| 
                  
                     
                    
                    Mùa Xuân An Lạc
                     
                    
                    Nhất Quán
                     
                    
                    --o0o--
                  
                         
                   
                  
                  Nói đến mùa Xuân ai cũng công nhận rằng đó là mùa của an vui 
                  hạnh phúc và tươi đẹp. Nhưng ít ai biết được an vui, hạnh 
                  phúc, tươi đẹp nó từ đâu tới? Từ ngoại cảnh như: Xã hội, bạn 
                  bè... hay từ nội tại của chính mình?
                  
                  Cùng một việc, nhưng có người thì cho đó là vui, cho đó là 
                  hạnh phúc nhưng có người thì cho đó là không vui, không an 
                  lạc. Như thế là tùy theo quan niệm và nhận thức của mọi người. 
                  Ai cũng có quyền có một quan niệm riêng tư, cho dù là đúng hay 
                  sai, tốt hay xấu, hay hay dở, thông minh hay không thông minh. 
                  Nhưng nhìn chung, tâm lý người đời ai cũng thích vui, vì thế 
                  khi nghe nói chỗ nầy có tiệc có đám, có ca nhạc thì ai cũng 
                  thích, trong lòng ai cũng mến mộ. Nhưng khi nói đến khổ, khó 
                  nhọc thì ai cũng e dè sợ hãi. Chúng ta lần lượt tham khảo từng 
                  quan niệm một như sau:
                  
                  A- Cái Vui & Sự Ðau Khổ Của Nhân Thế.
                  - 
                  Thế sự đua nhau nói khổ vui
                  
                  Cái chi là khổ cái chi vui?
                  
                  Vui trong tham dục vui rồi khổ
                  
                  Khổ để tu hành khổ hóa vui.
                  
                  Trước hết một vài quan niệm mà thế gian cho rằng vui
                  
                  1- Nghiện Ngập
                  
                  Người đời thường có câu là:
                  -
                  
                  
                  Nam 
                  vô tửu như kỳ vô phong
                  
                  Có nghĩa là: 
                  - 
                  Người con trai mà không biết uống rượu, thì giống như cờ mà 
                  không có gió, thì không thể nào bay được.
                  
                  Quan niệm như thế đã dẫn đến một kết quả hết sức tai hại, nhất 
                  là cho tuổi trẻ. Bởi vì tuổi trẻ tánh tình hiếu thắng, nên lúc 
                  nào cũng tỏ vẻ ta đây là người hiểu nhiều biết rộng, nhất là 
                  về phương diện ăn chơi. Nhiều cô thiếu nữ đến với những người 
                  con trai không biết hút thuốc không biết uống rượu, không biết 
                  cờ bạc thì cho đó là cù lần lửa. Trong khi đi với một người 
                  con trai biết ăn chơi bài bạc thì cảm thấy mình hãnh diện với 
                  bạn bè là đối tượng mà mình đang có mới thật sự mẫu người con 
                  trai lý tưởng. Thế là họ không từ bất cứ một cuộc chơi đam mê 
                  nào mà họ không thử. Nhất là họ luôn tìm đến với cảm giác mới 
                  lạ cả hai phương diện tinh thần và thể xác. Về Tinh thần thì 
                  họ rong chơi hết nơi nầy đến nơi nọ, về thân xác thì lại lao 
                  đầu vào việc ăn chơi hút sách. Về việc hút sách, có thể nói 
                  lúc đầu chỉ vì mua vui vài ba điếu, nhưng lâu thì thành thói 
                  quen. Cũng có người buồn việc mình lo việc nhà thì lại tìm vui 
                  trong cảm giác thần tiên:
                  - 
                  Lấy gì làm thú giải phiền
                  
                  Cái xe cái lọ ngọn đèn cái tiêm.
                  
