Chiếc Bè Qua Sông
Trí Toàn
--o0o--
 
Trong kinh Kinh Cang Đức Phật có dạy:
- Ngã sổ thuyết pháp như phiệt dụ giã,
Pháp thượng ưng xã hà huống phi pháp.
Nghĩa là:
- Pháp ta nói như chiếc bè qua sông
Chân Pháp còn phải bỏ huống chi là không phải Pháp.
Căn cứ vào câu kinh nầy, cho chúng ta hai sự hiểu biết: Chân Pháp hay còn gọi là Chân Lý, và Phi Pháp hay còn gọi là Pháp Phương Tiện như chiếc bè dùng tạm để qua sông.
Chân Lý:
Chân Lý là nghĩa lý học thuyết chơn thật, không sai chạy, là những gì không thay đổi cho dù ở quốc nầy hay quốc độ khác, cho dù không gian, thời gian có thay đổi, nhưng chân lý không bao giờ thay đổi. Chân lý nầy cao siêu, rốt ráo, vô lậu, cho nên cũng kêu là chơn đế, Thắng Nghĩa Đế, Đệ Nhất Nghĩa Đế.
            Tiêu biểu cụ thể về chân đế chẳng hạn như, sau khi thành đạo, đức Phật ngự đến Vườn Nai gần Thành Ba La Nại mà chuyển pháp luân, Ngài thuyết pháp về Bốn Đế hay còn gọi Bốn Chân Đế, đó là:
            1- Khổ Đế:
            Cuộc đời là khổ, vì thế con người và chư thiên cứ quanh quẩn trong luân hồi, trong các nổi đau khổ.
            2- Tập Đế:
            Chúng sanh khổ là vì lòng ham muốn, lòng phiền não tích tập.
            3- Diệt Đế:
            Vậy phải lo mà trừ khổ, để chấm dứt phiền não. 
            4- Đạo Đế:
            Muốn trừ khổ phải dứt phiền não, phải thi hành đạo Tám Chánh....
Ai tu theo Bốn Chân lý nầy thì thành A La Hán. Nói tóm nói về Chân lý là nói về đạo lý chân thật, tri kiến Phật rất sâu xa mầu nhiệm. Ðức Phật thấy được tất cả, vì vậy mà nếu một người không có tầm mức tinh thần như Phật thì khó có thể hiểu được tri kiến đó. Về mặt Chân lý, Đức Phật dạy:
- Muốn thấy thật tướng các pháp, đầu tiên chúng ta phải xem tướng chân thật của nó là gì.
Ðức Phật cũng lưu ý cho chúng ta tất cả các pháp luôn luôn tồn tại dưới dạng giả tướng, và luôn luôn biến đổi không ngừng từ nhỏ đến lớn, từ lớn trở về nhỏ. Những ai hiểu được nguyên lý nầy, và điều động được sự biến đổi nầy thì người đó đắc đạo, cho nên chư Tổ mới thốt ra câu:
            - Càn khôn tận thị mao đầu thượng
            Nhật nguyệt bao hàm giới tử trung.
            Nghĩa là:
            - Lớn như mặt trời, mặt trăng cũng chui vào gọn vào hạt cải
            Cho đến vũ trụ càn khôn có đủ trong đầu môt sợi lông.
            B- Chiếc Bè Để Qua Sông:
Nói về chiếc bè để qua sông, hay là phương tiện xử dụng theo thế tục, sao cho thích hợp với đời, nhưng có thể làm lợi và hướng dẫn họ đến chỗ an vui, thánh thiện. Hay nói cách khác là chỗ hiểu biết của phàm phu, đó là chơn lý cỡ thấp, còn khuyết điểm chưa được hoàn chỉnh, cũng kêu là Thế Đế. 
Cũng gọi là đạo lý về thế tục, là loại lý luận về thế tục, vừa sức dung nạp của người tại thế, vừa với trí thức của người phàm. Đó là cái đạo lý không có tính cách giải thoát vĩnh viển mà chỉ tạm thời. Vì là tạm thời cho thích hợp mọi trình độ của chúng sanh, cho nên chư Bồ Tát, chư Phật thường xử dụng phương tiện để mà dạy chúng sanh, hay chiếc bè để đưa người qua sông, sau mới đem Chân Đế mà giáo hoá họ.
