Thiền Học &Triết Học
Thông Trí
--o0o--
  
I- Khởi Ðiểm Của Nguồn Thiền.
Muốn biết nguyên nguồn xuất xứ của Thiền trước hết chúng ta cần biết đến một vài khía cạnh chính yếu của lịch sử, dân tộc tính và nhu cầu chính yếu của người dân Ấn Ðộ thời bấy giờ.
1- Phương Diện Lịch Sử:
Ngược dòng lịch sử vào khỏang 5000 năm trước công nguyên, một dân tộc có công trong việc xây dựng nền văn hóa Ấn Ðộ thời đó là dân tộc Aryan. Dân tộc nầy là một bộ lạc chuyên sống về nghề du mục rày đây mai đó, xuất phát từ vùng trung ương Ấn Ðộ, giống người cao lớn, da trắng mũi cao, giống như người Âu Tây, tuy nhiên chỉ khác ở điểm là họ có tròng con mắt đen. Trong công cuộc mưu sinh dân tộc nầy tiến dần về phía nam, rồi sau đó đến hướng Ðông Nam. Ðến đây họ vượt qua dãy núi Hindùkush, thông qua thung lũng Kabùl, rồi đến cư trú tại địa phương Ngũ Hà. Vùng Ngũ Hà là giao lưu của năm con sông Jhelam, Chenab, Ravi, Béas và Satledj, và cũng là địa phương đã sản xuất ra nền văn hóa phong phú mỹ lệ của Ấn Ðộ ngày xưa. Ðiểm đặc biệt của dân tộc nầy là họ rất thích tư duy, và cũng nhờ ảnh hưởng của nền văn hoá triết học Hy Lạp và các nước Âu Tây nên ngành văn hoá, học thuật, khoa học, triết học đã tiến đến một trình độ khá cao. Khi di chuyển đến vùng Ngũ Hà họ đã chinh phục người dân bản xứ là giống người Dravida, rồi họ lại tiếp tục di chuyển về phía Ðông Nam và cuối cùng họ cư trú tại lưu vực sông Ganges. Ðến dây họ công khai phá rừng, sản xuất nông, lâm nghiệp, lợi dụng thủy sản, canh tác ruộng vườn.., chẳng bao lâu vùng nầy trở thành phồn hoa đô hội.
Như chúng ta biết dân tộc Aryan là một dân tộc chuyên sống về nghề du mục, vì thế mà việc tiêu diệt những dân tộc bản xứ để chiếm cứ đất đai bờ cõi là một vấn đề cần thiết. Sau khi chiếm cứ lãnh thổ của người dân bản xứ tất nhiên là việc phòng ngừa địch thủ, bảo vệ lãnh thổ đã chiếm được cũng là những việc cần phải làm. Ðó là lý do những giai cấp cũng bắt đầu xuất hiện để đảm nhiệm những phần vụ trong xã hội mới. Bốn giai cấp thời đó như sau:
a- Bà La Môn:
Giai cấp nầy lợi dụng thần quyền, chuyên lo về nghi lễ tôn giáo, tế tự thần linh. Ngoài nhiệm vụ tế tự thần linh họ còn có nhiệm vụ quản trị văn hoá, học thuật, giáo dục cho quần chúng.
b- Sát Ðế Lợi:
Giai cấp nầy là giai cấp quyền quý, nắm giữ chính quyền, cai trị dân chúng, và có nhiệm vụ bảo vệ bờ cõi.
c- Tỳ Xá:
Giai cấp nầy lo về buôn bán, nhiệm vụ sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp, và các việc mua bán, đổi chác tương trợ lẫn nhau trong sinh họat hằng ngày.
d- Thủ Ðà La.
Giai cấp nầy là dân tộc bản xứ, sau khi chiến bại, họ bị dân tộc Aryan dùng làm nô lệ. Ðời sống của kiếp người nô lệ họ phải sống ở nơi núi rừng thâm u làm tôi mọi suốt đời, lo phục dịch cho ba giai cấp nói trên.
