- 
                    
                    Vì Sao Phật Giáo
 
                    
                  
                  
                     
                    - 
                    
                    Suy Tàn Tại Ấn Ðộ II
 
                    
                  
                  
                     
                    - 
                    
                    By D.C. Ahir
 
                    
                  
                  
                     
                    - 
                    
                    Dịch Giả: Trần Ðức Phi Bằng
 
                    
                  
                  
                     
                    - 
                    
                    --o0o--
 
                    
                  
                  - 
                   
 
                  - 
                   
 
                  - 
                  
                  Vì có nhiều người thắc mắc việc Ðạo Phật biến mất trên đất Ấn 
                  Ðộ, nơi nó đã ra đời và lớn mạnh đến tuyệt đỉnh. Do đó, chúng 
                  tôi xin dịch bài này của tác giả là một người Ấn Ðộ, cũng là 
                  một người trưởng thành trong xã hôị Ấn Ðộ Giáo, dưới quan điểm 
                  của một học giả hiện đại để cống hiến qúy vị. 
 
                  - 
                   
 
                  
                     
                    - 
                    
                    ***
 
                    
                  
                  - 
                   
 
                 
                
                  
                    
                      
                        - 
                        
                        
                        SỰ NGƯỢC ĐÃI
 
                        - 
                        
                        Một trong những nguyên nhân chính làm cho Phật Giáo suy 
                        tàn và sụp đỗ nhanh chóng ở Ấn Ðộ là sự đàn áp của những 
                        nhà cầm quyền cũng như những người cuồng tín.
 
                        - 
                        
                                    Bố Sa Mật Ða La(Pushyamitra), một tướng lãnh 
                        Bà La Môn dưới triều Brihadratha, vua cuối cùng của 
                        vương triều Khổng Tước(Maurya), là người đầu tiên ngược 
                        đãi Phật Giáo. Ông ám sát nhà vua vào năm 185 trước tây 
                        lịch; soán lấy ngôi vua nước Ma Kiệt Ðà (Magadha), cai 
                        trị bằng sự khủng bố. Một ông vua Ấn Ðộ Giáo khác đàn áp 
                        Phật Giáo là Sasanka, vua nước Gauda (Bengal), hành động 
                        phản bội đầu tiên của ông là giết Rajyavardhana vào năm 
                        605 sau tây lịch, anh của Harsha, vị hoàng đế Phật Giáo 
                        cuối cùng. Sasanka là một người thuộc giai cấp Bà La Môn 
                        và tín ngưỡng thần Shiva. Ông cuồng tín đến nổi trong 
                        cơn giận dữ ông đã phá hủy cây Bồ Ðề. Ngài Huyền Trang 
                        ghé Bồ Ðề Ðạo Tràng vào năm 637 sau tây lịch, vào khoảng 
                        ba thế hệ sau biến cố trên, ghi lại như sau: 
                        
 
                        - 
                        
                        - Trong thời gian sau Sasanka-raja, một tín đồ dị giáo, 
                        phỉ báng Ðạo Phật, và vì ganh ghét đã phá hủy những tu 
                        viện và chặt cây Bồ Ðề, đào đến tận mạch nước dưới đất, 
                        nhưng ông không thể đào đến chổ rể tận cùng của nó. Sau 
                        đó ông dùng lửa đốt và tưới nước mía lên, với ý muốn 
                        tiêu diệt nó hoàn toàn, và không để lại một vết tích nào 
                        về sau. Ông cũng đã dời tượng Phật từ ngôi chùa gần cây 
                        Bồ Ðề và thay vào bằng thần Shiva. Ông cũng đã liệng vào 
                        sông Hằng tảng đá thiêng liêng có dấu bàn chân của Ðức 
                        Phật ở thành Hoa Thị (Pataliputra). Và để làm tròn những 
                        kế hoạch tội lỗi của ông, Sasanka được cho biết là đã 
                        tiêu diệt tăng sĩ trong khu vực Câu Thi La (Kushinagar).
 
                        - 
                        
                                    Một trong những người đàn áp Phật Giáo lớn 
                        lao nhất là thủ lãnh Hung Nô, Mihirakula, đã làm thiệt 
                        hại lớn lao cho những chùa Phật Giáo ở Gandhara, Punjab, 
                        và Kashmir. Mihirakula là một người thờ Shiva và là một 
                        nhà bảo hộ lớn cho Bà La Môn giáo. Trong cơn điên rồ của 
                        ông, ông đã san bằng 1,600 tu viện, tháp, và chùa, và 
                        giết hại hằng trăm tín đồ Phật Giáo tại gia. Toramana, 
                        một ông vua cũng của vương triều tàn bạo đó, được cho 
                        biết là đã tiêu hủy chùa Ghostarama ở Kiều Thưởng Di 
                        (Kausambi).
 
                        - 
                        
                                    Về việc đàn áp Phật Giáo ở Kashmir, F.M. 
                        Hussnain viết:
 
                        - 
                        
                        - Chính Nara, người đã khởi sự tiến hành việc tiêu diệt 
                        Phật Giáo ở Kashmir. Ông cho thiêu hủy những tu viện 
                        Phật Giáo ở Kashmir và trừ diệt quần chúng Phật tử bằng 
                        cách tịch thu đất đai của họ để ban cho những người Bà 
                        La Môn. Những gì xảy ra ở Kashmir là một phần trong cùng 
                        tiến trình tiêu diệt Phật Giáo trong nước. Trong cuộc 
                        đấu tranh giữa Phật Giáo và Bà La Môn Giáo, Bà La Môn 
                        giáo đã chiến thắng, trong những hoàn cảnh đó, sự tiêu 
                        diệt của Phật Giáo ở Kashmir chỉ là vấn đề thời gian.
 
                        - 
                        
                                    Hussnain nói thêm: 
 
                        - 
                        
                        - Pravarasena nắm quyền vào khoảng cuối thế kỷ thứ sáu. 
                        Ông ta phải đánh lui những cuộc tấn công của Mummuni, 
                        một thủ lãnh Hồi Giáo đến từ Trung Á. Ông xây dựng thành 
                        phố Pravarasenanagar với những ngôi đền năm vị Nữ Thần. 
                        Chú ông là Jayendra xây một tu viện nổi tiếng là 
                        Jayendravihara, thờ một tượng Phật lớn nhất. Ngài Huyền 
                        Trang đã viếng tu viện nầy trong thời gian ở tại 
                        Kashmir. Tu viện nầy đã bị Ksemagupta thiêu hủy, ông nấu 
                        chảy bức tượng khổng lồ để dùng cho đền thờ thần Shiva 
                        của ông.
 