Nói tóm lại, Chiếc bè dùng để qua sông hay Phương Tiện Huệ, cũng gọi là Phương Tiện Ba La Mật là phương cách xử dụng cho người tại thế, nhằm giúp cho hàng phàm phu tu tập lần hồi lên quả thánh. Chữ phương tiện có hai nghĩa:
            a- Nghĩa hẹp
            Phương là Phương pháp, Tiện là thuận tiện thích đáng. Phương pháp thuận tiện thích đáng để dẫn đến một mục đích, một ý muốn gọi đó là Phương Tiện.
            b- Nghĩa Rộng:
            Trong kinh điển diễn tả về cảnh giới giác ngộ của đức Phật thậm thâm vi diệu. Ngoài ra tất cả những cách thức trình bày thuyết giảng dùng đến ngôn ngữ, sắc tướng... cho đến cả sự ra đời của Phật cũng đều là phương tiện. Hay nói rộng hơn tất cả việc làm của Phật từ khi giáng trần tại Vườn Lâm Tỳ Ni, cũng là phương tiện. Ðức Phật ra đời, một tay chỉ lên trời, một tây chỉ dưới đất và nói:
            - Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn.
            Hình tướng đó lời dạy đó cũng là phương tiện. Nếu ngay lời nói đó chúng sanh tỏ ngộ được thâm ý của đức Phật nói tức nhiên có thể ngay đó là một bài pháp mà Phật đã dạy quá đầy đủ. Nhưng căn cơ chúng sanh, không phải chỉ dùng chừng ấy có thể tỏ ngộ được mà cần phải dẫn dụ thêm. Cho nên đức Phật mới trải qua những giai đoạn tu hành, thành đạo thuyết pháp... và tùy căn cơ chúng sanh mà Phật thuyết ba thừa. Tất cả những thứ đó cũng đều là phương tiện. Và nếu khi nào chúng sanh chưa hiểu hết mục đích của Phật, cảnh giới giác ngộ mà đức Phật muốn trao cho, chỉ dạy cho, thì tất cả những pháp môn mà Phật chỉ dạy đó đều là những pháp phương tiện. Trong kinh có hai câu để chứng minh lời dạy đó:
1- Nhất thiết tu đa la như tiêu nguyệt chỉ.
Nghĩa là:
- Tất cả kinh giáo ta dạy như ngón tay chỉ mặt trăng.
Ngón tay là phương tiện, mặt trăng là chân lý, là thật tướng mà Phật đã chứng ngộ.
2- Ngã sổ thuyết pháp như phiệt dụ giã,
Pháp thượng ưng xã hà huống phi pháp.
Nghĩa là:
- Pháp ta nói như chiếc bè qua sông
Chân Pháp còn phải bỏ huống chi là không phải Pháp.  
Tất cả những ý nghĩa nầy đều nói lên rằng, giáo pháp Phật cũng chỉ là phương tiện để chuyên chở đạo lý đến người đời. Ðức Phật đã khéo dùng phương tiện, như chiếc thuyền để đưa người qua biển khổ, nhưng trong số chúng sanh được đức Phật dẫn dắc cũng có số thành tựu được, có những chúng sanh chưa thành tựu được, phải chờ đến hội Pháp Hoa, một lần cuối cùng đức Phật khai thị mới ngộ. Cho nên trong Kinh Pháp Hoa trước khi chúng sanh được chánh thức giác ngộ, được thọ ký, thì Phật đã thuyết pháp, phóng hào quang hiện các tướng tốt... Tất cả việc làm trong phẩm tựa đã trình bày cũng là phương tiện.
Nếu trong việc phóng quang của đức Phật mà chúng sanh ngộ được, chắc đức Phật khỏi phải nói thêm Phẩm Phương Tiện. Nhưng không tỏ ngộ được, cho nên Đức Phật phải dùng phương tiện, dùng ngôn ngữ để giảng nói đạo lý. Cảnh giới mà chúng sanh cần chứng ngộ, tất cả ngôn thuyết của đức Phật đều là phương tiện, gọi là đạo nhưng mà là đạo phương tiện, chứ không phải đạo đích thực. Phương tiện là vậy, mà chính Phẩm Phương Tiện trong Kinh Pháp Hoa là Phẩm Ðức mà Phật dùng ngôn ngữ để nói thẳng điều Ngài muốn nói, nhưng trước kia chưa nói. Trong đó Phật nhắc đi nhắc lại nhiều lần câu:
            - Ta dùng vô số phương tiện, chư Phật mười phương cũng dùng vô số phương tiện để khai đạo cho chúng sanh.
Phương Tiện mục đích là làm cho chúng ta hiểu, đồng thời tùy theo sở cầu trong mỗi giai đoạn của mỗi người mà tạm thời làm lợi ích. Nói cách khác, nếu chúng ta hiểu khả năng của chiếc bè là để chuyên chở người qua sông, thì phương tiện là từng bậc thang đưa người đi từ chỗ thấp đến chỗ cao, từ dễ đến khó, từ chỗ tạm đến chỗ chân thật rốt ráo. Trí tuệ của Phật viên mãn, cho nên Ngài có vô số phương tiện hướng dẫn chúng sanh từ mê tới giác, là chỗ cứu cánh chân thật.
