TẬP SAN DƯỢC SƯ

Nụ Cười Di Lặc
Nhất Quán
-- o0o --

 

Cuộc đời có một thói quen là thế nào cũng cười. Người ta khen cũng cười, người ta chê cũng cười. Hay cũng cười mà dở cũng cười, phải cũng cười mà không phải cũng cười, cái gì cũng cười được. Do vậy mới có người bào chữa:
            - Cuộc đời muôn việc chẳng qua là trò phường chèo hết thảy, không có chi là nghiêm đến nỗi người hiền phải nhăn mày mà nghĩ ngợi.
            Có người cũng phân tích đặc tánh của cái cười Việt Nam:
            - ... Xét ra cái cười của con người nhiều khi có cái vô tình độc ác, có cách láo xược khinh người. Có cách chửi người ta hoặc là ngấm ngầm hoặc là công khai.
            Nói cho cùng, người Việt Nam chúng ta có cái cười vô cùng oái oăm, và vô cùng thâm độc, nó là sự tự vệ của một dân tộc bị đô hộ nhiều lần và quá lâu. Vì vậy trong con mắt của người Việt Nam, cười là biểu hiệu sự độc lập của tinh thần, vì thế từ đó chúng ta thấy có nhiều cách cười tương ưng với mọi hoàn cảnh. Trong phạm vi bài viết nầy xin được giới thiệu đến đại chúng có hai nụ cười chính đó là nụ cười nhân thế và nụ cười Di Lặc. Nói về nụ cười của nhân thế, như chúng ta đã biết, có nhiều kiểu cười không tự nhiên như:
            - Cười nhạt,
- Cười ruồi,
- Cười nịnh,
- Cười gằn...
Trong khi đó nụ cười Di Lặc nói cho đủ là nụ cười hoan hỷ của Đức Phật Di Lặc. Tuy nhiên trước khi nói đến nguyên do và diệu dụng của nụ cười Di Lặc, chúng tôi xin cùng với quý vị tản mạn một vài nguyên do về nụ cười của nhân thế.   
A- Nụ Cười Nhân Thế
Vào dịp cuối năm, trong ngày lễ hội chợ Tết Seattle, hai mẹ con chị Thuận đi tham quan, nhưng vì mãi mê xem những cảnh tưng bừng của ngày lễ, bổng chị giật mình nhìn lại đứa con trai của chị đã lạc đâu rồi ....  Ngược dòng người trong ngày lễ hội, chị Thuận mới len lỏi đi tìm cháu Thành. Khi gặp con, chị Thuận thấy nó đang đứng sửng sờ mở to đôi mắt, nhìn một người thiếu phụ trung niên đương nhe răng ngắm vào chiếc gương trong sạp bán đồ mỹ phẩm. Vì phí sức quá nhiều nên chị Thuận bực tức, và đến lôi nó đi trong khi miệng cằn nhằn:
            - Có về mau không? Làm gì mà đứng như trời trồng vậy.
            Chân bước theo mẹ. Thành còn quay đầu lại phân bua:
            - Con muốn coi tai sao bà đó cười một Mình.
            Nghe con nói, chị Thuận gắt gỏng:
            - Trời ơi, ngu ơi là ngu, bà đó có lẽ là bà có hẹn với bồ của bả, cho nên bà đang nhăn răng để soi vào gương coi còn được cái răng để khoe với bồ của bả chớ đâu có phải là cười.
            Như muốn dạy con, chị Thuận tiếp lời:
            - Con tôi khờ quá! Nhe răng đâu phải là cười, con! Cười là .....
            Thấy mẹ ngập ngừng, Bé Thành mới hỏi dồn:
- Cười là gì hả má?
- Cười là ... lúc người ta vui ... Thôi đi về, con!