                  Khi đã quen rồi thì các cô các cậu kia cứ thế mà không thể nào 
                  dừng được. Nếu là những thương gia thì họ luôn nằm bên bàn đèn 
                  cho tỉnh thức để suy tính lợi hại, lâu rồi cũng thành lệ. Còn 
                  hạng người trụy lạc thì mài miệt truy hoan, hút chơi cho giã 
                  rượu. Những người lao động thì kiếm vài điếu cho bớt mõi để 
                  hôm sau làm việc. Những bậc trí thức đa sầu đa cảm, ngán cảnh 
                  ồn ào náo nhiệt, thì tìm về với cảnh u tịch, quây quần đôi ba 
                  bạn bên khay đèn để giải mối tâm tư, bàn vài ba câu triết lý. 
                  Có những nhà văn viết suốt đêm bên khay đèn, rồi bỏ dọc tẩu 
                  xuống lim dim ngũ gà ngũ vịt thả giàn tư tưởng trong làn khói 
                  thơm, rồi choàng dậy viết. Bạn bè cho rằng không có thuốc 
                  phiện thì viết bài không được, chửi đời không hay, không thể 
                  nào trở thành nhà văn... rồi cứ thế mà người đời mua dây buộc 
                  mình. Những suy tư sai lầm đó dẫn tới hậu quả là tổn hao sức 
                  khỏe, lâu ngày thành bệnh, sống dở chết dở. Như thế điều mà họ 
                  tưởng là vui có lợi ích, thì rốt cuộc lại thua thiệt đau khổ. 
                  Bởi thế cụ Phan Kế Bính có bài văn tế thuốc phiện như sau:
                  - 
                  Kìa nhửng kẻ buôn hương bán phấn
                  
                              Nhờ ôm hương mà dụ khách phồn hoa
                  
                              Bao nhiêu người kể lợi thương công
                  
                              Mượn tỉnh thức để tiện khi tính sổ.
                  
                              Chốn quyền môn quý khách càng chen
                  
                              Ðoàn vũ nữ ca nhi cũng mộ
                  
                              Cũng có kẻ giận công danh trắc trở
                  
                              Bạn cùng người cho khuây nợ tang bồng
                  
                              Lại có người buồn quê quán xa xôi
                  
                              Chơi cùng người cho khuây niềm vân thụ...
                  
                              Vui anh em một khi một điếu
                  
                              Nếm mùi đời cho đủ thứ mà chơi
                  
                              Nào ngờ phút bén phút quen
                  
                              Giục lòng khách đến cơn lại nhớ
                  
                              Ho hen ngáp vặt mặt mũi lừ đừ
                  
                  Mũi xổ dạ đau tay chân buồn bã
                  
                              Gái thuyền quyên nên mặt bủng da chì
                  
                  Trai tráng sĩ cũng xo vai rụt cổ.
                  
                  Những tưởng mua vui, những tưởng đó là nguồn an ủi cho những 
                  lúc ưu phiền, là nguồn cảm hứng cho thơ văn, nhưng ai đâu ngờ 
                  mua vui kiểu nầy chẳng khác nào tự tử bằng loại thuốc chết 
                  chậm, làm cho con người chết dần chết mòn lúc nào mà không 
                  hay.
                  
                  2- Tửu Sắc
                  
                  Có những người buông lung chạy theo sắc dục cho đó làm vui, 
                  trường hợp nầy chúng ta cũng thường thấy ở các triều đại vua 
                  chúa như. Vua Trụ lấy tửu sắc là vui, kết quả thì mất nước 
                  trong tay Ðắc Kỷ. Vua U Vương thì mất nước vì một tay Bao Tỷ. 
                  Vua Lê Long Ðĩnh cũng vì vui với sắc dục mà trở thành một ông 
                  vua Ngoạ Triều, và cuối cùng cũng mất nước vì sắc. Ngày nay 
                  cũng có những cậu thanh niên, cũng vì đam mê tửu sắc nên cơ 
                  thể bệnh hoạn, đau khổ về tinh thần. Ðã vậy họ không chịu dừng 
                  lại trong việc tạo nghiệp, mà còn sanh tâm đố kỵ với người 
                  khác bằng cách là reo rắc những bệnh truyền nhiễm đến những 
                  người lành mạnh khác. Trường hợp có những cô ra đường được các 
                  cậu tán tỉnh chìu chuộng, thì thấy đó mà cho rằng người đó sẽ 
                  là người đem lại hạnh phúc cho mình, nên về nhà ly dị chồng. 
                  Có những cậu thanh niên ra đường được các cô săn đón chìu 
                  chuộng thì cho rằng người con gái đó tốt hơn vợ mình và cuối 
                  cùng chia tay với vợ. Họ tưởng thay đổi như vậy là sẽ vui hơn, 
                  nhưng không ngờ mỗi lần thay đổi là mỗi lần đau khổ. Bởi vì 
                  điều chắc chắc khi một người bị tình phụ hoặc một người phụ 
                  tình, cuối cùng ai cũng có những giây phát trầm tư nghĩ lại. 
                  Nghĩ lại ngày xưa tình cũ, rồi thì ân hận đau khổ. Không những 
                  chính bản thân họ đau khổ, mà con cái của họ cũng bơ vơ đau 
                  khổ vì thiếu tình thương của cha hoặc mẹ. Vì suy tư sai lầm 
                  hoặc vì niềm vui ích kỷ đó mà khổ lây đến người khác.
                  