Như vậy, ngoài Chân lý tức là Tri Kiến Ba La Mật, không có việc gì trên đời mà đức Phật không làm để dẫn dắc chúng sanh, sự dẫn dắt nầy gọi là được gọi là Phượng Tiện Ba La Mật. Tri Kiến là Minh và Phương Tiện là Hành, đầy đủ tri kiến Ba La Mật là Phương Tiện Ba La Mật, cho nên đức Phật được người đời tôn xưng là bậc Minh Hạnh Túc. Với sự hiểu biết cùng tột trong vũ trụ, và làm được tất cả mọi việc cho nên nếu chúng ta tuân theo sự hướng dẫn của Đức Phật, chắc chắn chúng ta nhất định sẽ thành Phật.
Phải biết rằng Pháp chư Phật khó gặp, khó được, giống như hoa linh thoại khi nào có điềm lành, như Phật hay chuyển Luân Thánh Vương ra đời nó mới xuất hiện. Ðiều nầy ý Ðức Phật muốn hiển bày những điều khó hiểu, khó tin, hàng có trí tuệ như Thanh Văn, Duyên giác, Bồ Tát không thể hiểu được. Vì thế truớc khi Ðức Phật giảng về giáo lý chiếc bè dùng để qua sông, tức là pháp phương tiện, Ngài xác định rằng pháp chân thật Ngài chứng được chỉ có chư Phật mười phương đồng đẳng với Ngài mới hiểu. Ngay cả các Bồ Tát còn không thể hiểu huống chi Thanh Văn, và đối với chúng ta tất nhiên còn xa cách vạn dặm.  
Pháp chư Phật là cái tinh hoa mà đức Phật đã có từ khi giác ngộ, nhưng chưa bao giờ Ðức Phật Ngài dạy, tại vì chưa đến lúc, cũng như loài hoa Linh Thoại đến lúc nở thì nó mới nở, nó không thể nở trước, cũng không nở sau. Sự có mặt của Ðức Phật trên cõi đời nầy, nên biết rằng chỉ vì một lý do duy nhất đó là:
- Chỉ cho chúng ta thấy được cái tri kiến vô cùng thâm sâu của chư Phật, đó là sự thật tuyệt đối.
Mục đích Đức Phật xuất hiện trên cõi đời nầy là để mở ra và chỉ cho chúng ta thấy được cái tri kiến của Phật, giúp cho chúng ta bừng tỉnh, thấy được cái tri kiến đó, và cuối cùng chứng nghiệm được cái tri kiến đó. Bốn chữ trong nguyên văn đó là: Khai, Thị, Ngộ, Nhập.
- Khai có nghĩa là mở, như là một kho tàng phải có người mở ra mới được. Khai tri kiến Phật tức là mở kho tàng tri kiến của Phật ra. Kho tàng đó là cái thấy, cái biết của Phật, mà trong nầy dùng chữ Tri kiến để diễn tả.
- Thị tức là chỉ cho ta thấy. Dùng ngón tay chỉ cho rõ ràng thì gọi là thị. Thị Phật Tri Kiến tức là chỉ cho người ta thấy rõ cái tri kiến của Phật
- Ngộ tức là bừng tỉnh mà thấy được một sự thực nào đó, cũng giống như khi thở và chúng ta biết mình đang còn sống, hiện giờ ở đây.
Chẳng hạn như:
Th vào th ra
Là hoa tươi mát
Là núi vững vàng
Nước tịnh lặng chiếu
Không gian thênh thang.
Ngộ Phật Tri Kiến là bừng tỉnh và thấy được cái tri kiến của Phật.
- Nhập có nghĩa là đi vào, để chứng nghiệm chứ không phải chỉ đứng ở ngoài mà dòm ngó. Mình được cái pháp vị thì gọi là chứng.
Thật ra tri kiến Phật không phải chỉ có Phật mới có mà tất cả chúng sanh, mọi người ai cũng có sẳn, nhưng vì vô minh, tham vọng che phủ, cho nên bây giờ Đức Phật mới dùng chiếc bè thế tục để đưa chúng ta vào kho tàng vô giá đó, tức là phương tiện, rồi từ phương tiện đó Đức Phật mới chỉ cho nhận ra Tri Kiến Phật, và sau đó cố gắng tiến tu để nhập tri kiến Phật của chúng ta.
Vậy tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì quên nên Phật mới dùng phương tiện: Khai, Thị, Ngộ, Nhập, khiến cho chúng sanh nhận ra Phật tánh của chính mình để thành Phật như Ngài. Ðó là bản hoài của chư Phật cho nên nói là vì một đại sự nhân duyên mà Ðức Phật ra đời là từ ý nghĩa nầy.