                        - 
                        
                                    Một người khác được coi như đối thủ của Phật 
                        Giáo, người đã tuyên bố: Giáo lý của Phật là thứ vô dụng 
                        giống như chất mủ chảy ra từ da chó là Kumarila Bhatt, 
                        một người Bà La Môn. Ông sống vào thế kỷ thứ bảy sau tây 
                        lịch. Theo đề nghị của ông, Suddhanvan, vua nước Ujjain, 
                        được nói là đã tiêu diệt những tín đồ Phật Giáo. Sự đàn 
                        áp tàn nhẫn tín đồ Phật Giáo của Suddhanvan, dưới sự xúi 
                        dục của Kumarila Bhatt, được ghi lại trong hai tài liệu 
                        về tiểu sử của Sankaracarya, đó là tác phẩm 
                        Sankaravijaya do Anandagiri, đệ tử trực tiếp của 
                        Sankaracarya viết, và tác phẩm Sankara-digvijayam do 
                        Madhava (thế kỷ mười bốn) viết. Thực vậy, Madhava 
                        Acharya xác nhận rằng, với sự xúi dục của Kumarila 
                        Bhatt, Suddhanvan ra lệnh giết chết tất cả tín đồ Phật 
                        Giáo từ Ramesvaram đến vùng Hy mã lạp sơn. Ông còn ra 
                        lệnh nếu ai không giết tín đồ Phật Giáo sẽ bị xử tử.
 
                        - 
                        
                                    Sankaracarya, một vị thầy Vedanta, cũng chịu 
                        trách nhiệm trong việc đàn áp Phật Giáo. Thật vậy, ông 
                        đã gieo sự khũng bố trong tâm tín đồ Phật Giáo. Theo 
                        truyền thống Tây Tạng, khi ông đến, tín đồ Phật Giáo 
                        trong các chùa bắt đầu phân tán tứ tung. Chính ông đã có 
                        lần viết trong Bhashya của kinh Phạm Thiên rằng: Phật Ðà 
                        là một kẻ thù của quần chúng và đã dạy những điều mâu 
                        thuẫn và lộn xộn.
 
                        - 
                        
                                    Cách thức người Ấn Ðộ Giáo xử dụng để đẩy 
                        Phật Giáo ra khỏi nơi sinh sản ra nó được soi sáng trong 
                        câu chuyện thần thoại Gaya Asura ghi trong Gaya 
                        Mahatmya, một phần trong Thánh thư Vaya. Theo huyền 
                        thoại nầy, Gaya Asura (con quỉ) đạt được quả vị thần 
                        thánh đến mức độ bất cứ ai thấy hay chạm được nó là sanh 
                        về cỏi trời. Yama, vua Diêm Vương, nổi lòng đố kỵ, cầu 
                        chư thần giảm bớt năng lực của Gaya Asura. Các vị thần 
                        đợi Gaya và xin nó bố thí sự trong sạch và thân thể 
                        thánh thiện của nó để tế lễ. Ðáp ứng lại điều đó, Gaya 
                        đến và nằm xuống, cái đầu đặt tại vị trí xưa là Gaya. 
                        Các thần đặt một tảng đá trên đầu nó. Nhưng điều đó chưa 
                        đủ chứng minh nó có thể nằm yên. cuối cùng Gaya Asura 
                        trở nên bất động khi thần Vishnu ngồi trên tảng đá để 
                        giữ không cho nó cử động, và hứa rằng tảng đá trên đầu 
                        nó sẽ được tuyên dương, là nơi linh thiêng nhất trên 
                        trái đất; chư thiên sẽ nghỉ trên tảng đá đó; chỗ đó sẽ 
                        được đặt tên là Gaya-Kashetra; và rằng ai cúng dường 
                        bánh trong tang lễ và thực hành tang lễ ở đó thì chính 
                        mình được phước và làm cho tổ tiên được sinh lên trời, 
                        nơi của Phạm Thiên.
 
                        - 
                        
                                    Câu chuyện về Gaya Asura xưa đến độ nào 
                        chúng ta khó biết. Dù luận điệu của những người Ấn Ðộ 
                        Giáo chính thống về sự cổ xưa của Gaya như thế nào, 
                        chúng ta thấy rõ rằng thành phố Gaya đã được nâng lên 
                        địa vị như ngày nay trong thế giới Ấn Ðộ Giáo chỉ sau 
                        khi Phật Giáo suy sụp ở Ấn Ðộ.
 
                        - 
                        
                                    Theo quan điểm của tiến sĩ Rajindralah 
                        Mitra, một học giả với tầm nhìn về lịch sử có một không 
                        hai, câu chuyện thần thoại khó tin trong Thánh thư Vayu 
                        hàm chứa một biểu tượng về sự chiến thắng cuối cùng của 
                        Bà La Môn giáo đối với Phật Giáo, tôn giáo đã từng nẩy 
                        nở mạnh mẽ trong và quanh Gaya suốt nhiều thế kỷ. Xin 
                        trích một đoạn của ông:
 
