TẬP SAN DƯỢC SƯ

Nhịp Cầu Thông Cảm
Trúc Giao
--o0o--

 

Trong cuộc sống của xã hội ngày xưa, hay hiện nay cũng vậy. Và cho dù là ở xã hội nào, hoặc thời đại nào cũng vậy, con người đều luôn luôn nương tựa vào nhau để sống hoặc phát triển điều kiện nhu cầu của xã hội đến mức độ tối cao, đó là điều mà mọi người, mà nhất là trên phương diện ngoại giao ai cũng nghĩ như vậy. Muốn tạo sự quan hệ tốt đẹp giữa con người và con người, giữa cộng đồng nầy và cộng đồng khác, giữa xã hội nầy và xã hội khác, tất cả mọi người chúng ta đều phải xử dụng đến yếu tố là tạo nên một nhịp cầu thông cảm. Có một nhịp cầu thông cảm, con người mới cảm thấy có sự quan hệ mật thiết và từ đó không còn cảm thấy cô đơn riêng lẻ nữa.
Lẽ tất nhiên, mọi người ai cũng có lúc cảm thấy mình lẻ loi, nhưng khi chúng ta biết tạo nhịp cầu thông cảm, chúng ta sẽ không còn đơn lẻ nữa. Điều đó nó đòi hỏi chúng ta có một cái nhìn tích cực, nghĩa là chúng ta phải nhìn vào bất cứ ai, và từ mọi khía cạnh tất cả đều tích cực. Lẽ tất nhiên, chúng ta phải cố gắng tìm kiếm những khía cạnh tích cực của những nguời chung quanh. Cách nhìn tích cực nầy sẽ tạo ngay một cảm giác đồng cảm, đồng vọng, như thế từ đó sẽ tạo thành một loại liên hệ tốt đẹp mà người xưa có câu là:
- Ðồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu.
Dịch thoát nghĩa là:
- Cùng chung một tiếng nói, cùng chung một ý chí thì không có việc gì mà không thành tựu
Hay:
- Thiên địa hòa nhi vũ trạch gián.
Nghĩa là:
- Trời đất có hòa thuận thì sẽ có mưa.
Như vậy, nếu giữa con người chúng ta, ai cũng có một nhịp cầu thông cảm thì vấn đề gặp gở, tiếp xúc nhau, chúng ta sẽ không có, hoặc ít có sự e sợ, ít sợ hãi hơn. Thay vì đến với nhau bằng sự e dè sợ hải, thì với nhịp cầu thông cảm, những e dè sợ hải đó sẽ được thay thế bằng tâm tư cởi mở hài hoà.
Nhưng trong những giây phút ban đầu mới gặp nhau, làm sao để chúng ta có thể tạo nhịp cầu thông cảm và có khả năng để cảm thấy thoải mái với người khác, mà không có sự sợ hãi và e sợ khi chúng ta bị người kia không thích hay phán xét về con người của chúng ta?
Vấn đề mấu chốt, và khá quan trọng để chúng ta thực hiện nhịp cầu thông cảm đó là niềm tin. Niềm tin là căn bản của chúng ta, trước tiên là chúng ta cần phải hiểu sự ích lợi của từ bi. Đó là yếu tố chính. Một khi chúng ta chấp nhận sự thật là từ bi không phải là một thứ ngây ngô như trẻ con hay tình cảm ủy mỵ. Một khi mà chúng ta hiểu từ bi là yếu tố thực sự đáng giá, và hiểu giá trị sâu xa của nó, thì chúng ta phát triển ngay sự lôi cuốn con người hướng về nó, để cho mọi người có thiện ý và trau dồi nó.