Kinh Pháp Hoa, nhất là Phẩm Phương Tiện đề cập đến ba thừa, nhưng sự thật chỉ có thuyết minh về Phật Thừa, và mục đích quan trọng, điểm cốt yếu là chỉ: Tức tâm, tức Phật. Tri Kiến là tâm, là Giác, là Phật. Nói thì như vậy, nhưng chúng ta tự hỏi:
- Tri kiến nào là Phật, còn tri kiến nào là chúng sanh?
Như trong Kinh Pháp Hoa, chúng ta thấy hai nhân vật được đề cập ngay từ đầu, đó là Di Lặc Bồ Tát hay còn gọi Cầu Danh Bồ Tát và Văn Thù Bồ Tát, từ đó chúng ta có thể trả lời:
- Tri kiến theo cầu danh Bồ Tát là tri kiến chúng sanh. Tri kiến theo Bồ Tát Văn Thù là Tri Kiến Phật.
Trong Kinh Lăng Nghiêm Phật cũng có dạy:
- Tri kiến lập tri tức vô minh bổn
Tri kiến vô kiến tư tức Niết Bàn.
Nghĩa là:
- Trong lúc thấy biết, mà nhận được là thấy biết là gốc vô minh
Thấy biết mà không thấy biết là Niết Bàn.
Ðiều nầy ý Ðức Phật Ngài muốn dạy cho chúng ta, khi tâm chúng ta thấy những hiện tượng của danh sắc mà khởi tâm đắm nhiễm, thì trong lúc đó là chúng ta bị vô minh dẫn dắt. Còn Thấy biết những danh sắc hết sức rõ ràng, nhưng không khởi niệm phân biệt, an nhiên tự tại thì đó là Niết Bàn. Sự kiện nầy giống như mặt gương trong sáng người đến thì hiện bóng người trong gương, vật đến thì hiện bóng vật, nguời và vật đi qua rồi thì mặt gương không còn lưu lại gì, vẫn sáng trong như trước. Cũng vậy, đối với ngoại cảnh, chúng ta vẫn thấy biết mà tâm không lưu lại hình bóng để phân biệt. Ðó là Niết Bàn.
Ðức Phật Ngài xác nhận rõ ràng, tất cả những điều giảng dạy của Ngài không có ba thừa mà chỉ một Phật Thừa. Sở dĩ Đức Phật phải nói ba thừa vì chúng sanh trong đời năm trược sanh lòng bỏn xẻn, tham lam, ganh ghét... Vì vậy mà Phật tạm dùng phương tiện nói ba thừa, để dẹp bỏ những tâm cấu uế đó. Vì thế mà có ba khuynh hướng tu học trong đạo Phật, khuynh hướng đầu gọi là:
01- Thanh Văn
Thanh Văn là những người được nghe giáo lý của Ðức Phật mà tu học để thành đạo. Họ theo một con đường tự tu tự độ cho nên gọi là Thanh Văn Thừa.
Trong hàng ngũ của chư vị Thanh Văn thường thường người ta chỉ  nghĩ rằng mục đích tu học là để chấm dứt khổ đau của chính mình, và để đạt tới quả vị A La Hán người ta mới chấm dứt được sự sanh tử, luân hồi cho chính bản thân mình. Vì vậy mà quả vị A La hán là cái ước mong cao nhất của người Thanh Văn. Trong con người Thanh Văn có cái mặc cảm là mình không thể thành Phật được. Cái tối đa mà Thanh Văn có thể thực hiện là thành A La Hán thôi. Họ nghĩ rằng Phật là một người rất đặc biệt trên cõi đời nầy, chỉ có một người như Phật thôi, còn tất cả chúng ta, tối đa là đạt tới quả vị A La Hán. Vì vậy trong tâm người Thanh Văn không có chí lớn, chí lớn mà chúng tôi muốn nói đó còn gọi là tâm Bồ Ðề. Sở dĩ người có tâm Bồ Ðề được gọi là người có chí lớn, là vì một người có tâm Bồ Ðề tức là người có những suy tư, và có khuynh hướng giúp đỡ người khác, để đem lại sự giải thoát và an lạc cho cả thế gian.
Khi một người có chí nguyện lớn đó, có cái Bồ Ðề tâm đó thì họ được gọi là Bồ Tát. Bồ Tát Đạo là con đường lớn, Bồ Tát Thừa là chiếc xe lớn có thể chở được nhiều người cùng một lúc, chứ không phải như những người chỉ lo chuyên giải thoát cho bản thân. Ðó là những tư tưởng căn bản của Phật Giáo Ðại Thừa. Vì lý do đó cho nên Đức Phật phải khai mở Bồ Tát thừa, đem Bồ Ðề tâm vào trong trái tim của tất cả mọi người.