                        - 
                        
                                    - Những người Ấn Ðộ Giáo tin rằng câu chuyện 
                        nầy là có thật theo nghĩa đen, nhưng tiến sĩ Buchanan 
                        gọi đó là một chuyện thần thoại quái đản và có thể là 
                        vậy. Thoạt nhìn qua không có gì có thể hồ đồ và ngu xuẩn 
                        hơn câu chuyện nầy; nó vi phạm mọi ý nghĩa khuôn phép, 
                        và ngay cả giá trị về tính chân thật trong sự kể chuyện 
                        của nó cũng không có. Ðồi Brahmayoni, cũng là núi 
                        Kalahala, dài ba dặm, và tưởng tượng đặt trên đó một 
                        người 125 yojan (do tuần) hay 576 dặm bề cao, và 268 dặm 
                        chu vi không thể nào làm được, cho dù là người có đầu óc 
                        nghèo nàn nhất cũng nhận được. Một chiếc đầu một dặm chu 
                        vi trên một cơ thể 576 dặm cao, cũng giống như cây kim 
                        nằm trên cơ thể của một người bình thường. Sự vô dụng 
                        của các thần để giữ một con ma đang nằm và những cố gắng 
                        vô ích của họ để giữ con ma không cựa quậy, quả thật trẻ 
                        con. Và trong trường hợp nầy, một vấn đề được đặt ra: 
                        Làm thế nào tác giả của thánh thư Vayu trong đó Gaya 
                        Mahatmya là một bộ phận, tạo ra một câu chuyện quá trẻ 
                        con để bảo đảm sự tôn kính và sùng bái của số đông quần 
                        chúng đối với địa danh nầy? Ông không thiếu sự thông 
                        minh, vì ông đã thảo luận những vấn đề triết học khó 
                        hiểu với tài xử trí và khéo léo đáng lưu ý. Cũng vô lý 
                        và không thật khi nói rằng ông không thể phân biệt sự 
                        hợp lý với tính trẻ con và hàm hồ. Vì vậy, coi câu 
                        chuyện nầy như là một thứ hồ đồ, theo ý tôi, là một kết 
                        luận vội vàng, và là dấu hiệu của sự thiếu kiên nhẫn. 
                        Chúng tôi cần đứng trên quan điểm của một sử gia triết 
                        học để giả thiết rằng có một cái gì đó bí mật dấu sau 
                        lớp vỏ bên ngoài của câu chuyện; với một ý nghĩa bí mật. 
                        Tôi tin tưởng, điều nầy dễ nhận thấy, câu chuyện nầy là 
                        một phúng dụ về sự thành công của Bà la môn giáo đối với 
                        Phật Giáo:
 
                        - 
                        
                        - Gaya được gọi là một Asura, thông thường có nghĩa là 
                        người khổng lồ, một ma quỷ, một con ma dụ dỗ, một người 
                        chửi rủa các thần và tôn giáo; nhưng nó không được vẽ ra 
                        như vậy. Nó không ham mê trong tội lỗi, không làm thương 
                        tổn ai, và không chống lại các thần cũng như tôn giáo 
                        bằng lời nói hay hành động. Ngược lại, nó được diễn tả 
                        là một người sùng kính Vishnu, hiến mình cho sự sám hối 
                        nghiêm nhặt, và những cuộc thiền định kéo dài, và cho 
                        những yêu cầu làm trong sạch tột cùng thể xác và tâm 
                        hồn; một người mà chỉ chạm đến là có thể rửa sạch những 
                        tội lỗi lớn nhất của con người và được sinh vào cõi 
                        trời. Sự buộc tội nghiêm trọng nhất đối với y là đã làm 
                        sự cứu rỗi quá đơn giãn và ngắn gọn. Trong trường hợp 
                        của y, vì vậy, sự việc chỉ có nghĩa là y đã không theo 
                        tín ngưỡng của người Bà la môn, cũng không theo đường 
                        hướng của họ, tóm lại y là một người dị giáo. Tính chất 
                        nầy đã luôn luôn được gán cho những người lãnh đạo trong 
                        khối Phật Giáo. Họ sùng tín, họ biết sống khổ hạnh, họ 
                        hết lòng dấn thân vào sự sám hối và thiền định; nhưng họ 
                        tránh xa sự tế tự và những cuộc lễ của người Bà La Môn, 
                        và vì vậy Gaya có thể được coi như sự nhân cách hóa Phật 
                        Giáo. Thân thể của nó đo được 576 x 268 dặm, và khu vực 
                        từ Kalinga đến Hy mã lạp sơn, và từ Trung Ấn đến Bengal, 
                        khu vực mà Phật Giáo đã lan tràn trong thời gian câu 
                        chuyện được viết ra bao trùm khắp không gian đó, và còn 
                        hơn nữa. Tổng hành dinh của Phật Giáo là Gaya; và thị 
                        trấn Gaya, ngay cả ngày nay, có bề rộng vừa một dặm. Cố 
                        gắng của các thần để đặt xuống chiếc đầu của con ma là 
                        một điển hình cho cố gắng của người Ấn Ðộ Giáo tấn công 
                        Phật Giáo ở trung tâm gây cảm hứng cho nó, trung tâm đầu 
                        não, và đòn gậy của Vishnu chỉ cho phương sách đã dùng 
                        để tấn công khi sự thuyết dụ không đạt được kết quả cuối 
                        cùng. Tảng đá tôn giáo được đặt lên đầu của kẻ không 
                        theo đạo, sức mạnh của các thần giữ nó cố định và không 
                        thể lay chuyển. Cũng chính là phúc lành của chư thần đã 
                        thánh hóa cái nôi của Phật Giáo trở thành một nơi tôn 
                        nghiêm của tín ngưỡng Ấn Ðộ Giáo. Chúng ta biết quá rõ 
                        về những phương tiện được dùng đến ở Puri, Bhuvnesvana, 
                        và những nơi khác để biểu hiện những biểu tượng Phật 
                        Giáo. Những nơi thiêng liêng của Phật Giáo, và ngay cả 
                        những tượng Phật Giáo có ích cho sự lễ bái của Ấn Ðộ 
                        Giáo, và không vô lý một chút nào khi giả thuyết cùng 
                        một tiến trình đã được xử dụng tại Gaya.
 
                        - 
                        
                                    Ngoài sự đàn áp của vua chúa và tôn giáo, 
                        Phật Giáo còn là đối tượng đàn áp và tẩy chay của xã 
                        hội. Chúng ta thấy rõ rằng khi Phật Giáo bắt đầu suy 
                        tàn, người Ấn Ðộ Giáo đã lợi dụng sự nghèo khó của tín 
                        đồ Phật Giáo, cho phép họ vào lại cộng đồng Ấn Ðộ Giáo 
                        nhưng lên án họ là những người Không Thể Chạm Ðến, ghép 
                        vào giai tầng thấp nhất, ở ngoài bốn giai cấp của Ấn Ðộ 
                        Giáo. Họ hoàn toàn bị rút phép thông công với xã hội, và 
                        bị gán cho danh hiệu là Pariah, Pamchama, Avarna, 
                        Ati-Shudra là những người mà chỉ chạm vào hay chạm vào 
                        bóng là có thể làm ô uế giai cấp Ấn Ðộ Giáo. Họ bị buộc 
                        phải sống ở bên ngoài làng và đã là mục tiêu cho nhiều 
                        chứng bịnh xã hội. Họ bị từ chối khả năng học hành, và 
                        chỉ có thể làm những nghề nghiệp thấp thỏi hèn hạ. Không 
                        những họ bị cấm không được xử dụng nước giếng, hồ chứa 
                        nước, và những nơi công cộng, họ còn không có quyền có 
                        sở hữu. Tóm lại, họ bị coi là những người nô lệ, họ 
                        không có chọn lựa nào khác hơn là phục dịch cho những 
                        cái gọi là giai cấp cao hơn mà không có một phần thưởng 
                        nào. Chúng ta không nghi ngờ, khi bị đè dưới gánh nặng 
                        của nghèo nàn, cộng với sự đàn áp và bốc lột của xã hội, 
                        những đệ tử của Ðức Phật đã quên di sản huy hoàng của họ 
                        và cam chịu số phận đau thương. Sự đối xử lỗ mãng đối 
                        với người Không Thể Chạm Ðến, ngày nay là những giai cấp 
                        phụ bởi giai cấp Ấn Ðộ Giáo chỉ có thể được giải thích, 
                        đó là kết quả của thành kiến và thù ghét của họ đối với 
                        Phật Giáo. Bằng không, tại sao một khối người lớn lao 
                        lại bị tước đoạt phương tiện và bị nguyền rủa là Không 
                        Thể Ðến Gần, Không Thể Nói Chuyện, và Không Thể Va Chạm.
 