                  3- Ăn Ðể Mà Sống Hay Sống Ðể Mà Ăn
                  
                  Ăn để mà sống thì không nói chắc chắn ai cũng biết, những món 
                  ăn đó sẽ rất đơn giản không cầu kỳ, phung phí như chư tổ đã 
                  dạy:
                  - 
                  Cơm rau đở dạ đói
                  
                  Lều cỏ che gió sương
                  
                  Người đời ai biết được
                  
                  Phiền não chẳng còn vương.
                  
                  Còn sống để mà ăn thì khác, họ mua vui những món ăn bằng cách 
                  kén chọn những món ăn cầu kỳ và có đôi khi trở thành tàn nhẫn. 
                  Trong các loại món ăn được coi là tàn nhẫn tiêu biểu như món 
                  ăn cá sống. Có một số nhà hàng vì chìu khách hàng muốn ăn 
                  những con cá còn sống vì họ nghĩ rằng máu còn tươi sẽ nhiều 
                  chất bổ dưỡng, nên họ bắt những con cá còn sống, lóc thịt ăn 
                  sống trong khi con cá còn dãy dụa. Hoặc có những nhà hàng có 
                  món ăn óc khỉ, trong khi khỉ còn sống mà người ta dùng dao vạt 
                  một phần sọ và cứ thế múc óc khỉ mà ăn mặc dù con khỉ ấy dãy 
                  dụa đau đớn như thế nào họ cũng không màng tới, họ chỉ biết 
                  làm cho thỏa mãn những sở thích của mình là được. Thử hỏi giữa 
                  cơm hẩm, canh rau với trân hào, hải vị một khi đã ăn qua khỏi 
                  cổ thì cảm giác no đủ cũng như nhau không có gì khác lạ
                  - 
                  Ăn uống người đời ngày tháng dài
                  
                  Dở ngon tùy phận miễn no thôi
                  
                  Hỏi trôi qua cổ thành chi đó
                  
                  Chẳng để lòng ta xét thử coi.
                  
                  Ấy vậy mà người đời không biết rằng trong những phút vui chơi 
                  cho thích miệng mà đã tạo nhân bệnh hoạn và chết yểu cho chính 
                  bản thân, lại còn gây đau khổ cho người khác nữa.
                  
                              4- Bài Bạc Là Bác Thằng Bần
                  
                  Có những người vì buồn phiền vợ con hoặc chồng con mà đắm mình 
                  trong những sòng bài bạc. Trong những cuộc chơi đen đỏ như vậy 
                  phần nhiều là thất bại, mỗi lần thất bại thì về nhà làm khổ vợ 
                  con, có khi còn lén lấy tiền để dành dụm của vợ con để đi chơi 
                  bạc. Có những người đi chơi ở Las Vegas truớc khi vào sòng bạc 
                  phải dấu một ít tiến để đổ xăng mà về, vì họ đã biết sau một 
                  hồi đen đỏ sẽ thua hết. Thậm chí còn những người mới lãnh 
                  lương hôm nay, qua ngày hôm sau vào sở phải mượn tiền của bè 
                  bạn để ăn sáng vì đã hiến tặng hết cho sòng bạc. Những người 
                  thích cờ bạc thì cho niềm vui, còn những người không có máu cờ 
                  bạc thì thấy đó là khổ. Ðúng là:
                  
                              - Biển trần lai láng 
                  
                              Sóng nghiệp lao xao
                  
                              Người mê man trong giấc chiêm bao
                  
                              Mấy ai tỉnh tu hành trong lý diệu.
                  
                              Nói tóm lại, người đời tìm cái vui nhưng lại đem 
                  cái khổ đến cho chính bản thân mình và cho chúng sanh, những 
                  mãi phóng tâm buông lung theo dục lạc, đam mê nơi danh lợi, 
                  phù phiếm xa hoa mà phải khổ lụy để ngàn đời ân hận:
                  
                              - Thiên dường hữu lộ vô nhân đáo
                  
                              Ðịa ngục vô môn hữu khách tầm.
                  