Nhận xét cho cùng thì quan niệm của chư Thanh Văn không hoàn toàn sai. Ðức Phật Ngài cũng nhận thấy điều đó, nghĩa là Ngài nhận thấy thể lực chúng ta không tốt, khả năng hiểu biết của chúng ta kém, đó là hai vốn liếng quý giá để đắc đạo, trong khi chúng ta không có, hoặc chúng ta có nhưng mà không đủ, cho nên Ðức Phật động lòng từ bi, thương xót nên sắm một chiếc bè thật to để cho chúng ta đi tỵ nạn, đó chính là Đức Phật khai phương tiện cho chúng ta tu.
Nếu chúng ta chịu khó quán chiếu, trên phương diện cầu tiến, quán sát cuộc đời tu hành của đức Phật và các vị Tổ, chúng ta thấy rõ đức Phật có sức khỏe phi thường, khi chưa xuất gia lịch sử đã ghi, không có một lực sĩ nào mạnh hơn ngài. Nhờ sức khoẻ kỳ diệu, Ngài trắc nghiệm các pháp một cách tường tận như thí nghiệm pháp tu khổ hạnh trong 6 năm, ngày ăn một hột mè vẫn sống được, và hạ thủ công phu 49 ngày đêm ngồi tư duy, không ăn, không uống vẫn không ngã gục, trái lại còn đạt đến đỉnh cao của sự minh mẫn gọi là giác ngộ. Các vị thiền sư cũng có thể lực vượt bình thường, điển hình như Ngài Bồ Ðề Ðạt Ma, chín năm nhìn vách tu trên núi Thiếu Lâm, và vào thời điểm đó điều kiện vệ sinh chắc chắn không đầy đủ như ngày nay, nhưng sự đề khán của cơ thể mảnh liệt, các Ngài đã vượt qua những chướng khí, nóng lạnh và bệnh tật, của núi rừng và đắc đạo một cách dễ dàng. Còn chúng ta ngày nay, điều kiện ăn ở, thuốc men, tiện nghi quá nhiều nhưng nay đau mai yếu, thời khoá công phu bình thường cũng không trọn còn nói chi gì đến việc trắc nghiệm các pháp cao hơn.
Thể chất là điều cần thiết để duy trì cuộc sống, tuy nhiên phần trí lực hay khả năng tri giác của chúng ta mới thực sự quan trọng. Ở điểm nầy chúng ta thấy Ðức Phật có sức thông minh tuyệt vời, lúc chưa xuất gia, không một vị thầy nào ở thế gian đủ sức dạy Ngài, đến khi đắc đạo Ngài được tôn làm bậc chánh Biến Tri, tại vì Ngài thấy biết các pháp diễn tiến một cách tường tận.
Trình độ tri thức các vị Tổ, chư thiền sư cũng vậy, luôn luôn vượt hơn thế gian và chỉ đạo cho cuộc đời. Ngày nay trình độ dân trí bên ngoài tương đối cao, trong khi sự hiểu biết của chúng ta không bằng thế gian huống chi vượt qua thế gian, làm Thầy thiên hạ. Với thể lực yếu đuối, trí lực kém cõi, ác nghiệp quá sâu, thì biết bao nhiêu khó khăn chờ đón chúng ta. Do vậy chúng ta không có cách nào hơn là phải nhờ chiếc bè lớn của Đức Phật đưa chúng ta qua bể khổ, do vậy mà chúng ta phải nương theo pháp phương tiện để tu thân.
Tuy nhiên Ðức Phật xử dụng phương tiện, lập ra tam thừa, nhưng không có ý niệm rằng mọi người chỉ nên chứng quả A La Hán rồi nhập vào Niết Bàn vắng lặng. Ðức Phật không nghĩ như vậy, nhưng có những vị Thanh Văn nghĩ như vậy, và do đó con đường Thanh Văn là con đường tuy không hẳn là con đường đẹp nhất mà Phật muốn dạy, nhưng vì có người muốn như vậy, nên Ðức Phật phải chỉ dẫn như vậy. Vì thế trong chiều hướng nầy Ðức Phật dạy bảo chư Thanh Văn rằng:
- Muốn bớt khổ thì hãy thực tập những điều mà ta đã hướng dẫn, nhưng giáo pháp của ta không phải chỉ nhắm tới sự diệt khổ, mà giáo pháp của ta còn có mục tiêu cao hơn.
02- Con Ðường Duyên Giác
Ðức Phật Ngài dạy con đường thứ hai là Duyên Giác Thừa, gồm những người, tuy không được Phật giảng dạy, nhưng nhờ quán chiếu duyên sanh, và cũng có thể thành đạo, cho nên gọi là Duyên Giác Thừa, hay còn gọi là Ðộc Giác thừa. Con dường Duyên Giác nầy cũng là con đường lành, nhờ quán chiếu 12 nhân duyên mà quý vị có thể vượt thoát được những sự ràng buộc, và thấy thảnh thơi trong người, thì điều đó cũng tốt, chúng ta cứ thực tập như vậy đi, đừng thắc mắc gì cả.