                        - 
                        
                                    Việc những Người Không Thể Chạm Ðến, hay là 
                        những Giai Cấp Phụ ở Ấn Ðộ ngày nay là những tín đồ Phật 
                        Giáo ngày xưa có thể được chứng minh:
 
                        - 
                        
                        - Ðầu tiên, hầu hết những phong tục và tính chất của họ 
                        nền tảng là Phật Giáo. 
 
                        - 
                        
                        - Thứ hai, họ không quan tâm nhiều đến những thần linh 
                        Ấn Ðộ Giáo. Giống như tín đồ Phật Giáo, họ thờ phụng Ðức 
                        Phật, vị Thầy vĩ đại nhất của họ và họ tôn thờ những vị 
                        Thầy như Ravidas, Chokhamela, Kabir, v.v. Như vậy, giống 
                        như tín đồ Phật Giáo, họ là những người Gu-bhaju, những 
                        người tôn thờ Thầy, chứ không phải là những Dev-bhaju, 
                        những người thờ phụng thần linh như trong trường hợp 
                        những người Ấn Ðộ Giáo. 
 
                        - 
                        
                        - Thứ ba, một vài giai cấp phụ ở Punjab, Himachal 
                        Pradesh, Delhi, và Rajasthan tự xưng là Ad-Dharmi hay 
                        Adi-Dharmi. Chữ Ad có nghĩa là cổ, xưa hay nguyên thủy 
                        và người Ad-Dharmi tin tưởng rằng họ là tín đồ của một 
                        tín ngưỡng cổ xưa. Không nghi ngờ rằng những từ như 
                        Ad-Dharmi hay Adi-Dharmi có mầm giống Phật Giáo vì chúng 
                        tương tự những thành ngữ Phật Giáo như Adi-Buddha và 
                        Adi-Dharma mà theo truyền thống Ðại thừa, chúng biểu thị 
                        cho trí tuệ hay Tâm và Vật. Hơn nữa, những tín đồ Phật 
                        Giáo từ lâu đời đã gọi tôn giáo của họ là Dharma hay 
                        Saddharma, và những tín đồ Phật Giáo ở Orissa gọi họ là 
                        Mahima Dharmi (những tín đồ của Giáo Pháp đáng tán 
                        dương).
 
                        - 
                        
                                    Thật vậy những người nầy đã là những tín đồ 
                        Phật Giáo trong quá khứ. Ðiều xảy ra sau nầy dường như 
                        là do sự đàn áp và không được học hành, họ đã quên tên 
                        Phật Ðà hay có thể họ từ bỏ tên của Ðấng Pháp Vương để 
                        không còn chịu gian khổ như Achyutananda một thi sĩ ở 
                        Orissa vào thế kỷ thứ mười sáu, an ủi họ bằng cách nói 
                        rằng: vì sự đáng ao ước trong Kaliyuga mà những tín đồ 
                        Phật Giáo phải cải trang.
 
                        - 
                        
                                    Sự xâm nhập của người Hồi Giáo đẩy mạnh sự 
                        điêu tàn của Phật Giáo trên đất Ấn. Khi người Hồi Giáo 
                        đến, họ có hai đối tượng trước mắt:
 
                        - 
                        
                        - Thứ nhất là nắm quyền chính trị, 
 
                        - 
                        
                        - Thứ hai là truyền bá Hồi Giáo. 
 
                        - 
                        
                        Ðể đạt được mục đích thứ hai, họ có kế hoạch khử trừ 
                        những đền chùa Phật Giáo và Ấn Ðộ Giáo, các tăng sĩ và 
                        thầy tế của Bà La Môn, vì chúng là những kho tàng tư 
                        tưởng tôn giáo. Họ có khuynh hướng chống những tu sĩ 
                        Phật Giáo, những người đã truyền bá thông điệp bình đẳng 
                        do đức Như Lai dạy. Khuynh hướng nầy được trù hoạch vì 
                        người Hồi Giáo, thấy rằng họ gặp khó khăn trong việc 
                        truyền dạy thông điệp tiên tri của họ về bình đẳng dưới 
                        quan điểm của những giáo lý tương tự như của Ðức Phật. 
                        Do đó, những người Hồi Giáo cuồng tín san bằng các tu 
                        viện, và thủ tiêu hầu hết các tăng sĩ trong tu viện đó. 
                        Thiểu số may mắn thoát khỏi lưỡi gươm của Hồi Giáo, họ 
                        phải chạy trốn để giữ mạng và tìm nơi ẩn náu ở những 
                        nước láng giềng. Hai ông vua Hồi Giáo đáng chú ý đã tàn 
                        phá những nơi thiêng liêng của Phật Giáo là Mahmud 
                        Gazinavi và Bakhtiaruddin Khilji. Ông vua trước đã cướp 
                        bóc những chùa chiền ở Kot Kangra (Mimachal Pradesh) vào 
                        thế kỷ thứ mười, và ông vua sau đã phá hũy những tu viện 
                        Nalanda, Vikramasla, và Odentapuri là những trụ sở sống 
                        động cho đến thế kỷ thứ mười hai. Nói về sự xâm lăng của 
                        Hồi Giáo, tiến sĩ Ambedkar nói:
 