                              Nghĩa là:
                  
                              - Thiên đường có cửa không người đi
                  
                              Ðịa ngục không cửa lại tìm đến
                  
                  B- Cái Vui & Sự  An Lạc Của Những Người Tỉnh Thức.
                  
                  1- Chọn Hướng Ði
                  
                  Như trên là quan niệm vui chơi của thế gian. Còn đối với người 
                  biết tu thân, muốn cho cái khổ đừng đến, muốn cho cái vui còn 
                  mãi thì phải có một hướng đi, và một quan niệm sống thật vững 
                  chãi. Ðó là điều rất cần thiết trong cuộc sống: 
                  - 
                  Nếu biết có vui thời có khổ
                  
                  Thà rằng đừng khổ cũng đừng vui
                  
                  Mong sao giữ mãi đừng vui khổ
                  
                  Mới thoát ra ngoài lối khổ vui.
                  
                  Trước hết là phải trách xa những nơi rượu chè, cờ bạc, hút 
                  sách. Kế đến là tập ăn chay, niệm Phật, tụng kinh, ngồi thiền, 
                  làm lành tránh dữ, bố thí, trì giới, bớt đi sự ham muốn quá 
                  độ. Ðó là niềm vui của người tỉnh thức.
                  
                              2- Phương Pháp Ðối Trị
                  
                  Ðối với một người một khi đã lâm vào hoàn cảnh tứ đỗ tường mà 
                  muốn quay đầu lại mới nghe qua dường như khó thực hiện. Tuy 
                  nhiên trên đời không có việc gì khó chỉ sợ lòng ta không bền 
                  mà thôi. Theo quan niệm sống của Phật Giáo, muốn chế ngự sự 
                  phóng túng buông lung thì chỉ có một pháp duy nhất là phải 
                  thực tập: Hiện Trú Lạc Pháp. Hiện Trú Lạc Pháp là phương pháp 
                  an trú trong hiện tại, pháp nầy sẽ làm cho ta an lạc trong 
                  hiện tại. Muốn có an lạc trong cuộc sống hiện tại hành giả 
                  phải ý thức được sự nguy hiểm của sắc, thanh, hương, vị, xúc 
                  mà kiểm soát tâm mình, theo thuật ngữ của Thiền thì gọi là 
                  chỉ. Chỉ có nghĩa là dừng lại sự tán loạn, dừng lại sự đam mê 
                  cái vui giả tạo, dừng lại sự quên lãng... Như vậy chỉ đưa tới 
                  định. Khi tâm ý đã được tập trung vào đối tượng, hành giả quán 
                  chiếu đối tượng đó để thấy được thực tánh của đối tượng. Quán 
                  chiếu cho bền bĩ và cho sâu xa, hành giả sẽ thấy được bản chất 
                  đích thực của đối tượng quan sát. Cái thấy nầy là tuệ. Tuệ là 
                  sự hiểu biết, là cái thấy chính xác về sự vật thì ta sẽ được 
                  trạng thái an lạc. Nếu không đạt được trạng thái an lạc thì 
                  chúng ta sẽ không thể nào tiến xa hơn nữa trong lãnh vực thiền 
                  quán. Trạng thái an lạc là một cảm thọ, có ba loại:
                  
                              - Cảm thọ dễ chịu
                  
                              - Cảm thọ khó chịu
                  
                              - Cảm thọ không dễ chịu và không khó chịu.
                  