03- Con Ðường Của Bồ Tát.
Ðối với con đuờng của chư Bồ Tát thì lại khác. Các vị Bồ Tát có khuynh hướng tu theo hạnh Bồ Tát, là những vị phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác, và muốn cho tất cả mọi loài được thừa hưởng kết quả của sự thực tập chứng ngộ của mình.
Nhìn chung về ba con đường đức Phật đã xử dụng phương tiện vạch ra, chúng ta thấy được ý của Ðức Phật, Ngài chấp nhận rằng con đường của Thanh Văn và của Duyên Giác, là chính do Ngài đã vì phương tiện tạo ra. Chủ đích quan trọng nhất của Phật là hướng dẫn chúng sanh đi vào con đường Phật Thừa, tức là con đường: Khai, Thị, Ngộ, Nhập tri kiến của Phật. Vì vậy cho nên cái triết lý nầy, cái con đường nầy gọi là:
- Khai Tam Hiển Nhất,
Nghĩa là:
- M ba cái nhưng chẳng qua chỉ là một cái thôi.
Như vậy mục đích Phương tiện, hay chiếc bè để đưa người qua sông chỉ dùng cho người mới phát tâm vào đạo, nương theo đó mà tu đạo giải thoát, nhưng khi chúng ta đắc đạo rồi, thì cũng phải mở cửa phương tiện để giáo hoá chúng sanh như đức Phật Thích Ca.
Chúng ta cần phân định rõ như vậy. Chúng ta chỉ mở phương tiện được với điều kiện chúng ta đã thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.
Ðức Phật là người mở phương tiện cho chúng ta, Ngài đưa ra 84000 phương pháp tu, chúng ta tu pháp môn nào cũng được, nhưng đừng lạc ra khỏi những pháp nầy, tạo những phương tiện khác là tự đẩy chúng ta ra khỏi Phật Pháp.
Nếu chúng ta dùng phương tiện đúng từng bước, thì tự thân chúng ta sẽ phá bỏ nhiểm ô, trần cấu và trí tuệ phát sanh, đồng thời đưa chúng ta lên quả vị giác ngộ. Ngược lại sử dụng sai để trầm luân sa đọa, thì chúng ta sẽ phạm tội phá pháp. Kinh Phật để lại là một việc, mà sữ dụng lợi ích cho bản thân mình và cho cuộc đời, hay tác hại cho bản thân mình và cho cuộc đời là tùy ở nơi chúng ta.
Chúng ta phải cẩn thận, không nên lầm giáo pháp phương tiện với cứu cánh. Nếu chúng ta không hiểu rõ lợi ích sâu xa mà bác bỏ pháp phương tiện nầy để tìm giải thoát cũng sai. Chúng ta cần cân nhắc suy nghĩ sử dụng phương tiện thế nào để phá trừ phiền não cho mình, và giáo hoá chúng sanh thành tựu mới là điều quan trọng. Chúng ta học phật pháp nghĩa là dùng chiếc bè Phật Pháp để qua biển đời đau khổ, đi qua cửa phương tiện để ra khỏi sanh tử. Trong Kinh Pháp Hoa diễn tả muốn ra khỏi nhà lửa Tam Giới chỉ có một cửa duy nhất nhỏ hẹp, đó là cửa phương tiện của đức Phật.
Chính vì sự khó khăn trong việc thâm nhập thế giới bản thể vắng lặng không nói được, cho nên đức Phật mới mở các pháp phương tiện tương ứng, và chúng ta là đệ tử Phật chỉ có thể làm một việc duy nhất là bàn đi, bàn lại phương tiện nầy, hay nói cách khác là đưa Phật pháp vào tâm của chúng ta, hay những chúng sanh tâm còn sơ cơ hạn hẹp, rồi y cứ theo đó mà hành trì. Phương tiện nầy luôn luôn được xử dụng, cho đến ngày nào đó mà tâm của tất cả mọi người chúng ta bừng tỉnh, sáng suốt ngộ tánh thành Phật mới thôi.
            Điều cũng cần xác định, phương tiện thì tùy thời, tùy chỗ, tùy đối tượng mà chúng ta thay đổi, cho nên có những pháp phương tiện thích hợp khác nhau. Trong suốt quá trình thuyết pháp của đức Phật hơn 300 hội từ Lộc Uyển đến Ta La Song Thọ, Ngài đã hướng dẫn cho chúng ta vô số pháp phương tiện, và ghi lại thành văn tự kinh điển, tuy nhiên trong kinh Văn Thù, đức Phật đã khẳng định suốt 49 năm Như Lai chưa từng nói một lời nào.