            Khi hai mẹ con chị Thuận về tới nhà, cáu kỉnh vì bị giữ ở nhà một mình, lại phải chờ lâu, cho nên anh chồng Thuận tiếp chị bằng một tiếng cười gằn:
            - Hà, hà, hôm nay chắc gặp nhiều chuyện vui ở ngoài nớ, cho nên mẹ con mi bây đến giờ mới chịu về!
            Thấy chồng bực bội cho nên chị Thuận không dám nói một lời và vội vả vào bếp để lo cơm nước.
            Cháu Thành chạy tung tăng theo mẹ hỏi:
            - Hôm nay mình về trễ, sao ba lại vui, má hả?
            Chị Thuận cũng đâm bực bội:
            - Vui hồi nào đâu mà vui! Ba mầy đang quạu như gì, mày không thấy hả?
            Thành thắc mắc:
            - Vậy sao hồi nãy má nói hễ cười là vui?
            Càng bực bội thêm, chị Thuận gắt:
            - Trời ơi là trời, mầy có để yên cho tao nấu cơm không? Ngu gì mà ngu quá vậy! Còn đứng đây hỏi lẩn thẩn nữa thì con ăn đòn bây giờ nghe con!
            Cháu Thành chạy lên nhà trên khóc thút thít, vì bất thần vướng phải một đầu đề bí hiểm:
            - Cười là gì?  
            Để trả lời cười là gì, và nói về cười và nụ cười của nhân thế, thì chúng ta phải hiểu rằng một cái cười thường được gọi là sinh lý vì người ta đinh ninh không dính líu đến trí tuệ hay tình cảm. Vả lại đi từ dễ đến khó là đường lối thông dụng, hữu lý, để mở lần gút thắc của một vấn đề phức tạp cười là gì?
            Vậy chúng ta thử thóc lét vào nách hay gải lòng bàn chân của một đứa bé đã được phát triển, chọc nó phát tiếng cười. Và cùng lúc chúng ta đặc bàn tay kia ngay trước mũi và miệng nó thì sẽ biết cười là gì? Sự xét nghiệm nầy cho chúng ta kết quả:
            - Cười là sự thở ra đứt đoạn.
            Như chúng ta đã biết, hít vào và thở ra đều do sự thay đổi thể tích của lồng ngực, tức là sự co giản của các thớ thịt nằm giữa xương sườn và của hoành cách mô, tức là bức ngăn đôi giữa bụng với ngực. Vậy cười là vì bị kích thích cho nên các thớ thịt của sư hô hấp co quắp lại, làm cho hơi thở bị ứ đọng phải tuôn ra từng chập. Không khí lúc thoát đi cọ vào vành cửa hầu cũng đương khép lại, nên tạo thành ra tiếng. Nơi mặt, cũng vì kích thích đó, mà các thớ thịt nâng đôi má lên, kéo khóe môi ra sau, khép mí mắt lại đào sâu thêm các đường nhăn mà điểm tô cho môi cái cười có một sắc thái riêng biệt.
            Tương tự như vậy, khi một người nào cười, hoặc khi chúng ta bị chọc cười, tiếng cười vang của chúng ta thế nào cũng lôi kéo một số người cười theo, lúc ấy trông bộ tịch của những người phụ hoạ            theo, rất có thể: Người thì khoa tay, múa chân, hoặc lắc lư cái đầu, có người co quắp mình lại, ôm bụng cười to, sự kích thích di chuyển từ mặt ra trọn cơ thể, nhất là ở những cơ thể bụng, vì vậy mới có người cười đến té đái, hoặc lở trôn...