                              Tính chất của cảm thọ tùy thuộc khá nhiều vào nhận 
                  thức của ta. Có người cho sự ngồi không là dễ chịu, có người 
                  lại cho sự làm việc là dễ chịu. Có người cho sự im lặng là dễ 
                  chịu, có người lại cho sự ồn ào náo nhiệt là dễ chịu.. có 
                  người cho sự ăn chay là xót ruột, có người cho sự ăn chay là 
                  dễ chịu. Hút thuốc có thể là dễ chịu với người nầy, nhưng lại 
                  khó chịu với người khác. Những cảm thọ dễ chịu nhất thời như 
                  những cảm thọ do rượu mạnh, và thuốc phiện gây ra có thể đưa 
                  tới những cảm tho khó chịu và giai dẳng về sau như đã trình 
                  bày ở trên. Vì thế trong thiền quán, hành giả phải tập nhìn và 
                  thấy được bản chất của từng cảm thọ. Những cảm thọ không khó 
                  chịu, cũng không dễ chịu thực ra có thể được nhận thức như là 
                  lạc thọ. Khi bị ghiền thuốc phiện ta mới thấy không bị ghiền 
                  thuốc phiện là một cảm giác dễ chịu. Nhưng khi cai được thuốc 
                  phiện ta mới nhận thức được không ghiền thuốc phiện là một xả 
                  thọ. Khi vướng vào tình trạng bài bạc, đen đỏ khổ đau thì ta 
                  mới thấy giá trị của không cờ bạc là cao quý, nhưng khi đã bỏ 
                  được tánh cờ bạc thì ta mới nhận thức được không cờ bạc là lạc 
                  thọ. Vì vậy công trình quán chiếu đầu tiên của thiền giả là 
                  biến những xả thọ của ta thành lạc thọ. Một con người đoạn 
                  diệt được những nhiễm trước theo dục lạc, đoạn diệt được những 
                  mầm lôi cuốn trong sáu nẽo luân hồi, có thể tu khổ hạnh: Ăn 
                  mặc đơn sơ, không biết hưởng thụ, chịu khổ, biết làm cho tâm 
                  hồn mình thanh tịnh như thế thì có thể xa tránh được những nơi 
                  ồn ào náo nhiệt thì thành tựu trong Hiện Trú Lạc Pháp. 
                  
                  
                  3- Lập Hạnh Tiến Tu
                  
                  Ði bộ trong một công viên tươi mát, hay ngắm một con bướm đang 
                  đậu trên cành hoa thiu thiu ngủ mà lòng ta không an lạc, và 
                  không thấy được tính cách mầu nhiệm của vạn hữu, thì đó là ta 
                  đang bị vướng bận vào hoặc quá khứ, hoặc tương lai, hoặc những 
                  bực bội trong hiện tại. Nếu trong tình trạng tâm tình không an 
                  thì thiền giả phải gia công thêm giống như Kinh Pháp Hoa diễn 
                  tả hình ảnh một người khát nước đào giếng ở trên cao nguyên. 
                  Người khát nước hay hình ảnh của chúng ta đau khổ trong việc 
                  đam mê theo năm món dục, trong đồng hoang sanh tử, đi tìm đạo 
                  chẳng khác gì người tìm nước trong giữa sa mạc, ắt hẳn không 
                  phải là việc đơn giản. Ðứng trên vùng đất khô cao đào tìm nước 
                  tất nhiên khó quá, nhưng hành giả phải ra sức đào qua lớp đất 
                  cứng, đến lớp đất mềm, khác nào chúng ta hạ quyết tâm tìm đạo 
                  không biết mõi mệt, niềm tin chúng ta đạt đến đỉnh cao, vượt 
                  qua những tầm thường trong cuộc đời sẽ thấy được phi thường 
                  hiện hữu ở phía sau. Ngược lại, chúng ta đào một lúc thấy đất 
                  cứng quá rồi buông bỏ giống như người loay hoay tìm kiếm sự 
                  giải thoát trong thế gian không gặp bạn ác thì cũng gặp bạn 
                  tạo nghiệp, vì vậy hành giả phải ra công đào không thôi. Từ 
                  khô cháy nóng bỏng cổ họng, trong đồng hoang sanh tử mà gặp 
                  được bậc chân tu La Hán nào đó chúng ta cũng mát lòng như 
                  người đào giếng tìm gặp đất ước. Chúng ta tiếp tục ra công đào 
                  sâu nữa sẽ gặp bùn, chưa phải nước nghĩa là sẽ gặp Bích Chi 
                  Phật. Trong bùn nước bắt đầu rỉ, nói khác chân lý bắt đầu xuất 
                  hiện. Bích Chi Phật chỉ cho chúng ta thấy, giải thích cho 
                  chúng ta hiểu, từ đó về sau lộ trình tu hành của hành giả nhẹ 
                  nhàng hơn, hành giả chịu cực đào sâu xuống thêm một chút sẽ có 
                  nước trong hay gặp Bồ Tát mọi vấn đề tự nhiên giải quyết khỏi 
                  thắc mắc, buồn phiền, khỏi làm những việc vô lý. 
                  