Như vậy sau cuộc di dân vĩ đại của những người Aryan đến vùng Ngũ Hà và tiêu diệt bộ lạc Dravida để tiến tới một xã hội như lý tưởng của họ thì bốn giai cấp trong xã hội Ấn cũng bắt đầu xuất hiện từ thời đó. Cũng từ đó giòng tình cảm của con người giữa đồng loại cũng bị chia cắt. Sự tranh chấp giữa các giai cấp trong xã hội có khi ngấm ngầm, có khi bộc phát, làm cho cuộc sống căng thẳng, nghẹt thở, khó chịu, mỗi ngày một thêm trầm trọng. Tuy nhiên sự phân chia và kỳ thị giai cấp, bộc phát rất là mãnh liệt xãy ra vào khoảng 1000 năm trước công nguyên, cũng từ đó đời sống của con người vốn đã khổ như con vật cả thể xác lẫn tâm hồn thì nay lại càng khổ hơn, và những người thiệt thòi nhất xã hội trong lúc nầy là giai cấp nô lệ. Họ không có tia hy vọng nào để có thể thay đổi cuộc sống của họ. Những tệ trạng như vậy một phần do ảnh hưởng xã hội đế chế phong kiến, một phần chính do tư tưởng Bà La Môn giáo gây nên. Ðiều nầy chúng ta không lạ khi thấy dòng dõi Bà La Môn đã tạo được lực lượng tôn giáo thì tất nhiên họ phải tìm đủ mọi cách giữ gìn địa vị của mình, và mãi mãi duy trì chế độ giai cấp, nên họ đã vin theo những thần thuyết mơ hồ, không căn cứ. Họ còn đặt ra một bộ luật có tên là Manou nửa chính trị, nửa tôn giáo để cai trị. Trong bộ luật đó có những điều cấm sự hôn phối những người thuộc giai cấp khác nhau. Ðạo đức, tôn giáo lúc nầy chỉ còn là hình thức, đời sống hỗn độn, con người không có tự do, thiếu sinh khí... Tình trạng như vậy kéo dài cho đến năm 624 trước công nguyên Thái Tử Tất Ðạt Ða mới xuất hiện, và sau nầy xuất gia đi tu thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni, và cũng là người đầu tiên khởi xướng thuyết bình đẳng. Theo ngài thì giá trị con người không thể dựa vào dòng họ, giai cấp mà trái lại phải căn cứ vào hành vi đức hạnh của người ấy bởi vì: Một người sanh ra không phải liền thành Bà La Môn hay Chiên Ðà La, mà chính sở hành của người ấy tạo thành Chiên Ðà La hay Bà La Môn.
2- Dân Tộc Tính Của Người Ấn Ðộ:
Nói về dân tộc tính của người Ấn thì chúng ta phải nói đến nền Văn Hóa của họ. Ngay từ buổi rạng đông, Ấn Ðộ đã có một nền văn minh, những ngôn ngữ, và văn tự. Nền văn minh của Ấn Ðộ có rất nhiều nhân chủng tạo dựng, nhưng đại loại có thể chia ra làm hai:
a- Văn Minh Dravidien:
Văn minh Dravidien cũng còn gọi là văn minh da mầu ở Nam Ấn. Nền văn minh nầy là một sự tổng hợp khá bền chắc giữa các mối giao lưu của các vùng Ðịa Trung Hải và Cận Ðông
b- Văn Minh Aryan:
Văn Minh Aryan còn gọi là văn minh của người da trắng ở Bắc Ấn. Theo tài liệu cho chúng ta biết, người Aryan vì là một bộ lạc chuyên  sống về du mục và cũng nhờ ảnh hưởng của nền văn hoá triết học Hy Lạp và các nước Âu Tây nên ngành văn hoá, học thuật, khoa học, triết học đã tiến đến một trình độ khá cao như đã nói ở trên. Khi dân tộc này di chuyển đến vùng thượng du của sông Ganges là một vùng được coi là Trung Tâm Văn Hóa thành thị nguyên thỉ của Ấn Ðộ thì hai nguồn văn hóa ấy kết hợp lại và gây thành một ảnh hưởng rất lớn và dần dần truyền xuống vùng hạ lưu sông Ganges, nơi đây được mọi người trên từ giáo sĩ Bà La Môn, vua chúa; dưới là các tầng lớp nhân dân ai ai cũng chuyên tâm đến vấn đề phát huy tinh thần, văn hóa và triết học. Như vậy chúng ta có thể kết luận về dân tộc tính của Ấn Ðộ là một dân tộc ham chuộng văn hoá, triết học, tôn giáo, hơn nữa họ lại có những kinh nghiệm của núi rừng, nên họ cũng rất thích tư duy,
3- Những Nhu Cầu Của Dân Tộc Ấn:
Ấn Ðộ là một xứ trong vùng nhiệt đới nên khí hậu rất nóng, vì lý do đó mà mọi người dân  họ có khuynh hướng tìm đến với thiên nhiên, những nơi núi rừng mát mẻ tĩnh mịch để nghỉ ngơi an dưỡng. Chính vì lý do đó đã đưa người dân Ấn đến gần với cảnh núi non thanh vắng, và cũng từ đó họ mới dần dần phát minh ra những phương pháp ngồi minh tưởng tịnh dưỡng dưới gốc cây. Sau đó lối tịnh dưỡng nầy trở thành một lối tu hành bổ ích cho việc trau dồi thân tâm, cũng như việc hòa hợp cá tánh và bản thể. Ðây là những ngày đầu khởi nguyên của Thiền Tọa Ấn Ðộ.
II- Sự Biến Ðổi Của Thiền.
Như trên chúng ta thấy, những ngày đầu tiên của Thiền người ta chỉ có một khái niệm giống như ngồi tịnh dưỡng để cho thân tâm được yên tịnh. Nhưng dần dần được giới lãnh đạo tinh thần Bà La Môn là một phái triết học và cũng là một trong bốn giai cấp cai trị người dân Ấn Ðộ thời bấy giờ và Du Già Phái là một trong 6 phái triết học khác của Ấn Ðộ: Số Luận Phái, Thắng Luận Phái, Chánh Lý Phái, Di Mạt Tác Phái, và Phệ Ðà Phái đã biến cải và tổ chức thành phương pháp tọa thiền. Như vậy nguồn gốc của Thiền là một lối tu luyện của người Bà La Môn và phái Du Già, nhưng những quả vị chứng ngộ không được đứng đắn hoàn bị nên những hành giả học Phật thường gọi là Thiền của ngoại đạo. Phương pháp tu tập nầy được lưu hành cho đến thời gian khoảng 650 trước công nguyên, Thái Tử Tất Ðạt Ða đã dùng lối tu luyện nầy kết hợp với tư chất thông minh sẳn có, ngồi tư duy 49 ngày dưới gốc cây Bồ Ðề và đạt được đạo quả giác ngộ.
Sau khi đức Phật Thích Ca nhập Niết Bàn, Phật Giáo được chia thành hai phái: Ðại Chúng Bộ và Thượng Tọa Bộ. Thượng Toạ Bộ vẫn giữ theo truyền thống của Ðức Phật nên họ chuyên hành theo pháp Thiền Quán. Ðại Chúng Bộ lúc đầu không tu theo pháp thiền quán, nhưng về sau chư Tổ Sư muốn lấy phương pháp thiền quán làm phương tiện tu hành, và đồng thời cũng muốn lấy thiền làm căn bản triết lý để thống nhất Phật Giáo, nên đã có những cuộc vận động Phật Giáo thống nhất. Công cuộc vận động lần lần được lan rộng và trở thành hệ thống tổ chức của Thiền Tôn.
III- Triết Lý Thiền.