Chúng ta nghĩ gì khi nghe Ðức Phật tuyên bố trong Kinh Văn Thù như vậy?
Một lời pháp chân thật người thường không thể diễn nói được, và Đức Phật đã thuyết trong trạng thái vô sanh, nghĩa là không từ đâu đến mà cũng không đi về đâu, như thế thì làm thế nào để có thể nói với người trên cuộc đời. Vì lý do đó, nếu đứng trên lập trường bản thể, Kinh Văn Thù xác định Như Lai chưa nói một lời nào là đúng.
Nhưng nếu nói trong quá trình 49 năm thuyết pháp là của đức Phật Thích Ca mở phương tiện cho người ở trong sanh tử, cho nên Ðức Phật Thích Ca tuy đã nhập Niết Bàn rồi, nhưng Như Lai thì không bao giờ chết, không bao giờ vào Niết Bàn. Ðức Phật Thích Ca niết bàn để đức Phật thực, tức là pháp thân phổ biến khắp thế giới, trở thành con người vĩ đại của nhân loại và luôn hiện hữu trong pháp thân, pháp tánh của người tu hành đắc đạo.
Trong chiều hướng nầy, nếu chúng ta tu và chứng được một pháp nào, chúng ta sẽ thấy Phật ở khía cạnh đó. Như vậy hai mặt chân đế và tục đế dung thông, hay cứu cánh và phương tiện vẫn là một trong con người Phật.
Chân lý hay cứu cánh, là Phật thực hay chơn như tâm không sanh không diệt trên cuộc đời, và Chiếc bè để qua sông là phương tiện hiện ra con người sanh diệt thuyết pháp. Nói cách khác, thân Phật 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp và tất cả giáo pháp Ngài đều là phương tiện.
Trong công cuộc tu tập, có lẽ việc đầu tiên chúng ta nên tập bỏ tất cả những thứ lặt vặt ở bên ngoài bằng cách đóng kín năm giác quan, hay năm cánh cửa tiếp xúc với bên ngoài. Ngăn chận năm tiền trạm nầy xong rồi, còn lại phần tinh thần: Thọ, tưởng hành, thức, cũng theo đó cũng bị xóa sạch. Vì sáu căn không tiếp với sáu trần, cho nên vấn đề không được đặt ra, và việc hiểu biết chuyện thế tục, vui buồn vinh nhục do mắt thấy tai nghe đều bị cắt đứt, thì chắc chắn tâm hồn chúng ta sẽ trở nên lắng yên. Tuy sanh thân tứ đại của chúng ta vẫn còn, nhưng mà những hoàn cảnh bên ngoài của cuộc đời tác động vào thân và tâm không làm chúng ta đau khổ.
Ý thức được trước đây chúng ta dại khờ lấy cái khổ làm tài sản cho chúng ta, nhưng nay chúng ta xoá bỏ cái khổ đó, chỉ còn lại cái ta là chơn ngã. Nếu chúng ta cứ luôn kiểm soát thân tứ đại của chúng ta như vậy, thì từ từ nó sẽ không còn đòi hỏi những cái vô lý như trước vì: Thọ, tưởng, hành, thức đã bị dẹp bỏ, thân đòi hỏi rất ít, có thể là không còn nữa, từ đó nó giúp chúng ta rất nhiều trên bước đường tu học. Trên bước đường tu hành, nếu chúng ta biết chấp nhận cuộc sống tối thiểu bằng tuệ giác, thì chúng ta sẽ dễ dàng bắt gặp những cảm nhận thảnh thơi an nhàn như vậy.
Thật vậy, yêu cầu của cuộc sống con người không nhiều, nhưng lòng tham của con người bao nhiêu cũng không đủ. Do vậy, khi chúng ta xóa được lòng tham rồi, thì những gì không cần thiết cho thân, không chi phối chúng ta được nữa. Ý thức như vậy chúng ta có thể giảm thiểu những nhu cầu không cần thiết, thì chắc chắn chúng ta có một đời sống hoàn toàn thanh thản khác với người thế tục, đó là trạng thái chúng ta chuẩn bị trước khi bước vào cửa thiền, thâm nhập Phật Huệ. Ăn uống đơn giản vẫn khoẻ mạnh, và sinh hoạt cơ thể của chúng ta không giống người bình thường, nhịp tim đập tự hạ xuống hơi thở rất nhẹ, số lượng máu lưu chuyển trong cơ thể cũng chậm nên lương hữu cơ không bị đốt nhiều.