                  Muốn biết chúng ta thọ trì đúng hay sai pháp, hãy xem cuộc 
                  sống hằng ngày của chúng ta sẽ biết. Khi ý thức bừng nở, biết 
                  dứt hẳn hoặc hạn chế những tham cầu dục lạc, và cứ thế mà thọ 
                  trì rồi đời sống của hành giả mỗi ngày thăng tiến hơn, cuộc 
                  sống giải thoát hơn, được Phật hộ niệm, thiện thần che chở. Dù 
                  hoàn cảnh nào cũng yên ổn, và thường xuyên liên hệ với Phật, 
                  Bồ Tát trong cảnh giới nhiệm mầu của chư Phật. Ðó cũng mới chỉ 
                  là công đức của người đang đi tìm đạo, chưa phải là Bồ Tát.
                  
                  
                  Muốn nối gót chư Phật mười phương để sống cuộc đời an vui, 
                  hành giã phải tiến thêm một bước nữa, đó là xét lại tư thế của 
                  mình có đủ như chư phật hay không, chúng ta có tạo dòng suối 
                  mát cho nhân gian chưa, và vắt đất ra nước để làm mát lòng 
                  người chưa. Chúng ta tự hỏi lòng mình trên quá trình tu học, 
                  lòng từ bi của ta tới vị trí nào, còn ở đất khô, hay đất ướt, 
                  đất bùn hay đã gặp nước. Nếu trong quá trình tu học có người 
                  chỉ trích đó là vì tình thương của chúng ta đối với người nầy 
                  chưa trọn vẹn. Vì vậy điều kiện tiên quyết chúng ta phải tăng 
                  trưởng tâm Từ Bi. Lòng Từ Bi hóa giải tâm ác của tha nhân. Do 
                  đó người tu học sẽ không bao giờ gặp tai nạn, vì với lòng từ 
                  luôn phải nghĩ cách làm cho tha nhân vui sướng, không làm họ 
                  bớt vui huống chi làm cho họ khổ. Từ tâm thật sự trải rộng như 
                  Ðức Như Lai thì muôn thú còn tìm đến dâng cúng huống gì là 
                  nhân thiên. Tăng trưởng lòng từ bi đến cao độ bằng Chư Phật 
                  mới chính thức vào nhà Như Lai. Tâm từ và tâm bi của hành giả 
                  phải được nuôi dưỡng và an trú liên tục trong Phật Ðạo. Nếu 
                  trên bước đường tu hành, đột nhiên ta thấy một người ác, hoặc 
                  một người không bằng lòng hiện ra trong cuộc đời, hay tiềm 
                  thức hành giả nhận biết ngay mình đã đánh mất tâm từ bi, Ðức 
                  Phật dạy chúng ta phải thúc liễm sơ tâm, giữ cho tâm lúc nào 
                  cũng tốt đẹp dũng mãnh như tâm ban đầu. Chúng ta đừng dại khờ 
                  đánh mất tâm thanh tịnh ban đầu sẽ bị bùn nhơ chúng sanh đổ 
                  trút lên chôn vùi ta.
                  
                  Khi Ðức Phật chưa thành đạo, Ngài mặc áo nghiệp như chúng ta, 
                  nhưng trải qua quá trình năm năm tìm đạo, sáu năm khổ hạnh đến 
                  Bồ Ðề Ðạo Tràng đêm mùng 8 tháng chạp kết thành áo Như Lai, đó 
                  là chiếc y vô hình phủ trên Ngài. Từ đó suốt 49 năm giáo hóa 
                  độ sanh, tâm hồn thanh thản, trí huệ sáng suốt, việc làm thánh 
                  thiện của Ngài hoàn toàn siêu tuyệt. Các đệ tử cảm nhận được 
                  Ðức Phật cởi bỏ chuổi anh lạc nghĩa là rời bỏ cõi thanh tịnh 
                  mang thân phàm phu mặc áo thô rách là áo ngủ ấm như chúng ta 
                  và từ ngủ ấm thân nầy chuyển thành Phật thân hay mặc áo Như 
                  Lai. Thể xác giả tạm nầy thường được Ðức Phật xem là áo che 
                  chở Pháp thân bên trong. Nếu không có sanh thân, Phật không 
                  thuyết pháp độ sanh được. Ðối với Ðức Phật, áo mục Ngài thay 
                  áo khác nghĩa là thấy cần diệt độ Ngài sẳn sàng bỏ nó thay 
                  bằng thân khác tức tùy yêu cầu của chúng sanh cần lọai hình 
                  nào Ngài hiện thân đó.
                  
