Cùng Nhau Tìm hiểu Sự Tích:
- Chùa Vàng Miến Ðiện
- Cùa Hương Miền Bắc
- Chùa Thiên Mụ Huế
Lệ Ý Sưu Tầm
--o0o--
           
Thân Tặng các bạn đạo của tôi
Vu Lan 2622-P.L.2542
 
            Phật Giáo có một lịch sử lâu đời từ hơn 2500 năm nay kể từ ngày Ðức Thích Ca thành đạo, và cũng kề từ đó nền văn minh Phật Giáo ảnh hưởng rất lớn tại nhiều nước trên thế giới và ngày càng được phát triển vì tính chất bình đẳng, tự giác của nó. Sự phát triển đó không ồn ào náo động mà trầm lặng nhưng sâu sắc và thâm thúy.
            Từ ảnh hưởng của đạo lý Từ Bi Bình Ðẳng và Tự Giác, quồc gia Miến Ðiện là một trong những đất nước có một nền Văn Minh Phật Giáo sâu sắc, chẳng những trong bản chất của dân tộc Miến Ðiện mà cả trong những lãnh vực kiến trúc, Văn Hóa, xã hội.
            Thăm viếng Miến Ðiện du khách sẽ chứng kiến những kiến trúc cổ kính của những dinh thự Chùa chiền. Và điển hình nhất, giá trị nhất kể cả vật chất và tinh thần văn minh chúng tôi xin giới thiệu cùng quý vị nhân dịp ngày Ðản Sanh 2622 của của Ðức Bổn Sư một di tích lịch sử của nền Văn Minh Phật Giáo tại Miến Ðiện là Chùa Vàng.
            Cứ theo truyền thuyết dân gian Miến Ðiện thì Chùa Vàng tiếng Miến Ðiện là: Sua Ða Gôn đã được xây dựng cách đây 2500. Tuy vậy nếu nói xác định thời gian thì chúng ta cần phải có những tài liệu khảo cổ chi tiết chính xát mới khẳng định được. Những cứ liệu có thể căn cứ nói về Suê Ða Gôn chỉ có ở niên đại thế kỷ 14.
            Theo sử liệu Miến Ðiện, vào năm 1372 nhà Vua Pê-Gu là Bi-Nia U(Từ ngữ U trong tiếng Miến Ðiện có nghĩa là Ngài, một tước hiệu bày tỏ sự kính trọng. Trong nhiều thập niên trước, chức vụ Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc có thời là một chính trị gia Miến Ðiện, ông U Than dựng tháp Suê Ða Gôn gần làng chài Ða Gôn, và từ đó dân chúng Miến Ðiện gọi là Suê Ða Gôn. Chữ Suê trong tiếng Miến Ðiện có nghĩa là vàng mà cũng có nghĩa là tuyệt mỹ.
            Ngôi tháp mà sử liệu nói tới cũng cao 20m. Từ thời điểm đó, tài liệu về Suê Ða Gôn cứ nhiều dần. Các sử liệu Miến Ðiện nói nhiều đến những lần tu sửa Suê Ða Gôn. Chiều cao hiện nay của tháp là chiều cao được dựng vào thời Kôn Ba Un. Năm 1774, Vua Ava đã nâng ngôi tháp lên cao 99m so với mặt nền. Không chỉ có tháp chính, nền của cả khu Chùa cũng được nâng cao. Nhìn chung, tổng thể của Suê Ða Gôn đã ổn định vào cuối thế kỷ thứ 16, nhưng từng chi tiết vẫn luôn luôn được thay đổi và bổ sung cho đến ngày nay.
            Quanh nền tháp chính của Suê Ða Gôn được bao bọc bởi một vòng đai 72 điện thờ nhỏ có tượng Ðức Phật. Trên bốn điểm trụ ở ngay chân nền tháp là bốn te da un, có nghĩa là nhà thờ tự với nhiều lớp mái nhấp nhô uyển chuyển.
            Tầng nền thứ nhất của tháp cũng được bao quanh bằng 64 ngôi tháp nhỏ cao chừng 3-4m. Ở bốn điễm trụ của tầng nền nầy, người ta dựng bốn ngôi tháp to hơn so với 64 tháp nhỏ.
            Ðỉnh của những kiến trúc phụ lô nhô, lấp lánh quanh những tháp khổng lồ ở giữa. Tất cả vừa tạo cho kiến trúc một dáng vẽ trang nghiêm uy nghi, vừa tạo nên cãm giác hướng về, quy về dưới ánh đạo vàng rực rở của Phật Pháp.
            Nói đến Suê Ða Gôn không thể không nói tới đỉnh của ngọn tháp chính. Cả bộ phận nầy làm theo mô hình cũ vào năm 1871.