Hình ảnh của cái cười toàn diện đó được Kim Dung ghi lại đầy đủ trong bộ: Anh Hùng Xạ Điêu, khi nữ hiệp Hoàng Dung trừng phạt Bành Trưởng Lão là người dẫn đầu trong đám phản động bằng cách dùng thôi miên để lôi kéo tên trùm ăn mày nầy cười theo mình:
            - Tiếng cười của Hoàng Dung khơi mào dẫn Bành Trưởng cười to rồi cười mãi, liên miên bất tận. Không còn tự chủ được, lão gập người lại để cười, không còn kềm chế được nữa, hai tay ôm bụng, cười ngặt nghẽo, đầu lắc lư, đưa qua đưa lại cúi xuống bậc ra sau. Tràng cười nầy tiếp nối tràng cười khác, ban đầu còn phát ra tiếng:
            - Hà hà, hì hì, hí hí, hố hố, rồi khằnh khạch, kế đến hồng hộc, đến thé thé, cuối cùng chỉ còn ằng ặc ...
Không còn đứng vững, y nằm lăng trên đất, nước mắt nước mũi tuôn tuôn ra ràn rụa. Sau mấy lần ặc ặc gương mặt Bành Trưởng Lão đổi màu từ xanh ra tím rồi sang qua đen của một người bị hụt hơi hay nghẹt thở. Hai tay ôm bụng, mặt mày nhăn nhó, bày tỏ một sự đau đớn của bệnh nhân sắp đứt ruột. Sau đó nhờ lời cầu xin của đồng bọn, lão được buôn tha nên ngã bậc ra sau nằm xoài, hai mắt trợn ngược mồ hôi đổ ra như tắm, ướt cả áo quần, trên mặt để lộ ra một sự mệt nhọc vô cùng ... Sau khi há to mồm ra như nuốt vội hơi vào cho kịp để sống. Từ sự bị kích thích của vài cơ nơi ngực, cái cười lan rộng ra biến thành một phản ứng của toàn thân và trong trường hợp đó nếu không cố gắng hít kịp hơi vào thì có thể bị chết ngộp.
            Đã đành cái cười có thể loang khắp châu thân, và trong vài trường hợp gây ra cái chết như trong truyện Thuyết Đường người Trung Hoa có ghi:
- Ông Trình Giảo Kim vì thấy bọn gian thần đến ngày đền tội nên ông cười, cười mà không hít kịp hơi vào, cho nên bị chết ngộp.
Tuy là nguyên do có thể dẫn đến chết người, nhưng bình thường, nó chỉ là phản ứng của hai nhóm cơ:
- Một là của hô hấp và hai là nơi mặt.
            Để có vài chi tiết về cảm giác đặc biệt của cái cười, mời đại chúng cùng nghe bộ truyện khác của Kim Dung đó là:
            - Kiếm chống trời, gươm mổ rồng.
            Đó chính là:
            - Ỷ Thiên Kiếm và Đồ Long Đao.
            Và mời đại chúng tìm đến đoạn:
- Trương Vô Kỵ vừa bị Triệu Minh gạt, cả hai cùng rơi xuống hầm sâu. Vì nóng lòng muốn thoát thân gấp, để đi cứu các bạn đương bị nhiễm độc. Vô Kỵ đã dùng nhiều cực hình như:
- Bóp cổ, bẻ tay hoặc bịt mũi ..
Những động tác nầy tuy làm cho Triệu Minh ngất xỉu, nhưng mà cô nàng cũng chưa chịu thổ lộ bí mật của hầm. Cuối cùng, chàng trai hiền lành Trương Vô Kỵ phải tháo giày vớ của cô nàng đối thủ cứng đầu, rồi dùng ngón tay cào vào lòng bàn chân của cô ta. Ban đầu Triệu Minh cười khúc khích, nhưng liền khi đó thấy ngay sự khó chịu cực độ giống như có cả trăm cả ngàn con rận đương bò trong ngủ tạng, đau đớn hơn là dao chém kiếm đâm, bắt buộc cô nàng ta phải trân mình mà chịu đựng. Trong khi nghe toàn thân nổi ốc làm cho lông và tóc dựng đứng lên cơ hồ như sắp rụng. Cho nên tiếp theo chuổi cười là tiếng khóc òa thê thảm, báo hiệu sự đầu hàng. Nhưng lúc mang lại giày vớ, thoáng qua trong dầu Triệu Minh một ý nghĩ lạ lùng là ước mong cho Vô Kỵ cào vào chân mình một lần nữa.