Và một khi chúng ta kích thích tư tưởng từ bi trong tâm, một khi tư tưởng đó trở thành tích cực, thì thái độ của chúng ta đối với người khác tự động sẽ thay đổi. Thay đổi từ một thái độ thù nghịch trở thành thân thiện ngay, cho nên nếu chúng ta gần gũi người khác với tư tưởng từ bi, sự sợ hãi tự động giảm thiểu, và chúng ta sẽ cởi mở với người khác. Sự cởi mở sẽ tạo một bầu không khí tích cực và thân hữu. Bằng thái độ ấy, chúng ta có thể tiến tới mối quan hệ mà chính chúng ta là người đầu tiên tạo ra khả năng để nhận sự cảm tình, hay sự đáp ứng tích cực của người khác. Và với thái độ ấy, cho dù người ta không thân thiện với chúng ta, hoặc chúng ta không được đáp ứng một cách tích cực, thì ít nhất chúng ta cũng đã gần gũi người với cảm giác cởi mở làm cho chúng ta linh hoạt và tự do thay đổi cách tiếp xúc cần thiết. Loại cởi mở ấy ít nhất cho chúng ta khả năng có cuộc đối thoại đầy ý nghĩa với họ. Nhưng khi không có thái độ từ bi, nếu chúng ta cảm thấy như mặc cảm, tức tối hay lãnh đạm, thì dù người thân nhất đến với chúng ta, chúng ta vẫn cảm thấy không thoải mái.
Trong nhiều trường hợp, chúng ta có khuynh hướng mong người khác đáp họ một cách tích cực trước, hơn là tự chính chúng ta chủ động tạo ra khả năng đó. Chúng ta là phật tử, có học và thực hành giáo lý từ bi của đức Phật, nếu những ai có nghĩ như vậy là sai, vì nó sẽ dẫn chúng ta đến tình trạng quan hệ khó khăn và sẽ trở thành hàng rào cản trở làm tăng thêm cảm giác lẻ loi và cô đơn. Vậy, nếu chúng ta muốn khắc phục cảm giác lẻ loi và cô đơn ấy, chúng ta phải nghĩ rằng thái độ tiềm ẩn của chúng ta có thể tạo ra sự khác biệt to lớn. Thay vì chúng ta chờ đợi người khác bộc lộ sự tích cực của họ thì chúng ta hãy bộc lộc của chúng ta trước, có như thế thì tức khắc chúng ta giải quyết được cái hàng rào ngăn cách giữa chúng ta và người khác ngay. Để giúp chúng ta là người dễ dàng bộc lộc tinh thần tích cực, sự gần gũi người khác với tư tưởng từ bi trong tâm là phương cách tốt nhất để chúng ta tạo thành nhịp cầu thông cảm.ÕCó thể nói rằng thực hiện được nhịp cầu thông cảm, chúng ta có thể xóa đi những cô đơn buồn tẻ, ít nhất trong phạm vị giữa con người và con người.
Quả thật như vậy, trong hơn hai mươi năm qua, các nhà tâm lý học đã bắt đầu nghiên cứu về sự cô đơn và thực hiện nhiều khảo sát và nghiên cứu về đề tài này. Một trong những khám phá nổi bật về những nghiên cứu này, là hầu như tất cả mọi người đều cho biết họ đã kinh nghiệm qua sự cô đơn, hiện thời hoặc trong quá khứ.
Trong một cuộc thăm dò rộng rãi, một phần tư những người trưởng thành tại Hoa Kỳ cho biết, họ cảm thấy hết sức cô đơn ít nhất một lần trong hai tuần. Mặc dù, chúng ta thường nghĩ rằng cô đơn kéo dài là mối ưu phiền đặc biệt lan rộng nơi người già, lẻ loi trong các khu nhà trống trải hay ở khu sau của viện dưỡng lão, nhưng công cuộc nghiên cứu cho thấy những thiếu niên và thanh niên cũng cho biết họ cũng cô đơn như người già.