            Hiện tại đỉnh Suê Ða Gôn cao 10m, gồm bảy vòng đai bằng vàng ròng. Có thể nói trên thế giới không có một công trình kiến trúc nào lại xử dụng số lượng vàng và kim cương nhiều như Suê Ða Gôn. Ngoài phần thân được phủ kín bằng 9300 lá vàng. Mỗi lá hình vuông, có kích thước mỗi cạnh 30cm(khoảng 1foot đơn vị do lường của Mỹ) với trọng lượng 500 kg vàng ròng. Phần trụ của Suê Ða Gôn cũng giá trị không kém, hoàn toàn làm bằng bạc tinh. Ðỉnh chóp là quả cầu vàng đường kính 25cm. Cái cờ gió cũng bằng vàng. Ba phần nầy được khảm 5,448 viên kim cương to nhỏ khác nhau và gồm 1065 chuông vàng, 421 chuông bạc.
            Với bao nhiêu vàng bạc châu báu để xây dựng biểu tượng cho niềm tin ngưỡng tuyệt đối của dân tộc Miến Ðiện nên Chùa đã được nhân gian gọi nôm na là Chùa Vàng.
            Một kiến trúc thể hiện lòng tôn kính, sùng đạo của các Vua Chúa Miến Ðiện thời xưa, cũng như niềm tin tưởng mãnh liệt vào Phật Pháp của dân tộc Miến Ðiện từ hàng ngàn năm trước cho đến ngày nay, qua bao thăng trầm của Miến Ðiện như hoàn cảnh hiện tại, dù tình hình chính trị đang có nhiều gay gắt giữa phe lãnh đạo quân nhân và những người tranh đấu cho một nước Miến Ðiện dân chủ tiêu biểu là bà Ong Sang Sui Chi, nhưng những di tích Phật Giáo vẫn dược nhân dân Miến Ðiện trân trọng và bảo tồn.
            Trở lại đất nước Việt Nam, chúng ta cũng có những di tích tiêu biểu cho Phật Giáo trên khắp ba miền đất nước. Phật Giáo và dân tộc Việt Nam đã có một lịch sử gắn liền từ nhiều thế kỷ. Phật Giáo đã cùng thăng trầm với an nguy của đất nước và đân tộc qua bao nhiêu vật đổi sao dời. Sau đây chúng tôi xin mời quý vị và các bạn thăm viếng Chùa Hương thuộc tỉnh Hà Tây, Miền Bắc.
            Chùa Hương là tên thường gọi, và là tên gọi tắc của Chùa Hương Tích. Sở dĩ được gọi là Chùa Hương Tích là vì Chùa được xây dựng trên núi Hương Tích cũng gọi là Hương Sơn, thuộc huyện Hoài An, phủ Ứng Hòa xưa, nay thuộc huyện Mỹ Ðức, tĩnh Hà Tây.
            Tương truyền Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát từng Nam du đến trụ trì nơi đây. Thắng cảnh Chùa Hương bao gồm một số di tích chùa Ðền, hòa hợp với cảnh sắc hang động, núi non sông suối thiên nhiên hùng vĩ, khiến Chùa trở nên nổi tiếng khắp nước. Chẳng những thế, Chùa Hương cũng đã đi vào thơ và nhạc Việt Nam trong tác phẩm: Em Ði Chùa Hương.
            Muốn vào Chùa phải đi bằng thuyền nhỏ, trước tiên đến Ðền Trình tục gọi là Ðền Quan Lớn, sau đó tới Chùa Thiên Trù(Bếp Trời) có hai tháp lớn bằng đá và bằng gạch. Ði tiếp tới là Chùa Giải Oan có giếng nước, tương truyền là nơi Phật tắm. Qua Chùa Thiên Sơn có các pho tượng đá, vượt đỉnh Mai Lĩnh có rừng Mơ thì tới cửa Chùa Hương.
            Chùa ở trong động đá ở giữa lưng chừng núi, cửa động có khắc năm chữ trên đá: Nam Thiên Ðệ Nhất Ðộng, tương truyền danh xưng đó do Vua Lê Thánh Tông ban cho Chùa từ thời Hồng Ðức.
            Trước cửa động có cầu Liên Kiều do Vua Lê cho xây bằng gạch, hai bên vách đá có treo những chuông và trống đồng do thập phương bá tánh cúng dường.
            Ðộng đá rất rộng có thể gọi là chánh điện, có thể chứa được ít nhất 500 người. Trong động nhũ đá ngũ sắc lung linh ẩn hiện thành  nhiều hình tượng được người đời đặt cho những tên như: Ngọc Tĩnh, Long Tuyền, Lẫm Gạo, Kho Tiền, Án Sách..v..v..Ở giữa động xem như là chánh điện có một tảng đá to lớn phẳng phiu, có tượng Phật an vị.
            Hàng tháng vào những Ngày Rằm, Mồng Một hàng ngàn Phật Tử từ khắp nơi lũ lượt về Chùa lễ bái và cũng thu hút khá nhiều du khách ngọai quốc cũng như trong nước.
            Thắng cảnh Chùa Hương còn gồm cả những Chùa Chiền lân cận không kém giá trị lịch sử như Chùa Tuyết Sơn, Chùa Hinh Bồng.