Trong thời gian đức Phật ngồi tại Bồ Ðề Ðạo Tràng nhập thiền định, Người thế gian không biết Ngài làm gì. Nhưng trở lại thực tế cuộc sống đi giáo hoá chúng sanh, chúng ta mới biết có đức Phật ở thế gian, và đức Phật ở thế gian là phương tiện, là chiếc bè để chuyên chở chúng sanh qua sông mê biển khổ, cho nên đối với đức Phật thiệt và pháp thân của Phật Phương tiện nói, tất nhiên cũng là pháp phương tiện.
Ngày nay trên bước đường tu hành, chúng ta thường lầm lẫn chấp pháp phương tiện làm cứu cánh, cho nên lúc bấy giờ phương tiện không còn tác dụng giải thoát, mà lại trở thành ràng buộc chúng ta, ví dụ tượng Phật nhằm giúp chúng ta hình dung ra đức Phật thiệt, từ đó chúng ta bắt đầu quan sát lời nói, hành động suy tư của đức Phật để học theo, làm theo mới là việc chính yếu, thế nhưng phần lớn chúng ta vẫn coi tượng là phật.
Hiểu được rằng tất cả các pháp đều là phương tiện, thì tượng Phật xi măn cũng là phương tiện. Tuy nhiên, nếu hiểu rằng nương với Phật tượng trưng là phương tiện để chúng ta tìm ra ông Phật độ thoát chúng sanh, thì chúng ta sẽ có những kết quả tốt. Nếu chúng ta ý thức được tác dụng của Phật phương tiện, và siêng năng lạy phật xi măng tụng kinh bằng giấy, nhờ đó trí tuệ của chúng ta sẽ mỗi ngày một phát huy thêm, và chúng ta có thể giải quyết những việc xảy đến với chúng ta một cách tốt đẹp hơn.
Quả thật như vậy, nếu đối trước tượng Phật, mà chúng ta khởi lòng hết sức thành kính, thì sự thành kính đó sẽ giúp chúng ta phá được màn vô minh ngăn che, và Phật Tượng có sức thu hút mạnh kéo chúng ta rời thực tế, phiền não vụt tan biến theo. Khi mà chúng ta tập trung tư tưởng đến quên cả sinh mệnh, quên đi sự hiện hữu của thân tứ đại, thì chúng ta sẽ thấy được Đức Phật chân thật hiện 32 tướng tốt, và tác dụng vào tâm chúng ta, khiến cho tâm chúng ta sanh lòng hoan hỷ, lúc đó chúng ta sẽ cảm thông liên hệ với Phật. Tượng chỉ có giá trị đối với những người nhận được hương vị giải thoát, ngược lại người thấy tượng vẫn sừng sững một khối bê tông thì hoàn toàn không lợi ích gì, muôn đời họ vẫn đứng ngoài thế giới an vui mầu nhiệm của chư Phật.
Nói tóm lại, tuy rằng Đức Phật đã dùng chiếc bè Phật Pháp lớn để đưa người qua biển khổ sông mê, Ngài dùng nhiều phương tiện như vậy, nhưng mục đích chính cũng chỉ đưa tới một cái gọi là Nhất Phật Thừa, tức là con đường duy nhất. Và mục đích của công trình đó là đưa tất cả chúng sanh đến cái gọi là Nhất Thiết Chủng Trí, mà nghĩa lý cũng tương đương với tri kiến của Phật, với cái thấy, cái trí tuệ của Phật. Ðó là cái trí tuệ cao siêu nhất, và đó cũng là cái mục đích của tất cả những người tu học.
Bản hoài của Phật là trao truyền cái đó, chứ không trao truyền một cái gì giá trị hơn. Thế nhưng chúng ta chưa có điều kiện để tiếp nhận điều đó thì chúng ta phải dùng phương tiện để giúp cho chúng ta từ từ tiến tới, để một ngày nào đó chúng ta có cái khả năng, hội dủ duyên để tiếp nhận được điều quý nhất mà chúng ta có quyền tiếp nhận. Vì thế cho nên nếu có lúc Phật đã khai mở ra làm ba con đường để cho Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát đi, chẳng qua đó chỉ là phương tiện thôi. Ngày nay chúng ta là đệ tử của Đức Phật, muốn thực hiện một điều gì mà thời gian và không gian chưa thuận tiện, chưa cho phép thì chúng ta phải dùng những phương tiện nầy, phương tiện kia để làm cho những điều kiện hội đủ. Khi có đủ phương tiện rồi thì chúng ta mới có thể thực hiện điều chính yếu mà chúng ta cần thực hiện.
 
Tài Liệu Tham Khảo
-  Kinh Pháp Hoa Ðại Cương
- Vì Sao Tôi Tin Phật
- Cây Giác Ngộ
- Phật Học Tự Ðiển
- Kinh Pháp Hoa Diễn Giảng
-- o0o --