Vì mức độ cô đơn lan tràn, những người điều tra nghiên cứu bắt đầu xem xét những thay đổi phức tạp góp phần gây ra cô đơn. Chẳng hạn, họ đã tìm ra những người cô đơn thường có những vấn đề mặc cảm, gặp khó khăn trong khi giao tiếp với người khác, ít chịu lắng nghe, và thiếu khéo léo trong việc giao tế xã hội như chọn lựa cách cư xử hằng ngày, biết khi nào gật đầu đáp lại thích hợp, hay giữ im lặng. Sự nghiên cứu này đề xuất một phương pháp khắc phục cô đơn là tác động vào cung cách giao tế xã hội. Tuy nhiên phương pháp của Đức Phật dạy dường như là tránh tác động vào cung cách giao tế xã hội hay cách ứng xử đến từ bên ngoài, mà phương pháp đức Phật dạy là phương pháp đi thẳng vào tâm nhận thức giá trị của từ bi mà chúng ta đã và đang trau dồi nó.
Phương cách nầy có nhiều người sẽ ngạc nhiên, tuy nhiên theo chư tôn đức quả quyết khi mà chúng ta thực tập và đã có được nhịp cầu thông cảm thì chắc chắn chúng ta không bao giờ cô đơn.
Đây là những bằng chứng cụ thể chứng minh cho lời hướng dẫn của Đức Phật, mà qua đó chúng ta cứ nhìn và chứng kiến những cách hành xử của hàng đệ tử của đức Phật với người lạ. Cách hành xử nầy cho dù là thân hay không thân bao giờ cũng tích cực không thay đổi. Có được như vậy, rõ ràng không phải là sự ngẫu nhiên hay chỉ là kết quả của một cá tính thân thiện tự nhiên, mà qua đó chúng ta phải biết rằng chúng ta có được những cách hành xử như vậy, có nghĩa là chúng ta đã bỏ ra nhiều thời gian suy tư về tầm quan trọng của từ bi, thận trọng thực hành nó, dùng nó để làm phong phú cho cuộc sống và mềm dẻo vấn đề trong khi giao tiếp hàng ngày, làm cho mảnh đất tâm của chúng ta trở nên phì nhiêu và sẵn sàng tiếp nhận những tương tác tích cực với người khác. Đây là một phương pháp thực tế có thể được sử dụng để xoa dịu cho bất cứ ai đau khổ vì cô đơn. Để xóa bỏ ranh giới giữa chúng ta và người, trước và trên hết là chúng ta phải biết ghi nhận:
a- Sự Hổ Tương Tác Dụng
Trong tất cả chúng sanh, ai cũng có hạt giống toàn thiện, nhưng còn đang ngủ ngầm trong con người chúng ta, do vậy chúng ta phải sớm ý thức và cần phải đánh thức dậy. Do vậy theo tinh thần và tín tâm của tín đồ Phật Giáo, thì vấn đề tu tạo công đức được mô tả như một dấu ấn tích cực về tâm của con người, hay sự tiệm tiến tinh thần toàn thiện xuất hiện do những hành động tích cực, mà qua đó Phước Điền Công Đức là nguồn, hay nền tảng mà từ đó chúng ta mới có thể tích lũy công đức. Theo lý thuyết Phật Giáo, chính kho công đức của một người quyết định hoàn cảnh tốt đẹp cho những tái sanh của một người đi trong tương lai. Nói về công đức, có hai loại phước điền công đức:
- Phước Điền Công Đức của các vị Phật,
Đây là một phương pháp tích lũy công đức liên quan đến việc tạo ra sự kính trọng, đức tin, và lòng tin vào Chư Phật, những bậc Giác Ngộ.
- Và Phước Điền Công Đức của chúng sanh.
Đây là phương pháp có liên quan đến việc tu tập như lòng tốt, rộng lượng, khoan dung, và vân vân.. và có ý thức kiềm chế các hành động tiêu cực như sát sinh, trộm cắp, và nói dối... Tạo dựng phương pháp thứ hai này đòi hỏi sự tác động qua lại với người khác, hơn là tác động qua lại với Chư Phật. Trên cơ sở đó chúng ta phải biết rằng người khác sẽ là đối tượng và cần sự giúp đỡ chúng ta rất nhiều để tích lũy công đức.