Nói đến đây, chúng ta thấy các nhà sinh lý học đều công nhận hai trạng thái của Kim Dung mô tả:
- Trong cái nhột sự khó chịu đi đôi cùng với thích thú.
Có thích mới cười, vì thích có người mới dám bỏ tiền đi xem các tuồng diễu, có người mới dám bỏ tiền ra để mua những cuốn Vedio tiếu lâm cất trong nhà làm vật gia bảo.
Như vậy hai trạng thái khó chịu và thích thú đó đều thể hiện qua bộ tịch: Có khi cong người như tôm, các thớ thịt đều co rút lại, gương mặt nhăn nhó bày tỏ sự khó chịu rõ rệt, trái lại lúc chúng ta hả hê cười đôi mắt sáng rực là phút đương thỏa thích nhất. Cho nên có câu là:
- Một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ.
Theo các nhà y khoa cho biết, trong cái cười, khí quản dương khép lại, cho nên những loạt hơi tuôn ra mới cọ mạnh vào vành cửa yết hầu, và do rung động ấy mà phát sanh ra từng chuỗi tiếng. Các âm thanh thường được ví với những vòng sóng, nổi lên khi một viên đá rơi vào mặt ao phẳng lặng. Và cũng như làn sóng, người ta biểu thị tánh chất của mỗi tiếng bằng bề cao và chiều dài của nó. Trong cái cười, cả hai tầng số đều thay đổi tùy theo sức ép của hơi thở vào vành cửa hầu. Và tất nhiên còn tùy ở sự dày mỏng, ngắn dài của mỗi cánh cửa hầu mà thay đổi in như giọng nói của từng mỗi người. Giọng cười thanh hay tục, êm ái hay ồ ạt:
- Có tiếng thâm trầm như vuốt ve kẻ nghe.
- Cũng có âm thanh hô hố thô tục, dường như trút cả xú uế của bộ tiêu hoá vào mặt người đối thoại bạc phận.
- Có tiếng cười hé hé mà anh kép cải lương hạ cấp tự bắt buộc phải phát ra mỗi khi tán gái  ....
Mỗi âm ba đều điểm chỉ cho tánh tình của một người. Đi từ âm thanh nhỏ nhẹ êm như nhung, dịu như mơn của thiếu nữ hiền lành cho đến tiếng the thé như cưa vào thanh sắt làm cho người thưởng thức nổi da gà. Cho nên có thể xác định nụ cười của thế tục:
- Bao nhiêu giọng cười, là bấy nhiêu tâm trạng.
B- Nụ Cười Di Lặc
Trước khi nói về nụ cười đức Di Lặc, chúng tôi xin được giới thiệu đến đại chúng một vài nét về Đức Di Lặc. Như chúng ta đã biết hằng năm, khi các loạt pháo hồng liên hồi nổ, người con Phật bắt đầu lên chùa lễ Phật đầu năm. Giờ phút ấy, trước Điện Phật khói nhang nghi ngút nhưng chúng ta không thể không bắt gặp tượng Đức Phật Di Lặc với nụ cười tươi thắm trên môi. Chúng ta cũng được biết ngày mồng một Tết là ngày đản sanh của Ngài. Về hình tượng Đức Di Lặc thường được hàng đệ tử thờ qua ba hình tượng:
- Tượng Ngài ngồi một mình, áo hở ngực, bụng phệ.
- Tượng Ngài ngồi như trên, nhưng chung quanh Ngài có sáu em bé tượng trưng cho Lục tặc.
- Tượng Ngài đứng, tay vác bị lớn, tượng này được gọi là Bố Đại Hòa Thượng, đó là hoá thân của Ngài ở Trung Hoa.