                  Ðiều kiện tiên quyết thứ hai, hành giả cần trang bị cho mình 
                  sức kham nhẫn chịu đựng. Có một số người nghĩ đơn giản rằng ta 
                  chỉ nhịn đối phương, mọi việc sẽ êm. Trước hết cần xác định 
                  nhẫn nhục không phải là sự gắng nhịn nhục. Bằng nghiệp thức 
                  con người hiểu biết phân biệt chịu nhịn, hành giã đang tu nhẫn 
                  nhục của thế nhân, không phải nhẫn nhục pháp của Bồ Tát, của 
                  Như Lai. Riêng chúng sanh trong ngục Vô Gián chịu đựng ngày 
                  nầy qua tháng nọ nhưng không bao giờ thành Phật, càng chịu 
                  đựng chúng càng đau khổ sân hận vậy. Chúng ta cần hiểu rằng 
                  nhẫn nhục của Bồ Tát làm thế nào kẻ ác không còn phá rối ta 
                  nữa, hành giả phải trừ tận gốc vì nhịn hoài nó kiếm chuyện 
                  hoài, khi không nhịn nổi ta bung ra tâm ác và thái độ đối phó 
                  dữ hơn. Pháp nhẫn Phật dạy thuộc giới tánh có công năng đọan 
                  sạch chướng ngại cho hành giả. Pháp nhẫn được khai triển thành 
                  ba: 
                  - 
                  Chúng Sanh Nhẫn, 
                  - 
                  Pháp Nhẫn, 
                  - 
                  Ðại Nhẫn 
                  
                  Hội đủ ba pháp nhẫn nầy mới hình thành Nhẫn Nhục Ba La Mật. 
                  Chuyện đời đôi khi làm cho ta đau lòng, nhưng tu theo giáo 
                  pháp Như Lai rồi hành giả thản nhiên trước mọi sự kiện. Khoác 
                  áo giáp nhẫn của Như Lai, hành giả bình ổn lạ thường, không có 
                  đối phó, dù là đối phó bằng cách nhịn. Sự nhẫn nhục do công 
                  phu thực tập thọ trì sanh ra, bộc phát tự đáy lòng là nhẫn lực 
                  tự nhiên phát ra ngôn ngữ nhu hòa thoa dịu lòng tha nhân. Ðức 
                  Phật hiện thân trên thế giới Ta Bà Ngài biết rõ căn tánh hành 
                  nghiệp chúng sanh như thế nào nên Ngài thực hiện pháp hành xứ 
                  giáo hóa chúng sanh không chướng ngại. Bồ Tát hành đạo cũng 
                  vậy, dùng vô số phương tiện điều phục chúng sanh cang cường, 
                  các ngài tu pháp nhường nhịn chúng sanh để không chạm tự ái 
                  của chúng và theo dõi nghiệp ác, suy nghĩ, ham muốn của chúng 
                  sanh lần sửa đổi phát huy tri thức và đạo đức cho chúng tốt 
                  hơn. Ðức Phật dạy hành giả phải nhẫn nhục vì tu là hiện thân 
                  con người thánh thiện ắt phải gặp đối nghịch với người ác, 
                  việc tốt hành giả làm nhất định phải gặp tác hại cho người 
                  xấu. Thật vậy, khi có hai hình chúng ta dễ so sánh, cái xấu 
                  hiện rõ vì có điều tốt, hình ác hiện rõ vì có hình thánh 
                  thiện. Phật tiêu biểu cho ánh sáng và ma tiêu biểu cho bóng 
                  đêm, ánh sáng xuất hiện thì bóng tối phải tan biến. Ở Ta Bà 
                  luôn luôn tồn tại hai mặt đối nghịch, hành giả quán sát rõ như 
                  vậy, khởi tâm từ cứu người ác nghịch, sẳn sàng gánh chịu những 
                  kỳ quặc tệ xấu của họ, tuy Ðức Phật trong tự tâm của họ nhỏ 
                  chỉ một điểm tâm thôi, hành giả cũng cố gắng tìm điểm dễ 
                  thương nhất, tìm điểm tốt nhất của họ để từ đó cứu giúp, nuôi 
                  dưỡng điểm thiện nhỏ nhất của họ cho phát triển.
                  