Đến với những người khác, chúng ta phải coi đó là phước điền công đức, đây là quan niệm của người học đạo là một đặc tính đẹp trữ tình, và như thế chính nó làm phong phú sự tu học của chúng ta. Lập luận trong sáng của người học Phật và sự quả quyết đằng sau những lời nói của đức Phật hợp lại thành sức mạnh đặc biệt và ảnh hưởng đến sự sinh hoạt của con người. Do các cuộc hướng dẫn của chư tôn đức ngày nay có người đã ở giai đoạn hiểu biết sơ đẳng về tầm quan trọng sâu xa của đức tánh từ bi, tuy vẫn còn bị ảnh hưởng nặng bởi những năm dài trong tiến trình khoa học duy lý, làm cho một số người coi bất cứ cuộc nói chuyện gì về lòng tốt hay từ bi chỉ là chút đa cảm vì ý thích của mỗi cá nhân riêng tư, chớ không có lợi gì cho đại chúng.
Nhưng dầu sao đi nữa, tất cả mọi sự, mọi vật, nếu chúng ta điều tra nghiên cứu kỹ lưỡng, chúng ta sẽ thấy tất cả những thứ đó đều lệ thuộc vào người khác. Chẳng hạn như muốn giữ sức khỏe, chúng ta dùng thuốc men do người khác làm, và chăm sóc sức khỏe do người khác lo liệu. Quả thật như vậy, nếu chúng ta xem xét tất cả những tiện nghi chúng ta đang sử dụng để hưởng thụ cuộc sống chúng ta sẽ thấy hầu như không có đồ vật nào không liên hệ đến người khác. Và nếu chúng ta suy nghĩ cẩn thận, chúng ta sẽ thấy tất cả những hàng hóa ấy có được là do cố gắng của nhiều người hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp. Nhiều người đã tham gia đến để làm những thứ đó thành tựu. Không cần phải nói, khi chúng ta đề cập về bạn tốt, là một nhân tố cần thiết khác cho cuộc đời chúng ta có hạnh phúc.
Chúng ta đang nói đến sự tác động qua lại với những chúng sanh khác, những con người khác, cho nên chúng ta có thể thấy rằng tất cả những nhân tố đó gắn chặt với những nỗ lực và hợp tác của những ngườiÕkhác. Những người khác là không thể thiếu, cho nên dù thực tế là tiến trình giao tiếp với người khác có thể có gian khổ, cãi cọ và khó chịu, nhưng chúng ta vẫn phải cố duy trì một thái độ thân thiện và niềm nở, để lối sống có đủ tác động qua lại với người khác, và từ đó chúng ta mới an hưởng một cuộc đời hạnh phúc.
Khi nói đến vấn đề nầy, có người cảm thấy một sự phản kháng theo bản năng. Mặc dầu họ thường trân trọng và vui sướng với bạn bè và gia đình, nhưng họ vẫn coi mình là một người độc lập, cho nên họ hảnh diện về đức tính ấy. Vì thế có người đã ngấm ngầm có khuynh hướng coi thường những những yếu tố phụ thuộc quá mức, vì họ cho rằng đó là một dấu hiệu yếu kém.
Tuy nhiên nếu chúng ta quán chiếu thì chúng ta sẽ thấy có nhiều người đã tham gia vào việc làm ra tất cả những của cải của chúng ta. Quả thật, như chúng ta quán chiếu một chiếc áo mà chúng ta đang mặc. Lúc đó chúng ta sẽ thấy:
- Hình ảnh của người dân trồng bông. Kế tiếp người bán máy cày cho người nông dân cày ruộng. Rồi vì việc đó hàng trăm hay thậm chí hàng ngàn người tham gia làm máy cày, gồm có người khai quặng để chế tạo các bộ phận bằng kim loại của xe máy cày, và tất cả những người thiết kế máy cày. Rồi đương nhiên, người làm bông, người dệt, người cắt, người nhuộm, người may. Những người vận chuyển và tài xế xe tải giao áo đến tiệm, và người bán hàng bán cho chúng ta ...