Di Lặc, tiếng Phạn là Maitrya, theo nghĩa dịch là Từ Thị. Di Lặc là họ, còn chính tên là A Dật Đa, người Trung Hoa dịch là Vô Năng Thắng. Ngài thuộc dòng dõi Bà La Môn, người Nam Thiên Trúc, Ấn Độ. Theo kinh Di Lặc thì Đức Phật Thích Ca thọ ký Ngài Di Lặc là vị Phật tương lai sau Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Nghĩa là trong tương lai Ngài sẽ giáng trần, đi tu và thành đạo ở cõi Ta Bà. Pháp hội thuyết pháp để giáo hóa chúng sanh của Ngài gọi là Hội Long Hoa. Cho nên khi lễ Ngài chúng ta thường xưng là:
- Nam Mô Long Hoa Giáo Chủ Di Lặc Tôn Phật
Hay:
- Nam Mô Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật.
Ngày đầu của một năm thật quan trọng. Tất cả mọi việc làm, cử chỉ phải thật nhẹ nhàng, thận trọng. Từng cách ăn, tiếng nói phải vui vẻ, hòa nhã. Tập quán đó để nói lên lòng ao ước một năm an vui, cát tường. Trong bối cảnh của ngày Xuân như thế, Đức Phật Di Lặc đến với chúng ta nụ cười vui tươi thì thật đầy ý nghĩa.
Như có lần chúng tôi nói nụ cười của thế tục:
- Bao nhiều giọng cười, là bấy nhiêu tâm trạng.
Tuy nhiên nụ cười của Đức Di Lặc không giống như những nụ cười của nhân thế, mà trái lại là bài học quý báu về đức hỷ, xả trong đạo Phật. Quả thật như vậy, có hỷ xả chúng ta mới nở nụ cười vui tươi chân thật, hạnh phúc. Có hạnh phúc thì cuộc sống mới có ý nghĩa và thật đáng sống. Bởi vì:
- Hỷ tức là vui theo việc làm tốt của người, danh từ Phật học gọi là: Tùy hỷ công đức.
Thông thường chúng ta hay có chứng bệnh trầm kha là thấy ai hơn mình, đẹp hơn, giàu hơn, học giỏi hơn..., thì sinh tâm đố kỵ ghen ghét, không vui. Chính chứng bệnh này đã làm cho nụ cười đầu Xuân héo đi và thay vào đó khuôn mặt ủ rũ của chiều thu. Muốn chữa căn bệnh đó chúng ta phải luôn luôn tâm niệm: Người bạn học giỏi hơn, thì chúng ta mong có thêm hai, ba, bốn,... bạn học giỏi hơn ta. Như thế thì trình độ dân trí sẽ cao và cuộc sống cũng theo đó mà phát triển. Nếu ngược lại, nghĩa là chúng ta không vui theo, thì chúng ta không những tự hành hạ chúng ta, tự cô lập chúng ta mà vô tình chúng ta đã ngăn chận bước tiến của nhân loại, đó là một lỗi lầm thật to lớn. Nếu hiểu được như thế thì nụ cười tự nhiên vui tươi nở trên môi của chúng ta và như thế chính là mùa Xuân rồi đó. Không cần phải năm hết Tết đến mới gọi là ngày Xuân.
Xả tức là bỏ, bỏ tất cả những điều phiền muộn do người tạo ra cho chúng ta. Nếu chúng ta không xả được những điều phiền muộn ấy thì cũng như chúng ta không tiêu hóa được cặn bã của thực phẩm trong cơ thể. Vì không xả được những phiền muộn, do đó chúng ta chỉ cứ than thân trách phận. Suy cho cùng, sở dĩ chúng ta ôm ấp những điều phiền não đó là vì chúng ta từ vô thủy kiếp đến nay cứ chấp có cái Ta đáng yêu, cái Ta chân thật, thường tồn ... cho nên nếu ai đụng đến, nói xấu..., thì chúng ta sinh ra buồn rồi ôm mối hận. Hình ảnh Đức Di Lặc với 6 em bé Lục tặc cho thấy rằng, muốn chiến thắng ngoại cảnh, nhứt là nghịch cảnh, chúng ta phải thực hành pháp quán:
- Chư pháp vô ngã.