                        - 
                        
                        - Những người xâm lăng Hồi Giáo cướp phá những Ðại Học 
                        kể ra một số ít là Nalanda, Vikramasila, Jagaddala, 
                        Odantapuri. Họ nhổ tận nền những tu viện Phật Giáo rãi 
                        khắp nơi trong nước. Tăng sĩ hàng ngàn người chạy trốn 
                        qua nước Nepal, Tây Tạng, và những xứ ngoài Ấn Ðộ. Một 
                        số rất lớn bị giết bởi những người lính Hồi giáo. Tu sĩ 
                        Phật Giáo bị tàn hại dưới lưỡi gươm của những người xâm 
                        lăng Hồi giáo như thế nào đã được các sử gia Hồi Giáo 
                        ghi lại. Tóm tắt tài liệu liên quan đến sự tàn sát tu sĩ 
                        Phật Giáo của tướng Hồi Giáo gây ra ở Bihar khi ông đem 
                        quân xâm lăng vào năm 1197 sau tây lịch, Ông Vincent 
                        Smith viết:
 
                        - 
                        
                        - Tướng Hồi Giáo đã làm cho mọi người biết tên ông trong 
                        lúc khủng bố bằng những cuộc viễn chinh cướp bóc nhiều 
                        lần ở Bihar, chiếm đoạt kinh đô bằng những trận đánh táo 
                        bạo. Sử gia đương thời, gặp một trong những người sống 
                        sót trong toán tấn công vào năm 1243 sau tây lịch, và 
                        được cho biết là pháo đài của Bihar bị chiếm lấy do một 
                        nhóm quân chỉ gồm hai trăm kỵ binh, họ lao vào cửa Ðông 
                        một cách dũng cảm và chiếm lấy vị trí. Một số lượng lớn 
                        đồ cướp bóc được thu thập và sự tàn sát những ỔNgười Bà 
                        La Môn Ðầu TrọcỖ, chỉ những tu sĩ Phật Giáo, hoàn toàn 
                        hoàn tất, và khi người chiến thắng tìm một người có thể 
                        giãi thích được những sách trong thư viện các chùa, thì 
                        không còn tìm được một người nào còn sống để có thể đọc 
                        những sách đó. Chúng tôi được cho biết rằng: ỔNgười ta 
                        khám phá ra rằng toàn bộ pháo đài ở thành phố đó là một 
                        trường cao đẳng, và theo cách nói của  người Ấn Ðộ Giáo 
                        thì họ gọi là trường Bihar.
 
                        - 
                        
                                    Sự tàn sát giới tu sĩ Phật Giáo do những 
                        người Hồi giáo xâm lăng gây ra là như vậy. Vì muốn tiêu 
                        diệt Phật Giáo, nên Hồi Giáo giết giới tu sĩ Phật Giáo. 
                        Ðó là cuộc khủng bố lớn lao nhất làm cho tôn giáo của 
                        Phật Ðà suy tàn ở Ấn Ðộ. Tôn giáo cũng giống như ý thức 
                        hệ khác, có thể được duy trì chỉ bằng sự truyền bá. Nếu 
                        sự truyền bá thất bại, tôn giáo phải biến mất. Lưỡi gươm 
                        của Hồi Giáo gieo mạnh xuống giới tu sĩ. Họ bị tiêu diệt 
                        hay trốn thoát ra nước ngoài. Không còn ai ở lại để  
                        thắp sáng  ngọn lửa Phật Giáo.
 
                        - 
                        
                                    Một số hành giả Ấn Ðộ Giáo lợi dụng tình 
                        trạng người Hồi Giáo gây ra trong việc xâm chiếm những 
                        nơi thờ phụng của Phật Giáo ở Bihar được Dharmasvamim, 
                        một người hành hương Tây Tạng viếng Bihar khoảng ba thế 
                        hệ sau cuộc tai biến, diễn tả một cách sống động. Theo 
                        ông Ratnabodhi, thư viện lớn nhất ở Nalanda, thoát khỏi 
                        sự tàn phá dưới bàn tay người Hồi Giáo, đã bị những khất 
                        sĩ Ấn Ðộ Giáo đốt cháy. Ông  nói: 
 
                        - 
                        
                        - Họ (những người Ấn Ðộ giáo) thực hiện một Yana, lễ tế 
                        lửa, và liệng những than hồng và tro lấy từ hầm tế vào 
                        những ngôi chùa Phật Giáo, v.v. Ðiều nầy gây nên một đám 
                        cháy lớn thiêu rụi Ratnabodhi, thư viện chín tầng của 
                        Ðại Học Nalanda.
 
                        - 
                        
                                    Việc những kẻ đối lập Phật Giáo trong hàng 
                        ngũ Ấn Ðộ Giáo đã không lùi bước trong việc tàn phá 
                        những nơi thiêng liêng của Phật Giáo, ở những nơi khác 
                        cũng được thấy rõ từ những đống tro tàn, những hình ảnh 
                        bị đốt cháy, và xương của những tăng sĩ được các nhà 
                        khảo cổ tìm thấy ở Sarnath và vùng phụ cận. Rõ ràng, các 
                        chùa bị thiêu hủy do những người cuồng tín và việc nầy 
                        dường như đã xãy ra nhiều lần, như thiếu tá Kittoe, 
                        người tiến hành công việc khai quật ở Sarnath vào năm 
                        1851 đã nói:
 
                        - 
                        
                                    - Tất cả mọi thứ đều bị cướp phá và thiêu 
                        hủy, tu sĩ, chùa, tượng, tất cả cùng với nhau, vì ở một 
                        số nơi, xương, sắt, gỗ, và đá được tìm thấy từng khối 
                        lớn, và việc nầy xảy ra nhiều lần.
 