Do đó mà chúng ta có thể nói hầu như mọi khía cạnh trong đời sống chúng ta xẩy ra đều là do nỗ lực của nhiều người. Từ đó có thể dẫn đến kết luận: Sự tự lực quý giá của chúng ta hoàn toàn là một ảo tưởng, và cũng là một ý nghĩ kỳ quặc.
Một khi chúng ta có sự nhận thức này, tức khắc chúng ta sẽ bừng sáng và nơi đó chúng ta sẽ bị chinh phục bởi ý nghĩa sâu xa của sự liên kết và tùy thuộc lẫn nhau trong tất cả chúng sinh.
b- Tạo Sự Quan Hệ
Chúng ta cho rằng cần phải vì người khác là nghịch lý, cho nên cùng lúc tâm tư chúng ta bị thu hút vào sự tính độc lập cho chính mình cao độ, bởi lẽ chúng ta ai cũng mong mỏi có sự riêng tư về của cải, kể cả tình cảm và mối liên hệ với người yêu đặc biệt nào đó. Chúng ta tập trung tất cả năng lực vào việc tìm kiếm một người, với hy vọng có thể chữa cho chúng ta khỏi cô đơn. Tuy mối liên hệ này rất khó để đạt được thậm chí chỉ một người, nhưng theo tinh thần Phật Giáo muốn tránh khỏi sự cô đơn, trước và trên hết là chúng ta phải tạo khả năng từ bỏ, tạo được khả năng từ bỏ sự riêng tư, và tạo sự quan hệ cho nhau là chúng ta đã tạo điều kiện và khả năng để giữ được sự thân mật với thật nhiều người mà chúng ta có thể. Bởi vì thực tế mục đích của người tu chúng ta là liên kết với mọi người.
Nhưng khi quan sát sự quan hệ với người khác, thực sự là có rất nhiều cách khác nhau để tạo sự quan hệ cho nhau, chẳng hạn:
- Có một loại quan hệ hết sức thông dụng ở Phương Tây, đó là quan hệ có đặc điểm là mức riêng tư sâu giữa hai người, một người đặc biệt để chia sẻ cảm nghĩ thầm kín nhất, nỗi sợ hãi và vân vân...
Người ta cảm thấy, nếu không có loại quan hệ ấy, họ sẽ thấy một điều gì thiếu thốn trong cuộc đời của họ. Thực ra, phép chữa bệnh bằng tâm lý thường tìm cách giúp đỡ người ta biết cách phát triển loại quan hệ riêng tư này, và loại riêng tư này có thể được nhìn nhận là tích cực. Nếu một người bị tước đoạt loại riêng tư ấy có thể dẫn đến những vấn đề rất khó khăn trong cuộc sống.
Tuy nhiên khi biết áp dụng đúng mức tinh thần từ bỏ của đạo Phật, chúng ta sẽ không bao giờ cảm thấy thiếu riêng tư.
c- Sự Quan Hệ Đại Đồng
Nếu chúng ta đã có tinh thần tạo nên sự quan hệ giữa chúng ta và người khác, thì đi xa hơn nừa chúng ta phải tập tinh thần sống với đại đoàn thể. Đây là đặc tính hầu hết tất cả những nhà nghiên cứu trong lãnh vực quan hệ con người đều đồng ý sự quan hệ đại đồng là trung tâm của cuộc sống. Nhà tâm lý học người Anh có nhiều ảnh hưởng đến quần chúng tên John Bowlby viết:
- Sự gắn quan hệ đại đồng với những người khác là trung tâm mà cuộc sống của một con người xoay quanh nó...
Từ sự gắn bó riêng tư này dễ tạo sự quan hệ đại đồng, người ta giành được sức mạnh và niềm vui cuộc sống, qua những gì người đó đóng góp, người đó mang lại sức mạnh và niềm vui cho người khác. Đó là những vấn đề mà khoa học hiện đại và trí tuệ đều công nhận như vậy.