Nghĩa là:
- Tất cả các pháp đều không có bản ngã chân thật.
Khi quán được các pháp đều vô ngã, thì chúng ta thấy không có ai gây ra hành động và cũng không có ai thọ lãnh hành động đó cả. Vì thế mà ngay cả bản thân của hành động đó cũng chỉ là hư ảo. Trong kinh Pháp Cú, Phật dạy:
- Người kia lăng mạ tôi, đánh đập tôi, phá hoại tôi và cướp đoạt của tôi. Ai còn ôm ấp tâm niệm ấy thì sự oán giận không thể nào dứt hết.
Oán giận không dứt hết thì ngay đến cành mai trong ngày Xuân cũng úa tàn chứ đừng nói gì đến nụ cười trên môi. Chính nhờ nụ cười hỷ xả này mà người phương Tây đã tặng Đức Di Lặc qua hình ảnh Bố Đại Hòa Thượng một từ ngữ khiêm tốn, giản dị:
- Người Trung Hoa hạnh phúc.
Một cách rộng rãi hơn, không phải chỉ có cuộc sống trong đạo, mà ngay ngoài đời, nụ cười giữ một vị trí rất quan trọng, cho nên ông Fletcher đã nói:
- Nụ cười bồi dưỡng kẻ mệt nhọc, là hình ảnh bình minh cho kẻ ngã lòng, là nắng Xuân cho kẻ buồn rầu, và là liều thuốc mầu nhiệm nhất của tạo hóa để chữa lo âu cho những chúng sanh đang đau khổ.
C- Nụ Cười Di Lặc Xóa Tan Sầu Muộn
Đây là một chứng minh của khoa học cho chúng ta thấy tại sao, khi nào con người có khả năng tự nhiên là đạt đến trạng thái thanh thản, siêu thoát. Biểu tượng đẹp nhất, là nụ cười trên gương mặt đức Phật Di Lặc, đó là nụ cười xua hết phiền muộn và đem đến sự an lành.
Theo ngành y học cho chúng ta biết rằng, phần nằm sâu nhất và ở trung tâm của não là vùng cảm xúc. Đó là cấu trúc đầu tiên của não trong quá trình tiến hóa, hình thành sớm nhất, cho nên còn gọi là não cũ, và có ở mọi loài động vật có vú. Ông Paul Broca, nhà thần kinh học có uy tín người Pháp thế kỷ 19 đã mô tả và gọi tên là vùng não limbic. Qua hàng triệu năm tiến hóa, vùng não limbic đã hình thành một lớp vỏ bao quanh nên gọi là vùng não mới, được xem là phần phát triển nhất của não, là trung tâm của ngôn ngữ và tư duy.
Về mặt cấu trúc, vùng não cảm xúc đơn giản hơn nhiều so với phần vỏ não mới, nhưng lại có những phản ứng thiết yếu nhạy bén và thích ứng hơn để giúp con người tồn tại. Trong thực tế, vùng não cảm xúc, tức là vùng não cũ thường hoạt động độc lập với vỏ não mới. Do vậy mà ngôn ngữ và ý thức chỉ có một ảnh hưởng hạn chế đến nó. Vùng não này giống như một trung tâm chỉ huy, thường xuyên nhận thông tin từ khắp mọi nơi trên cơ thể, và đưa ra những đáp ứng thích hợp để tạo nên sự cân bằng về tâm lý. Phần lớn hoạt động sinh lý của cơ thể như: Hô hấp, nhịp tim, huyết áp, cảm giác thèm ăn, buồn ngủ, ham muốn tình dục, bài tiết hóc môn, hệ tiêu hóa và cả hệ miễn dịch đều chịu sự chi phối của vùng não limbic.