            Chùa Tuyết Sơn cũng nằm trong động đá giữa sườn núi Tuyết Sơn ở phía Tây Bạch Tuyết Môn, bên trong cũng có tượng Phật bằng đá được đẽo tạc công phu từ thời Phật Giáo thịnh hành của nhiều thế kỷ trước. Sử ghi chép triều đại nhà Lê đã dựng hành cung tại đây, gọi là Bảo Ðài. Nơi gọi là hành cung hay Bảo Ðài có những bàn đá nhẵn nhụi, rộng, phẳng, từ đó có những khe suối chảy nước trong veo và mát lạnh, tương truyền nơi nầy là chỗ tắm của Vua, nhưng không rõ Vua nào.
            Chùa Hinh Bồng trên núi Hinh Bồng ở mé ngoài Hương Tích cũng là nơi cảnh sắc sơn thủy hữu tình, lôi cuốn du khách và Phật Tử viếng Chùa Hương không thể bỏ qua.
            Ở Miền Trung cũng có một Chùa tên là Hương Tích, Chùa nằm trên một ngọn núi cùng tên thuộc dãy Hồng Lĩnh về địa phận huyện Can Lộc, tỉnh Nghệ Tĩnh.
            Chùa có từ đời Trần, nhưng truyền thuyết gắn với sự tích còn xa xưa hơn. Truyền thuyết lưu lại rằng con gái của Trang Vương nước Sở tên là Mậu đến tu hành và hóa thân tại đây, và cũng có truyền thuyết kể rằng Trang Kiệu, một vị tướng nước Sở, sau khi làm Vua nước Dạ Lang, đã đến đây lập Chùa tu hành sám hối nghiệp chướng đã gây ra cho thiên hạ.
            Qua nhiều đợt trùng tu, trên nền cũ hiện nay chỉ còn di tích Chùa của thời Lê với quả chuông lớn và gạch cổ có chạm chữ và hoa văn. Trước Chùa có suối chảy quanh năm dù là mùa khô, sau Chùa có am Ðá Trắng, thường được người dân trong vùng gọi là am Thánh Mẫu.
            Từ dưới Chùa đi lên, đường núi quanh co qua khe suối nhiều chỗ dốc đứng. Tương truyền mùa Xuân đi lễ, càng gần đến Chùa càng nức hương thơm, do đó mà đặt tên là Chùa Hương Tích. Tên núi từ đó cũng được gọi theo tên Chùa.
            Ði lần về Miền Nam chúng ta sẽ đến Chùa Thiên Mụ, có người còn gọi là Chùa Thiêng Mụ ở Cố Ðô Huế.
            Chùa Linh Mụ tọa lạc tại xã Hà Khê huyện Kim Trà, sau đổi là huyện Hương Trà tỉnh Thừa Thiên, Huế. Chùa do Ðoan Quốc Công Nguyễn Hoàng cho xây dựng năm Tân Sửu niên hiệu Hoàng Ðịnh thứ hai(1601).
            Lúc bấy giờ sau hơn sáu năm ở kinh đô Thăng Long giữ chức Thái Bảo, Ðoan Quốc Công Nguyễn Hoàng trở về Thanh Hóa để biệt lập với họ Trịnh. Một hôm nhân lúc rỗi việc, Nguyễn Hoàng đi thăm danh lam thắng cảnh trong vùng trấn nhậm khi đến xã Hà Khê huyện Kim Trà thấy giữa chốn đồng bằng đột khởi một đồi cao tựa đầu một con rồng đang nhìn về núi mẹ. Ðoan Quốc Công thầm khen là nơi danh thắng bèn trèo lên đồi cao ngắm nhìn chung quanh, chợt thấy một đoạn hào cắt ngang dưới chân núi. Chưa rõ nguyên do ra sao, Ðoan Quốc Công cho hỏi người địa phương các bô lão nói: Tương truyền vùng núi nầy rất linh thiêng Cao Biền nhà Ðường bên Trung Quốc sang làm An Nam Ðô Hộ Phủ từng đi khắp nơi ở nước ta xem nơi nào có vượng khí thì lập phép trấn yểm. Ðêm hôm ấy, Biền nằm thấy một bà lão đầu tóc bạc phơ, ngồi dưới chân núi nầy kêu gào than vãn, rồi cất tiếng nói to: Ðời sau nếu có bậc Quốc Chủ muốn bồi đắp mạch núi nầy để làm mạnh cho Nam Triều thì nên lập Chùa thờ Phật, cầu linh khí trở về để giúp nước yên dân, tất không có điều gì đáng phải lo ngại. Nói xong bà lão biến mất. Không hiểu do đâu mà điềm mộng của Cao Biền lại lọt ra ngoài trong dân chúng lan truyền khắp mọi nhà, nên dân gian từ đó đặt tên núi là Thiên Mụ, có nghĩa là Bà Lão Nhà Trời.
            Ðoan Quốc Công Nguyễn Hoàng nghe nói như thế cả mừng, bảo rằng:
            - Ấy là Bà Lão Nhà Trời bảo ta mở nền định đất, biến nhà thành nước để gây nghiệp lớn.
            Sau đó Ðoan Quốc Công Nguyễn Hoàng sai người dựng Chùa tự tay viết biển đề tên là: Thiên Mụ Tự.
-- o0o --