Rõ ràng là sự quan hệ đại đồng có khả năng đẩy cả hạnh phúc về thể chất lẫn tâm lý. Nhìn vào sự lợi ích của sức khỏe trong sự quan hệ đại đồng, những nhà nghiên cứu y học thấy những người có tình bạn thân, người mà họ tìm đến để được xác quyết, đồng cảm, và thương yêu rất có khả năng vượt những thách thức về sức khỏe như đau tim, những ca giải phẫu nghiêm trọng, và ít bị những chứng bệnh như ung thư hay bị các bệnh về hô hấp.
Thí dụ:
- Trong một công cuộc nghiên cứu trên một ngàn bệnh nhân đau tim tại Trung Tâm Y Khoa Đại Học Duke thấy rằng, những người không có chồng hoặc vợ hay bạn tâm tình thân tín có khả năng tử vong gấp ba lần trong vòng năm năm khi chẩn đoán bị đau tim so với những người có vợ chồng hay bạn thân.
Một cuộc nghiên cứu khác, hàng ngàn người cư dân tại Quận Alameda, California, trong suốt thời kỳ chín năm cho thấy những người có hậu thuẫn xã hội và quan hệ đại đồng có tỷ lệ tử vong chung chung thấp hơn, và tỷ lệ bệnh ung thư cũng thấp hơn.
Một cuộc nghiên cứu hàng trăm người cao niên của Đại Học Y Khoa tại Nebraska cho thấy những người có sự quan hệ đại đồng có chức năng miễn dịch tốt hơn và mức độ cholesterol thấp hơn. Trong khoảng thời gian mấy năm vừa qua, đã có sáu cuộc điều tra nghiên cứu rộng rãi của một số các nhà nghiên cứu khác nhau, nhắm vào sự tương quan giữa sự riêng tư và sức khỏe. Sau khi phỏng vấn hàng ngàn người, tất cả những người điều tra nghiên cứu đều đi đến một kết luận chung:
- Quan hệ mật thiết thực tế làm tăng thêm sức khỏe.
Sự quan hệ đại đồng cũng quan trọng như việc duy trì tình trạng cảm xúc lành mạnh. Nhà phân tích tâm lý và triết học xã hội Erich Fomm cho rằng sự sợ hãi căn bản nhất của loài người là sự đe dọa bị tách khỏi những người khác. Ông tin rằng kinh nghiệm về tính riêng biệt, lần đầu vấp phải trong thời kỳ thơ ấu, là nguồn gốc của tất cả những lo âu trong đời sống con người. điều nầy đã được nhiều nhà tâm lý đồng ý, khi viện dẫn nhiều bằng chứng và nghiên cứu thực nghiệm hậu thuẫn cho khái niệm xa cách người chăm sóc, thường là mẹ hay cha trong nửa cuối năm đầu tiên của cuộc đời, không thể tránh khỏi tạo ra sợ hãi và buồn bã nơi đứa trẻ. Ông cảm thấy chia lìa và sự mất mát giữa cá nhân với cá nhân nằm ở chính nguồn gốc kinh nghiệm của con người về sợ hãi, buồn bã, và phiền muộn.
Vậy thì căn cứ vào tầm quan trọng sống còn của sự quan hệ đại đồng, là làm sao chúng ta có thể đạt được sự riêng tư trong đời sống hàng ngày. Điều nầy đơn giản thôi, là chúng ta phải bắt đầu bằng học tập để hiểu được sự quan hệ riêng tư là gì, tìm một định nghĩa và kiểu mẫu về sự quan hệ có thể thực hành được. Điều nầy xem ra các nhà tâm lý học, xã hội học có vẻ đồng ý quan điểm chung giữa những người nghiên cứu về tầm quan trọng của sự quan hệ đại đồng. Có lẽ nét nổi bật nhất, trong khi kiểm lại các nghiên cứu về sự quan hệ nầy là tình trạng định nghĩa và lý thuyết về sự riêng tư chính xác để thấy những sự khác biệt của nó.