Nhà bác học Pháp Claude Bernard, người khai sinh môn sinh lý học hiện đại thế kỷ 19, đã gọi vai trò giữ cân bằng sự sống của vùng não cảm xúc tức là não cũ bằng thuật ngữ:
- Sự cân bằng thể dịch.
Theo quan điểm này, mọi cảm xúc của chúng ta chỉ là hệ quả của những phản ứng sinh lý thường xuyên diễn ra trong cơ thể theo mệnh lệnh của môi trường bên trong và bên ngoài. Vì thế, não cảm xúc có mối liên hệ gắn bó với cơ thể chặt chẽ hơn là vùng não nhận thức. Từ quan điểm nầy, nụ cười chân thành và sảng khoái là một cách để chúng ta khỏe mạnh và sống lâu. Cười chanh chua khế chát, khó chịu là kết quả của sự tàn tạ khổ đau.
Như vậy việc thông tin từ thế giới bên ngoài đến với vùng não cảm xúc và vùng não nhận thức gần như đồng thời. Hai vùng não này hoặc là hợp tác, hoặc tranh chấp nhau để kiểm soát ý nghĩ, cảm xúc và hành vi ứng xử của chúng ta. Kết quả của tác động hợp tác hay tranh chấp sẽ quyết định phần cảm xúc, hoặc mối quan hệ với thế giới bên ngoài và mối quan hệ với mọi người. Sự tranh chấp ở nhiều hình thái và mức độ gây ra cảm giác bất ổn cũng khác nhau. Ngược lại, khi hai vùng não hợp tác và bổ sung cho nhau thì gây ra nhiều cảm giác tích cực, đó chính là:
- Não cảm xúc tạo ra sự ham sống, yêu đời, tin tưởng. Não nhận thức thúc đẩy đi sâu hơn nữa vào thế giới của hiểu biết.
Như vậy, trạng thái thoải mái ấy là sự hài hòa hoàn toàn giữa não cảm xúc và não nhận thức, tức là sự hài hòa giữa não mới và não cũ. Và nụ cười là dấu hiệu sinh lý rất đơn giản thể hiện trọn vẹn sự hài hòa của hai vùng não, đã được Darwin nghiên cứu sâu về bản chất sinh học từ hơn một thế kỷ trước.
Do vậy, một nụ cười gượng gạo sẽ chỉ vận dụng đến các cơ má, ở mặt để làm chuyển động cặp môi và lộ hàm răng. Trái lại, nụ cười chân chính sẽ huy động không chỉ các cơ má mà cả những cơ chung quanh mắt cũng được kích thích sinh động. Những cơ này không thể co theo ý muốn, nghĩa là không do vỏ não hay vùng não nhận thức; nó chỉ theo sự chỉ huy của vùng não limbic. Chính vì thế, sự co lại của các cơ quanh mắt là một dấu hiệu chân thực của sự vui vẻ, thanh thản mà không phải kiểu cười nào cũng có, cho nên người ta thường gọi là:
- Cười híp mắt.
Một nụ cười rạng rỡ, thật sự vui vẻ từ trong lòng sẽ làm người ta cảm nhận được bằng trực giác sự hài hòa giữa ý nghĩ và tâm trạng, giữa nhận thức và cảm xúc, như nụ cười của đức Phật Di Lặc đó chính là nụ cười sự hỷ xả. Do vậy, tìm sự hòa hợp giữa vùng não cảm xúc và nhận thức là một cách giải tỏa những áp lực nặng nề, buồn phiền đau khổ. Ngày nay, về ngành y khoa thay đổi cách chữa trị, không những chỉ là thay đổi thuốc men, cách luyện tập và chế độ dinh dưỡng mà còn phải thay đổi cả hoàn cảnh tạo ra những sức ép khiến cho chúng ta buồn phiền, và làm cho con người chúng ta biết kiểm soát tinh thần, luôn bình tĩnh, thanh thản. Y học phương Tây cũng đã bắt đầu thừa nhận rằng có một trạng thái tinh thần khỏe mạnh và biết thư giãn là những yếu tố quan trọng để giữ được sức khỏe lâu dài.