                        - 
                        
                                    Sự suy tàn của những trung tâm Phật Giáo 
                        thổi đến một ngọn gió định mệnh cho tín đồ Phật Giáo, họ 
                        không thể phục hồi trở lại nền tảng đã mất. Vì vậy, trải 
                        qua những thế kỷ kế tiếp, Phật Giáo một mặt bị chính 
                        những người hâm mộ nó thờ ơ, và mặt khác, hàng ngàn chùa 
                        chiền của nó bị những kẻ đối lập hủy diệt, cướp bóc hay 
                        chiếm đoạt. Những công trình Phật Giáo tiếp tục bị tiêu 
                        hủy, cướp bóc trong nhiều thế kỷ chỉ vì vật chất, sẽ 
                        được cho thấy rõ ràng với một vài trích dẫn sau đây:
 
                        - 
                        
                        1- Ngôi tháp tráng lệ Bharut ở Madhya Pradesh, từ đó nó 
                        được gọi tên và nổi tiếng khắp thế giối về những mẫu 
                        tinh vi nhất của Nghệ Thuật và Ðiêu Khắc Ấn Ðộ vào thế 
                        kỷ thứ hai sau tây lịch, đã bị những người địa phương 
                        ngu dốt kéo sập chỉ để lấy gạch làm nhà riêng của họ. 
                        Cunningham, người đã khám phá và khai quật ngôi tháp nầy 
                        vào năm 1873-74, nói rằng làng ngày nay là Bharhut gồm 
                        đến hai trăm ngôi nhà đều hoàn toàn được xây bằng gạch 
                        lấy từ ngôi tháp này. Việc làm của dân làng Bharhut làm 
                        cho những làng lân cận bắt chước. Họ tháo dở một số lớn 
                        những cột trụ và chấn song mang về dựng nhà của họ. 
                        Cunningham đã khám phá ra sáu cây trụ ở làng kế bên là 
                        Batanmara và tám trụ ở Pathora. Ông cũng khám phá ra một 
                        số những tảng đá điêu khắc từng các chấn song của tháp 
                        trong hầu hết các làng rộng lớn xung quanh Bharhut, đặc 
                        biệt là ở Uchahara, Batamara, Pathora, và Madhogarh (hay 
                        Patharhat).
 
                        - 
                        
                        2- Tháp Dharmarajika ở Sarnath bị Jagat Singh tháo dỡ 
                        vào năm 1794 chỉ để lấy gạch xây chợ ở Varanasi. Chợ nầy 
                        ngày nay được biết đến với tên là Jagatganj. Trụ của vua 
                        A-Dục cũng bị đập vỡ.
 
                        - 
                        
                        3- Về ngôi tháp danh tiếng Amaravati ở Andhra Pradesh, 
                        V.R. Narla, một người có thẩm quyền về nghệ thuật Phật 
                        Giáo ở Andhra, nói:
 
                        - 
                        
                         - Hầu hết những tàn tích ngày nay đều rủi ro không còn. 
                        Ngay cả vào thời Ðại tá Colin Mackenzie người đã thấy 
                        tháp Amaravati vào cuối thế kỷ thứ mười tám, nhiều tảng 
                        đá hoa điêu khắc đã bị tiêu hủy. Chúng bị đào lên và đốt 
                        thành vôi do người cầm đầu ở nơi đây, người nầy vào năm 
                        1797 đã dời tổng hành dinh về Amaravati, đám tro tàn của 
                        nó mang nhiều tính chất lịch sử và được truyền thống 
                        thánh hóa, và làm một sự cố gắng yếu ớt để dựng một 
                        thành phố mới gần chùa Amaresvara. Và ngay cả những tác 
                        phẩm điêu khắc thoát khỏi sự phá hoại văn hóa nầy, ngày 
                        nay cũng bị phân rải nhiều nơi.
 
                        - 
                        
                        4- Vào năm 1840, ngôi tháp Phật Giáo ở Gudivada trong xứ 
                        Andhra Pradesh bị phá hủy để lấy vật liệu sửa sang con 
                        đường giữa Bezwada và Bandar. Ðề cập đến sự phá hoại văn 
                        hoá nầy, ông Rea nói: 
 
                        - 
                        
                        - Thật là hối tiếc, tất cả những công trình nầy đã phải 
                        chịu hủy hoại bởi những bàn tay của những người cầm vật 
                        liệu để xây dựng đường và những công việc tương tự. Mặc 
                        dù những công trình kiến trúc cổ xưa nhất còn tồn tại 
                        một nền văn minh cổ, tính chất thái cổ của chúng không 
                        có sự bảo vệ cho chúng khỏi những bàn tay tước đoạt.
 
                        - 
                        
                        
                        PHẬT GIÁO BỊ ÐỒNG HÓA
 
                        - 
                        
                        Ðể đối đầu tương xứng với Phật Giáo, Ấn Ðộ Giáo đã sớm 
                        tiến hành việc sửa đổi và tự biến dạng. Về việc nầy họ 
                        đã vũ trang hệ thống của họ bằng những tính chất tốt đẹp 
                        của Phật Giáo cả trong lý thuyết và thực hành. Trong 
                        tiến trình cải cách nầy, người Ấn Ðộ Giáo tiếp nhận lý 
                        tưởng Bất Sát (Ahimsa) và từ bỏ việc tế súc vật; và cũng 
                        bắt đầu tổ chức theo cách thức trong các tu viện Phật 
                        Giáo. Xa hơn, để chấm dứt việc đấu khẩu lâu dài và khó 
                        khăn để giành phần thắng của những tín đồ của hai tôn 
                        giáo, Ðức Thích Tôn được họ đặt vào trong các thần Ấn Ðộ 
                        Giáo, như là một Hóa Thân (Avatara) của thần Vishnu. Và 
                        điều nầy được công bố trong quảng đại quần chúng do các 
                        tác giả Purana. Bên cạnh thánh thư Varaha, nói rằng nhờ 
                        tuân theo lời nguyện của Buddhavadasi, vua Tịnh Phạn 
                        (Suddhodana) đã được thần Vishnu xuống làm con dưới hình 
                        tướng Phật Ðà. Ðức Phật đã bị coi là một Avatara của 
                        Vishnu trong Matsya, Bhagavata, Garuda, và Linga Purana. 
                        Không chỉ vậy, những người thờ thần Shiva tiếp thâu 
                        những yếu tố tu viện và chiêm nghiệm của Phật Giáo, và 
                        những người thờ thần Vishnu tiếp thâu những yếu tố sùng 
                        bái và nhân đạo của Phật Giáo để bảo đảm tính phổ biến 
                        trong quần chúng. Những người thờ thần Vishnu còn sửa 
                        đổi thái độ của họ về vấn đề hệ thống giai cấp. Họ chấp 
                        nhận nó như là một thể chế xã hội, không chuyên chở một 
                        sự theo đuổi tôn giáo hay tâm linh nào. Như tiến sĩ 
                        Radhakrishnan nói: 
 
                        - 
                        
                        - Một tiến trình thâm nhập và sửa đổi từ từ đã phát 
                        triển, như việc ủng hộ thuyết cho rằng Ðại Thừa Giáo chỉ 
                        là một giai đoạn phân phái trong trào lưu lớn những 
                        người thờ thần Vishnu, Tiểu Thừa Giáo, với tính chất khổ 
                        hạnh nhiều hơn, được coi như một phái của người thờ thần 
                        Shiva. Khi tín ngưỡng Bà La Môn khắc sâu tình thương mọi 
                        loài và sùng bái thần linh và tuyên bố rằng Ðức Phật là 
                        hóa thân của Vishnu, hồi chuông báo tử của Phật Giáo ở 
                        Ấn Ðộ đã vang lên.
 