Mặc dầu người khai sáng ra nguồn Thiền Phật Giáo là Ðức Thích Ca Mâu Ni, tuy nhiên khi truyền sang Trung Hoa và Nhật Bản mới trở thành tôn phái Thiền Tôn. Từ đây chúng ta có thể nói Thiền Tôn là một tôn phái tổng hợp của Thiền Ấn Ðộ và lễ giáo tư tưởng của Trung Hoa, bởi vì, mặc dù Thiền Tôn được tổ chức hình thành ở Trung Hoa nhưng lại ảnh hưởng tư tưởng của Phật Giáo Ấn Ðộ, cho nên người ta thường kết luận Thiền là một tôn phái thuần túy của Ðức Phật Thích Ca truyền lại. Như vậy danh từ Thiền không phải phát xuất từ Trung Hoa và Nhật Bản mà đã có từ Ấn Ðộ. Theo thổ ngữ của Ấn Ðộ rất là phức tạp, nhưng đại loại có hai ngôn ngữ thường dùng đó là Sanskrist hay còn gọi là tiếng phạn, loại ngôn ngữ nầy thường dùng cho các nhà học giả và các nhà tôn giáo. Loại ngôn ngữ thứ hai đó là tiếng Pali, là loại ngôn ngữ thường dùng của người bình dân. Chữ thiền nguyên nguồn của nó là chữ Jhàna từ văn Pali mà ra. Chữ Jhàna trong văn Pali có nghĩa giống như chữ Dhyana của Sanskrist. Chữ Dhyana là ngôn ngữ từ Áo Nghĩa Thư của phái Bà La Môn Giáo. Theo bộ sách nầy thì chữ Dhyana dùng để chỉ cho những người có tâm rộng lớn vĩ đại trong nhân thế, được mọi người tôn xưng và kính ngưỡng lễ bái. Phật Giáo khi truyền vào Trung Quốc, thì Phạn văn, Pali cũng đựợc các nhà truyền giáo chuyển sang Hán  ngữ. Về chữ Dhyana những nhà phiên dịch từ chữ Sanskrist ra chữ Hán thì có rất nhiều, nhưng được coi là đại biểu của các nhà phiên dịch thì có hai ngài: Cưu Ma La Thập và ngài Huyền Trang.
a- Theo Ngài Cưu Ma La Thập:
Chữ Dhyana theo ngài Cưu Ma La Thập thì dịch là Tư Duy Tu. Tư Duy Tu có nghĩa là tập luyện theo phương pháp tập trung tư tưởng và tâm niệm vào một chỗ để quán sát tư duy. Theo tư tưởng Ấn Ðộ, muốn hiểu được chân lý người ta phải hoà mình sống trong chân lý ấy. Ðó là triết học mà cũng là tư tưởng đặc biệt của Ấn Ðộ, và thiền cũng được phát xuất từ tư tưởng nầy.
b- Theo Ngài Huyền Trang
Chữ Dhyana dịch là Tịnh Lự. Tịnh Lự có nghĩa là lắng đọng tâm niệm để suy nghĩ và quán sát. Về ý nghĩa của chữ Tịnh Lự thì như trong Luận Tỳ Bà Sa giải thích: Tịnh tức là tịch tịnh, Lự là trù Lự. Nói một cách khác Tịnh Lự tức là phương pháp làm cho tâm niệm lắng đọng, yên tịnh để suy nghĩ quán sát chân lý. Trong Thanh Tịnh Ðạo giải thích chữ Thiền như sau:
Thiền là chuyên tâm vào một mục đích, một định xứ, quán sát bình đẳng, không thiên kiến nghiêng ngã, không bị phiền não loạn động. Căn cứ vào ý nghĩa ấy cho nên chữ Thiền có nghĩa là cởi mở đoạn trừ tất cả tập khí phiền não như tham, sân, si.
Ngoài ra chữ Thiền còn được dịch là Ðịnh tiếng Sanskrist gọi là Samàdhi. Chữ Samàdhi xuất phát từ chữ Samàhita trong Áo Nghĩa Thư của Bà La Môn Giáo. Theo bộ sách nầy thì chữ Samàhita có nghĩa là: Có trí quán sát nên tâm được bình tịnh tinh thần an ổn, nhẫn nhục, kham khổ và tâm được thống nhất nên chuyên chú vào một chỗ không rong ruổi loạn động theo ngoại cảnh. Phật Giáo mượn danh từ Samàdhi để diễn tả trạng thái bình đẳng của tâm niệm tức là Ðịnh. Thiền và Ðịnh có ý nghĩa liên quan mật thiết như thế nên trong Phật Giáo thường dùng thuật ngữ Thiền Ðịnh là một vì hai chữ đồng nghĩa. Chữ Samàdhi cũng dịch là Chánh Thọ, nghĩa là đọan trừ các tạp niệm, thọ dụng cảnh giới chánh định, hoặc dịch là Chánh Tâm Hành Xứ, nghĩa là dùng sức tam muội mà đoạn trừ các tâm niệm tà ác, an trú vào cảnh chánh định.