                  Với trí tuệ chỉ đạo, Bồ Tát nhẫn nhục dễ dàng nhàn hạ. Bồ Tát 
                  càng nhẫn công đức càng tăng và quyến thuộc càng đông hơn. 
                  Ðiển hình như Thường Bất Khinh Bồ Tát thực hiện hạnh nhẫn nhục 
                  cao độ với những người Tăng Thượng Mạn, sau nầy họ đều trở 
                  thành quyến thuộc của Ngài với đầy đủ ba thành phần Tỳ Kheo, 
                  Tỳ Kheo Ni, Cư Sĩ, Bồ Tát. Thực hành pháp nhẫn điều chỉnh tha 
                  nhân đến khi tầm nhìn của tha nhân và Bồ Tát giống nhau, họ 
                  không cần nghe Bồ Tát, nhưng Bồ Tát và người được giáo hóa đã 
                  thành một, bấy giờ Bồ Tát đã thành tựu pháp chúng sanh nhẫn.
                  
                  Tất cả pháp thuộc chúng hữu hình, vô hình, hữu vi, vô vi được 
                  hành giả quán sát cùng tột ngọn nguồn và biến chuyển của nó để 
                  cải thiện chíng bản thân mình, và cũng là để phục vụ lợi lạc 
                  cho chúng sanh. Ðầu tiên hành giả phải đối phó với pháp hữu 
                  hình hữu vi, thực tế là cơm ăn, áo mặc, nhà ở, thuốc men, cũng 
                  như tất cả những thứ đam mê của thế gian như đã trình bày ở 
                  trên chúng ta cần phải giải quyết trước, hành giả tự khắc 
                  phục, tập bỏ ăn ngon chỉ ăn no, tiến đến ăn vừa đủ dể duy trì 
                  sự sống bình thường vì chúng ta ý thức rõ ba việc ăn, mặc ở 
                  ràng buộc suốt cuộc đời mình nên hành giả tự hạn chế, bớt lệ 
                  thuộc chúng, dành thì giờ, trí khôn, sức khỏe cho việc tiến 
                  tu. Ðến khi thành tựu pháp nhẫn tất cả pháp vô tình, vô vi nói 
                  chung hành giả vận dụng được mọi người, mọi loài trong pháp 
                  giới theo ý muốn, điều động thiên nhiên tự tại, chẳng những 
                  hoàn cảnh thiên nhiên không chi phối bứt ngặt hành giả, ngược 
                  lại hành giả chuyển vật cung ứng phục vụ cho mình và tha 
                  nhân.   
                  
                  C- Kết Luận
                  
                  Như vậy muốn thành tựu Hiện Trú Lạc Pháp để tìm về với niềm 
                  vui vĩnh cữu, Thiền Giả phải quán chiếu những cảm thọ đang có 
                  mặt trong ta để nhìn thấy được bản chất và nguyên do xa gần 
                  của chúng, đó cũng là công việc thiền tập nhắm cởi mở những 
                  sợi giây ràng buộc lôi kéo chúng ta vào con đường đam mê trụy 
                  lạc, đã không cho ta thấy được sự tươi mát của công viên, sự 
                  an ổn của con bướm đang thiu thiu ngủ, trong tính chất nhiệm 
                  mầu của chúng. Khi nhận được những sự mầu nhiệm của chúng thì 
                  ta có thể mĩm cười trước những thị phi của thiên hạ, không làm 
                  mích lòng ai, gặp ai mình cũng cười.... đó là cả một nguồn an 
                  lạc đáng kể để làm hành trang cho thiền giả lên đường để trở 
                  vể quê hương pháp thân, nơi đó sẽ không còn có khổ đau và luân 
                  hồi sanh tử, lúc đó là chúng ta đã trở về vơi cái vui chân 
                  thật thường hằng bất biến. Ðó chính là cái mà chúng ta phải đi 
                  tìm: Một mùa xuân không phải chờ đợi xuân qua, hạ lại, thu 
                  mãn, đông tàn mới đến xuân, mà là Mùa Xuân Trường Tồn Miên 
                  Viễn:
                  - 
                  Xuân trời đất xuân hôm nay mới đến
                  
                  Xuân trong tôi xuân đã đến lâu rồi.
                   
                  
                  
                  Tài Liệu Tham Khảo
                  
                  - 
                  An trú Trong Hiện Tại
                  
                  - 
                  Ðường Xưa Mây Trắng.
                  
                  - 
                  Phật Học Tinh Hoa.    |