                        - 
                        
                        
                        NHỮNG NGUYÊN NHÂN BÊN TRONG
 
                        - 
                        
                        Bên cạnh những nguyên nhân bên ngoài, chắc chắn là những 
                        nguyên nhân chính cho sự thoái hoá và biến mất của Phật 
                        Giáo, còn có một số ít những hạn chế và lầm lỗi bên 
                        trong cũng đã làm cho sự biến mất cuối cùng của Phật 
                        Giáo trên quê hương nó xảy ra một cách nhanh chóng.
 
                        - 
                        
                                    Chúng ta phải thừa nhận rằng chính những tín 
                        đồ Phật Giáo lãnh phần trách nhiệm lớn cho số phận đáng 
                        buồn của tôn giáo của họ. Ðức Phật đã vạch ra con đường 
                        cho các vị Tỳ kheo không những là người đi tìm sự giác 
                        ngộ bằng thực hành những giới luật đạo đức và tâm linh, 
                        nhưng cũng là người phụng sự xã hội hay là người bạn, 
                        triết gia và người hướng đạo cho quần chúng. Ðức Phật là 
                        một vị thầy tôn giáo đầu tiên ở Ấn Ðộ, hay nói đúng hơn 
                        là toàn thế giới, cổ vũ những đệ tử của mình đi và đi 
                        khắp nơi vì hạnh phúc và lợi ích của nhiều người. Thêm 
                        nữa, Ngài là người đầu tiên đưa ra lý tưởng hy sinh, 
                        quên mình và phục vụ cho kẻ khác. Ngài nói rằng một Tỳ 
                        kheo phải xin ăn, phải sống bằng vật bố thí, phải hạn 
                        chế chỉ ăn ngày một bửa. Theo những lời dạy của Thầy 
                        những vị Tỳ Kheo đầu tiên đã đạt đến những tiêu chuẩn 
                        cao nhất của lòng kính tín, hy sinh và phụng sự. Ðiều 
                        nầy đã thành tựu rực rỡ và làm cho Phật Pháp trở thành 
                        một tôn giáo phổ biến và được tôn kính nhất ở Ấn Ðộ. 
                        Nhưng bất hạnh thay, các tăng sĩ về sau đã không giữ 
                        những tiêu chuẩn dành cho họ. Khi các tu viện trở nên 
                        giàu có, thì hoạt động chính của họ được coi là đào sâu 
                        việc nghiên cứu từ chương thay vì truyền bá Giáo Pháp, 
                        tăng sĩ đánh mất sự giao hảo gần gũi với quần chúng, và 
                        tương quan giữa tăng sĩ và cư sĩ bị thụt lùi. Các vị Tỳ 
                        Kheo trở nên xao lãng và thụ động đối với những mục đích 
                        thực tiễn. Ðiều nầy làm cho Phật Giáo suy yếu. Tình 
                        trạng Tăng Già trong những năm chấm dứt thời kỳ vinh 
                        quang của Phật Giáo tại Ấn Ðộ có thể được đánh giá từ 
                        những điều mà Cunningham, một nhà khảo cổ, thám hiểm, và 
                        học giả vĩ đại nhất nói vấn đề nầy. Ông nói:
 
                        - 
                        
                                    - Phật Giáo đã thật sự trở nên một tín 
                        ngưỡng già nua và kiệt lực, những vị khất sĩ không còn 
                        đi khất thực, nhưng từ lâu đã được hổ trợ bằng đất đai 
                        dành riêng cho các tu viện. Các vị Sa Môn và Tỳ Kheo 
                        không giống như những người của thời xưa, những người 
                        uyên bác và trí tuệ, sự tiết độ về thân xác và sự nhứt 
                        tâm thiền quán cộng với những chủ trương thực tiễn và 
                        gương mẫu trong sạch, đã kích thích lòng sùng kính của 
                        quần chúng. Những tín đồ Phật Giáo hiện đại rơi vào tình 
                        trạng mục nát, họ bằng lòng sống một đời sống thụ động 
                        trong những công việc tẻ nhạt hằng ngày của đời sống tu 
                        viện, nơi đó còn một vài dấu hiệu tôn giáo bề ngoài; 
                        nhưng không còn sự tha thiết nồng nhiệt trong sinh hoạt 
                        thiếu sinh khí của những công việc tẻ nhạt hằng  ngày 
                        đó, và lòng hăng say đã có thời đốt cháy trong tim của 
                        mỗi người tu sĩ Phật Giáo trong việc truyền bá tôn giáo 
                        của họ đã dập tắt từ lâu.
 
                        - 
                        
                                    Trong những ngày xa xưa, tăng sĩ và tu viện 
                        là huyết mạch của Phật Giáo. Nó nẩy nở, bao giờ những tu 
                        viện còn, các tăng sĩ còn cẩn trọng. Một khi các tăng sĩ 
                        trở nên thờ ơ và đánh mất cái tầm nhìn vào sứ mệnh của 
                        họ, Phật Giáo suy tàn. Và khi các tu viện làm mồi cho sự 
                        phá hoại văn hoá, Phật Giáo đi đến chỗ sụp đổ hoàn toàn. 
                        Rất nhiều sách vở Phật Giáo, hầu hết được cất giữ trong 
                        các tu viện, cũng hoàn toàn biến mất ở Ấn Ðộ do sự phá 
                        hủy các tu viện. Lý do là những tín đồ Phật Giáo không 
                        có tổ chức cư sĩ để giảng dạy, truyền bá, và bảo vệ tôn 
                        giáo của họ. Với sự thiếu vắng những tổ chức như vậy, họ 
                        chỉ đứng nhìn mà không giúp được gì khi các tu viện bị 
                        cướp phá, xúc phạm và các tăng sĩ bị trục xuất hay giết 
                        hại.
 