Như vậy, mặc dầu Thiền bắt đầu nẩy mầm phát xuất từ Ấn Ðộ, nhưng trong lịch sử văn hoá Ấn Ðộ cách dùng nầy không phải nhất định mà còn có nhiều nghĩa khác. Phái Du Già thì đặt Thiền vào vị thứ bảy trong tám cấp tu hành. Tiểu Thừa Phật Giáo lập ra Tứ Thiền mà trong các lọai Thiền, Tứ Thiền là một hành pháp đặt định. Ðến Ðại Thừa Thiền thì trong Thiền Ba La Mật bao hàm tất cả các lọai Thiền. Tóm lại cách sử dụng về ngôn ngữ tuy không đồng nhất, nhưng bản chất của Thiền thì chủ yếu làm cái tâm chuyên chú vào một cảnh giới, hay chuyên tư duy vào một sự kiện nào đó. Nếu phải miễn cưỡng chia thành cấp bậc thì chúng ta có thể chia ra Thiền và Tam Muội. Thiền và Tam Muội tuy có riêng biệt, nhưng trên đại thể thì Tam Muội hay Thiền cũng đều là một, nghĩa là dùng phương pháp quán tưởng để cho tâm chuyên chú vào một sự kiện thì gọi là Thiền hoặc là Tam Muội. Phép tu thiền tuy là một phép tu toàn nhất cho thân tâm tương ưng, nhưng nếu phân tích ra mà khảo sát thì tự nó đã trở thành hai phương diện, phương diện hình thức và nội dung.
a- Về Phương Diện Hình Thức:
Về mặt hình thức thì trước hết hành giả phải làm cho thân thể được yên tịnh, đoan nghiêm để giúp cho tinh thần được thống nhất, đó là cách tu luyện thân thể. Ðây là hình thức rất phổ thông đối với tất cả lối tu Thiền, và cũng là yếu tố hết sức trọng yếu, vì nếu không có thì phép tu Thiền sẽ không thành tựu.
b- Về Phương Diện Nội Dung:
Căn bản của thiền không phải cốt ở sự thống nhất tinh thần, bởi vì sau khi đã thống nhất tinh thần mà không tư duy về một sự kiện hoặc một cảnh giới nào đó thì ý nghĩa của Thiền hiển nhiên chưa hoàn thành, vì thân và Tâm tuy có yên tịnh nhưng chưa khai ngộ. Khai Ngộ có nghĩa là thực hiện một lý tưởng nào đó trong tinh thần và chính muốn được thực hiện lý tưởng đó nên mới lấy sự tập trung thống nhất tinh thần làm căn bản tư duy, đây là phần nội dung của Thiền
Trong Phật Giáo còn có một danh từ nữa để thay cho Thiền đó là chỉ quán. Chỉ là làm cho tâm yên định. Quán là căn cứ vào sự yên định mà tư duy một cảnh giới nào đó. Như vậy chỉ và quán đã biểu hiện đúng với ý nghĩa của Thiền. Nhưng chỉ quán phải được quân bình nếu tâm được trấn định một cách thái quá sẽ trở thành hôn mê trì độn, và như thế cố nhiên là không thể được. Nhưng nếu tư duy một cách quá độ cũng lại khiến cho tâm tán loạn, như vậy cũng không được. Vậy quân bình nghĩa là tâm yên định, trầm mặc, chuyên chú vào một mục tiêu lý tưởng đã được hoạch định, đó là sự quân bình của chỉ quán, mà bản chất của Thiền cũng hoàn toàn ở điểm nầy.
 
Tài Liệu Tham Khảo:
            - Triết Học Zen
            - Phật Học Tinh Hoa
            - Ðại Thừa Phật Giáo Tư Tưởng Luận.
-- o0o --