Có nhiều bằng chứng cho thấy, trạng thái stress trước tiên làm suy yếu cơ thể rồi mở đường cho các bệnh nghiêm trọng phát triển. Người ta đã phỏng vấn người bệnh ở bệnh viện, hầu hết đã trải qua hoàn cảnh gây stress trong những năm trước, ví dụ như người thân bị chết hoặc có vấn đề trong quan hệ với đồng nghiệp. Phải chịu đựng tình trạng stress kéo dài có lẽ là hoàn cảnh gây nhiều nguy hại nhất. Hệ thống phòng vệ của cơ chế bị yếu đi khi con người sống trong trạng thái stress.
Các nhà khoa học Mỹ đã nhận thấy, những cặp vợ chồng luôn hục hặc, bất đồng với nhau sẽ có hệ thống miễn dịch suy yếu. Một đơn vị nghiên cứu về cảm cúm ở Mỹ cũng nhận xét, stress thực sự làm tăng xác suất nhiễm virus, cho nên những ai có cường độ stress cao dễ bị cảm cúm hơn người bình thường, và cũng lâu khỏi hơn.
Đã có bằng chứng về mối liên quan giữa não và hệ thống miễn dịch, điều này đã giải thích vì sao trạng thái tinh thần có thể ảnh hưởng đến hệ thống miễn dịch. Ở những người đang gặp chuyện buồn phiền, đau khổ, hồng huyết cầu vận chuyển ít ôxy hơn, và tốc độ phát triển của bạch cầu cũng chậm hơn. Do vậy cảm xúc cần được nuôi dưỡng và phát triển ở mọi lứa tuổi. Không bao giờ nên coi là quá muộn để học cách kiểm soát cảm xúc bằng thư giãn, thiền, yoga và cách quan hệ với mọi người xung quanh. Đó là cách tốt nhất để chống stress và phát triển sức sống tiềm ẩn trong mỗi con người.
Nói tóm lại, dù cho nụ cười của thế gian, hay nụ cười nào đi nữa cũng đều phát xuất từ trong tâm tư mà thuật ngữ y khoa thường gọi từ trong bộ phận của não cũ và não mới. Nụ cười là dấu hiệu sinh lý rất đơn giản thể hiện sự hài hòa của hai vùng não. Với cách cười không tự nhiên như:
- Cười nhạt,
- Cười ruồi,
- Cười nịnh,
- Cười gằn...
Ngược lại, trạng thái cười thoải mái là sự hài hòa hoàn toàn giữa não cảm xúc và não nhận thức, tức là sự hài hòa giữa não mới và não cũ. Muốn có được trạng thái nầy chúng ta phải biết di dưỡng tâm hồn, có nghĩa là chúng ta phải biết hướng đời mình về đường chân nẻo giác. Do vậy, ngày mồng một Tết chúng ta về Chùa lễ Phật dâng hương đầu năm là ngày mà chúng ta hoạch định chương trình cho một năm tới. Lễ Vía Phật Di Lặc trùng với ngày đầu tiên của một chương trình sống 365 ngày là để nhắc nhở chúng ta phải thực hành đức hỷ xả để hướng đến một đời sống an vui, hạnh phúc. Tương lai, chắc chắn chúng ta sẽ được gặp Phật Di Lặc trong Hội Long Hoa. Đó cũng là mùa Xuân mà Đức Phật đã tặng chúng ta trong ngày Xuân, ngày Xuân của bất sanh, bất diệt.

 

--o0o--