                        - 
                        
                                    Sự thiếu vắng những tập quán và nghi thức 
                        cho những cuộc lễ lộc trong xã hội như đám cưới, v.v. 
                        của Phật Giáo cũng là một trong những yếu tố làm cho 
                        Phật Giáo suy tàn ở Ấn Ðộ. Ðức Phật chống lại chủ nghĩa 
                        nghi thức, cũng như độc quyền của những người Bà La Môn 
                        là giai cấp thầy tế, không cho phép những tăng sĩ hành 
                        động như những thầy tế trong những cuộc lễ có tính cách 
                        xã hội. Cũng không có những cuộc lễ đặc biệt về sinh 
                        nhật, cưới hỏi, v.v. được đề ra. Như vậy giới cư sĩ tiếp 
                        tục thực hành theo những phong tục và lễ lộc đang lưu 
                        hành, phần lớn do những người Bà La Môn đề ra. Thái độ 
                        không xen vào của Phật Giáo, như tiến sĩ Joshi nói:
                        
 
                        - 
                        
                        - Mặc dù giúp cho sự truyền bá tôn giáo được trôi chảy, 
                        đã đem đến kết quả trên chặng đường dài làm suy giãm ảnh 
                        hưởng của nó trong xã hội.
 
                        - 
                        
                                    Một nguyên nhân bên trong khác, lót đường 
                        cho sự suy tàn của Phật Giáo, là sự chiều chuộng quá 
                        đáng của những tín đồ đại thừa nhiệt tình đối với những 
                        sự mê tín của Ấn Ðộ giáo. Ðể truyền bá rộng tín ngưỡng 
                        của họ, không những họ đã nhân lên và thần thánh hóa Ðức 
                        Phật, lại còn đưa một số thần và nữ thần Ấn Ðộ Giáo vào 
                        làm các vị thần Phật Giáo, dưới dạng những Bồ Tát để 
                        nhân cách hóa những năng lực của Phật Ðà. Việc nầy làm 
                        cho Phật Giáo không còn khác biệt, ngọai trừ tên gọi, 
                        với các thần thánh Ấn Ðộ Giáo, sự khác biệt giữa hai tôn 
                        giáo bị xóa bỏ. Và khi Ấn Ðộ Giáo đưa Ðức Phật vào danh 
                        sách các thần của họ để chứng minh rằng Phật Giáo là một 
                        phái của họ. Phật Giáo đánh mất tính riêng biệt.
 
                        - 
                        
                        
                        KẾT LUẬN
 
                        - 
                        
                        Mất sự bảo trợ của giới vua chúa có thể được coi là một 
                        nguyên nhân khác làm sự suy tàn của Phật Giáo mau chóng. 
                        Ví dụ, phải trên hai trăm năm để Phật Giáo mọc những 
                        chiếc rễ vững chãi và có được hình thái của một trào lưu 
                        giãi phóng xã hội lớn trên quê hương của nó. Việc nầy 
                        xảy ra với sự ra đời của vua A Dục (Ashoka) vào thế kỷ 
                        thứ ba trước tây lịch. Tuy nhiên trong vòng năm mươi năm 
                        vua A Dục qua đời vào năm 232 trước Tây lịch, Ðế quốc 
                        Khổng Tước (Maurya) sụp đỗ và Phật Giáo mất sự bảo trợ 
                        của giới vua chúa chỉ trở lại 300 năm sau với sự ra đời 
                        của Ca Nhị Sắc Ca (Kanishka) vào năm 78 sau Tây lịch. 
                        Với sự sụp đỗ của vương triều Qúy Sương (Kushana) vào 
                        thế kỷ thứ hai sau Tây lịch, Phật Giáo lại mất sự bảo 
                        trợ của giới vương giả. Giai đoạn sau Quý Sương là một 
                        giai đoạn rối ren chính trị, cuối cùng đã đưa đến sự nổi 
                        lên của vương triều Cấp Ða (Gupta) ở nước Ma Kiệt Ðà 
                        (Magadha). Những vị vua của vương triều Cấp Ða là những 
                        người theo Bà La Môn giáo và triều đại của họ được đánh 
                        dấu là đã làm phục hồi Bà La Môn giáo. Người bảo trợ có 
                        quyền hành cuối cùng cho Phật Giáo là vua Giới Nhật 
                        (Harsha) nắm quyền vào năm 606 sau Tây lịch, có nghĩa là 
                        năm trăm năm sau vua Ca Nhị Sắc Ca. Sau khi vua Giới 
                        Nhật mất vào năm 647, Phật Giáo lại mất sự bảo trợ của 
                        giới vương giả, và không bao giờ có lại được sự bảo trợ 
                        trên một phạm vi rộng lớn. Một khi sự bảo trợ của giới 
                        vua chúa không còn, và bị thay thế bằng sự đàn áp của 
                        giới vua chúa và tôn giáo, thành lũy cuối cùng của Phật 
                        Giáo sụp đổ nhanh chóng hơn có thể tưởng. Những 
                        gì còn lại chưa bị những người phản động Ấn Ðộ Giáo phá 
                        hủy hết lại bị dẹp sạch bởi những người cuồng tín Hồi 
                        Giáo. Như một nhà văn đã viết: 
 
                        - 
                        
                        - Màn cuối cùng trong vở kịch Phật Giáo trên sân khấu 
                        đất mẹ của nó, bắt đầu bị khủng bố, và chấm dứt trong 
                        câm lặng, một sự câm lặng lãng quên. Những nơi thiêng 
                        liêng đổ nát, bị rừng rậm che khuất, chùa chiền của nó 
                        chuyển sang tôn giáo khác. Ðức Phật biến mất trong đám 
                        đông các thần Ấn Ðộ Giáo và ra khỏi ký ức của con người.
 
                        - 
                        
                                    Dù lý do nào đưa đến sự suy tàn và biến mất 
                        của Phật Giáo khỏi đất nước Ấn Ðộ đi nữa, một việc chắc 
                        chắn đó là điều bất hạnh nhất khi tôn giáo của Ðức Phật, 
                        một tôn giáo hoàn cầu đầu tiên, đánh mất ảnh hưởng trên 
                        đất tổ của nó. Sự việc nầy xảy ra, Ấn Ðộ đã phải trả một 
                        giá rất đắt, đó là sự thật lịch sử. Nước Ấn Ðộ sung mãn 
                        cho đến khi Phật Giáo vẫn còn là một tôn giáo sống động, 
                        và khi Phật Giáo suy tàn, Ấn Ðộ đã mất đi tinh thần tự 
                        do, danh tiếng giảm sút, và sự tiến bộ bị ngăn trở.
 
                        - 
                      -- o0o --
 
                       
                     
                   
                 
                 |