vở bia ký đã nói từ 
                  trước về Thái Tử Tất Ðạt Ða là sự thật có trong lịch sử chớ 
                  không mơ hồ hoang tưởng. 
 
                  - 
                  
                  C- Giáo Lý Của Ðức Phật & Cuộc Sống Hiện Thực: Niết Bàn
 
                  - 
                  
                  Sau khi từ bỏ cuộc sống thế tục, Thái Tử Tất Ðạt Ða xuất gia 
                  tu học và ngài trở thành bậc chánh giác. Lúc ngài 80 tuổi, khi 
                  chí nguyện độ sanh đã thành tựu. Một hôm, ngài cho triệu tập 
                  các đệ tử từ khắp bốn phương lại và ngài di chúc những lời tối 
                  hậu: Này các con, hãy tôn kính thanh tịnh giới, tịnh giới còn, 
                  đạo ta còn. Những kinh luật ta đã dạy từ khi ta thành đạo đến 
                  giờ sẽ là nơi nương tựa che chở cho các con. Những giáo pháp 
                  của ta có những lợi ích như vậy, cho nên các con hãy cố gắng 
                  học và làm theo. Cho dù các con ở trong núi rừng thâm sơn cùng 
                  cốc, nơi những bờ sông bùn lầy nước đọng, hoặc bất cứ nơi nào 
                  cũng vậy, các con hãy tưởng nhớ đến giáo pháp của ta, đừng sao 
                  nhãng vì một đời luống qua không làm gì...để rồi tự kết liễu 
                  trong ân hận hối tiếc. Các con hãy vì lòng từ bi rộng lớn mà 
                  đi gieo rắc hạnh phúc cho đời, đừng đi trùng nhau trên một ngã 
                  đường. Các con hãy truyền đạo mầu nhiệm cho đời hiểu thế nào 
                  là cuộc sống cao cả trong sạch hoàn toàn và gương mẫu.
 
                  - 
                  
                  Những lời vàng ngọc của Ðức Phật dạy làm rung động đến tận tâm 
                  thức của những đệ tử của ngài. Có thể nói trên đường đi do Ðức 
                  Phật chỉ đạo, mỗi bước đi là mỗi bước đi đến gần ánh sáng của 
                  chân lý. Những lời dạy giản dị nhưng cao cả, ít nhưng hàm chứa 
                  một sức sống vô biên, vậy mà có người cũng cho rằng đạo Phật 
                  quá cao siêu huyền bí, không thể thực hành bởi những người 
                  thông thường trong cuộc sống hằng ngày. Theo quan niệm nầy 
                  nói, những ai muốn trở thành những phật tử chân chánh thì phải 
                  từ bỏ thế giới nầy để rút lui vào một tu viện hay một nơi nào 
                  đó yên tĩnh để sống cuộc sống xa cách mọi người, tách rời xã 
                  hội mới là cuộc sống thánh thiện. Quả thật cũng có thể đúng 
                  nhưng không hoàn toàn. Chúng tôi nói không hoàn toàn bởi vì 
                  đối với một số người có thể là lối sống thanh thoát khi họ 
                  sống ẩn dật trong một nơi yên tĩnh, xa hẳn ồn ào phức tạp, như 
                  vậy cũng là điều đáng ca ngợi hơn những ai thực hành Phật Giáo 
                  mà vẫn sống giữa phồn hoa đô hội. Có lẽ trong trường hợp đó sẽ 
                  có ích cho những người dùng cuộc sống ẩn dật để trau dồi tâm ý 
                  và tính tình như một sự trau dồi về đạo đức, tâm linh để về 
                  sau có đủ khả năng phục vụ nhân sinh. Nhưng nếu con người sống 
                  suốt đời trong cô độc chỉ nghĩ đến hạnh phúc riêng mình, không 
                  lo nghĩ đến đồng loại, thì điều nầy chắc chắn không phù hợp 
                  với giáo lý Ðức Phật. Bởi vì giáo lý của Ðức Phật vốn căn bản 
                  trên tình thần từ bi, và sự giúp đở người khác. Nhưng cũng có 
                  người thấy rằng sự xa lánh đó làm cho họ chán ngán buồn phiền 
                  cả thể xác lẫn tinh thần và như vậy sẽ không giúp ích gì cho 
                  đời sống tri thức và tâm linh của họ. Theo như ngài Xá Lợi 
                  Phất, một trong số các đại đệ tử của Ðức Phật thì sự ẩn dật 
                  chân chính không có nghĩa là thân xác phải xa lánh thế gian, 
                  vì vậy ngài dạy: Một người có thể sống trong rừng miệt mài với 
                  những luyện tập khổ hạnh, nhưng không kiểm soát tư tưởng, để 
                  cho tâm tư đầy dẫy những xấu xa bất tịnh, thì còn tệ hại hơn 
                  là những người sống trong làng mạc hay thành thị, không thực 
                  hành kỷ luật ép xác nào, nhưng người ấy có thể kiểm soát được 
                  tư tưởng, tâm người ấy trong sạch không cấu bẩn. Quan niệm rút 
                  lui khỏi thế giới hiện thực nầy rất sai lạc do sự thiếu hiểu 
                  biết về giáo lý của Ðức Phật. Từ sự thiếu hiểu biết, người ta 
                  thường đi đến một kết luận sai lầm và vội vã, sau khi tình cờ 
                  nghe hay đọc một cái gì đó về Phật Giáo do những tác giả hoặc 
                  số người nào đó, vì đã không hiểu thấu vấn đề trong mọi khía 
                  cạnh, hoặc cố tình bóp méo sự thật, để đưa ra những quan niệm 
                  thiên lệch về Phật Giáo. Xin xác định, giáo lý của đức phật 
                  không phải chỉ dành cho những tăng lữ trong chùa, trong viện 
                  mà là cho tất cả những nam nữ Phật Tử cư sĩ sống ở thế gian, 
                  trong gia đình họ. Năm giới cấm, Bát Chánh Ðạo..v..v.. một lối 
                  sống theo Phật là để cho tất cả, không phân biệt màu da chủng 
                  tộc, già trẻ, giàu nghèo. Như chúng ta biết, trên thế gian nầy 
                  chỉ có một số nào đó có đầy đủ nhân duyên từ bỏ cuộc sống gia 
                  đình xuất gia học đạo, còn đại đa số mọi người trên thế giới 
                  không thể đi tu hoặc sống ẩn dật trong hang động núi rừng. Ðạo 
                  Phật dù cao cả thuần khiết đến đâu cũng sẽ trở thành vô dụng 
                  đối với nhân loại nếu họ không thể áp dụng được trong đời sống 
                  hằng ngày. Hiểu đạo Phật là nguồn giáo lý nhân bản chân chính, 
                  đồng thời chúng ta cố gắng thực hành nó trong đời sống hằng 
                  ngày của một người thế tục hoặc trong các tự viện của những vị 
                  xuất thế, tùy theo điều kiện sẳn có của mình, thì chắc chắn sẽ 
                  mang lại nhiều an lạc. Như trong các kinh điển của Phật 
                  có vô số những chỗ nói đến những người có đủ duyên tu hạnh 
                  xuất thế đạt thành đạo quả. Cũng có chư thiện nam, tín nữ sống 
                  đời sống gia đình bình thường mà vẫn thực hành được giáo pháp 
                  của Phật một các rất tích cực. Hiệu quả là gia đình hạnh phúc, 
                  anh em hoà thuận, chồng vợ thương yêu...như một phật tử tên 
                  Sigàla khi cha hấp hối có căn dặn là phải lạy sáu phương. Anh 
                  không biết gì và vì sao phải lạy sáu phương, nhưng theo lời di 
                  chúc của cha anh cứ lạy. Một hôm anh gặp Ðức Phật và ngài mới 
                  dạy cho anh rõ:
 
                  - 
                  
                  Lạy phuơng Ðông là lạy cha mẹ
 
                  - 
                  
                  Lạy phương Tây là lạy vợ con 
                                                        
 
                  - 
                  
                  Lạy phương Nam là lạy thầy bạn
 
                  - 
                  
                  Lạy phương Bắc là lạy quyến thuộc, láng giềng
 
                  - 
                  
                  Lạy phương Dưới là lạy tôi tớ, người làm công, thợ thuyền
 
                  - 
                  
                  Lạy phương Trên là lạy thầy dạy đạo.
 
                  - 
                  
                  Sở dĩ có được phước lợi như vậy mà chính Sigàla không biết là 
                  vì anh không hiểu ý nghĩa. Phải biết, mọi người chúng ta chỉ 
                  lễ bái những cái gì thiêng liêng, đáng sùng kính tôn trọng, 
                  chứ không phải vì mê tín thần quyền nhảm nhí. Một trong những 
                  khía cạnh nhỏ như vậy cũng đủ chỉ cho chúng ta thấy được đời 
                  sống trong thế gian, với những liên hệ gia đình, xã hội, tất 
                  cả đều được bao gồm trong kỷ luật cao cả, và đều nằm trong 
                  khung theo lối sống của phật giáo như Ðức Phật đã quan niệm.
 
                  - 
                  
                  Kết Luận:
 
                  - 
                  
                  Nhìn chung chúng ta thấy đạo Phật là con đường sống, và điều 
                  cốt yếu là mọi người phải thật hành Bát Chánh Ðạo. Trong 
                  truyền thống Phật Giáo có những lễ tục rất đẹp và đơn giản như 
                  những ngày Ðức Phật Ðản Sanh, và tất cả những ngày lễ khác, 
                  chư Phật Tử thường về chùa lễ Phật, nơi khuôn viên lễ đài 
                  những bảo tháp có tượng Phật...Tất cả ở những nơi đó thường có 
                  Phật Tử lễ bái, dâng hoa thắp đèn, và đốt hương. Ðiều nầy 
                  không nên xem tương tự với sự cầu nguyện trong các tôn giáo 
                  hữu thần. Mà phải coi đây là cách chiêm ngưỡng, tưởng nhớ lại 
                  vị đạo sư đã chỉ con đường chân chánh giác ngộ giải thoát cho 
                  nhân loại. Những sự lễ bái cổ truyền nầy, có đôi khi không cần 
                  thiết, nhưng vẫn có một giá trị ở chỗ thỏa mãn những cảm xúc 
                  và nhu cầu tôn giáo nơi những ai mới phát tâm vào con đường 
                  chân chánh về phương diện tinh thần và tâm linh, từ đó mới có 
                  thể giúp họ bước chân theo chánh đạo.
 
                  - 
                   
 
                  - 
                  
                  Tài Liệu Tham khảo:
 
                  - 
                  - 
                  Nguyên Thủy Phật Giáo Tư Tưởng Luận                   
                  
 
                  - 
                  - 
                  Phật Học Tinh Hoa
 
                  - 
                  - 
                  Lươc Luận Câu Xá Luận
 
                  - 
                  - 
                  Con Ðường Thoát Khổ
 
                  - 
                  - 
                  Ðại Thừa Diệu pháp Liên Hoa Kinh
 
                 
                
                 |