Về sự quan hệ đại đồng, từ một cái nhìn của một nhà động vật học được đào tạo về hoạt động của các động vật, đó là tác giả Desmond Morris trong cuốn sách của ông có định nghĩa như thế nầy:
- Muốn được quan hệ đại đồng có nghĩa là gần gũi... Theo tôi, hành động trong sự quan hệ đại đồng xẩy ra khi hai cá nhân đi vào tiếp xúc thân thể.
Sau khi định nghĩa sự quan hệ đại đồng bằng sự tiếp xúc hoàn toàn thể chất, ông tiếp tục khảo sát vô số phương cách mà con người tiếp xúc thể chất với nhau, từ cái vỗ lưng mộc mạc cho đến cái ôm nồng nàn, ông thấy sự đụng chạm là phương tiện để chúng ta an ủi lẫn nhau,  và nhất là được an ủi qua những cái ôm chặt hay vỗ tay. Khi chúng ta không dùng được những cách đó, có những phương cách gián tiếp về sự tiếp xúc thể chất như cắt sửa móng tay. Ông cũng lý luận rằng, những sự tiếp xúc thể chất với những vật thể chung quanh chúng ta, từ điếu thuốc lá tới đồ trang sức, tới cái giường có đệm nước ... Những  hoạt động nầy thay thế cho sự riêng tư, nhưng cũng chính vì thế mà lại là nguyên nhân gián tiếp để dẫn đến những quan hệ đại đồng.Õ
Hầu hết những người điều tra nghiên cứu không định nghĩa cụ thể về sự quan hệ, nhưng đồng ý sự quan hệ đại đồng không chỉ là sự gần gũi vật chất. Sự quan hệ đại đồng chúng ta cũng có thể hiểu là riêng tư. Bởi vì nhìn vào cụm từ tiếng La Tinh đọc là: Intima. Có nghĩa là bên trong hay ở tận trong cùng, hầu như họ thường tán thành một định nghĩa rộng hơn, như một định nghĩa của Tiến Sĩ Dan MacAdams, tác giả của một số sách về đề tài riêng tư:
- Sự ham thích riêng tư là ham thích chia sẻ cái thầm kín nhất của mình với một người khác.
Chúng ta còn thấy những định nghĩa khác về Nghệ Thuật về Sự Riêng Tư, hay quan hệ đại đồng, họ định nghĩa sự riêng tư là kinh nghiệm về tính liên hệ. Sự am hiểu về riêng tư của họ bắt đầu với việc khảo sát kỹ lưỡng về tính liên hệ của chúng ta với người khác, tuy nhiên, họ không giới hạn quan niệm riêng tư vào quan hệ con người. Định nghĩa nầy khá rộng, thực ra, nó gồm cả sự quan hệ của chúng ta với các vật vô tri, cấy cối, tinh tú, và cả không gian ...Õ
Những khái niệm về trạng thái riêng tư, hoặc khái niệm lãng mạn về người đặc biệt mà chúng ta có mối quan hệ riêng tư say đắm là sản phẩm của thời gian và văn hóa của thời đại chúng ta. Nhưng mẫu quan hệ đại đồng kiểu này không được mọi người chấp nhận trong một số  những nền văn hóa. Chẳng hạn, người Nhật dường như dựa nhiều vào tình bằng hữu để có được sự quan hệ đại đồng, trong khi người Mỹ tìm sự quan hệ đại đồng trong những quan hệ lãng mạn với bạn trai, bạn gái, hay người hôn phối. Nhận thấy vấn đề này, một số các nhà nghiên cứu cho rằng, người Á Đông là những người ít khi nhắm vào cảm nghĩ cá nhân, thí dụ như say mê và quan tâm nhiều hơn đến các khía cạnh thực tiễn của sự gắn bó xã hội, hình như ít bị tổn thương trước sự vỡ mộng dẫn đến sự tan rã mối quan hệ.
Thêm vào những khác nhau giữa những nền văn hóa, khái niệm về sự quan hệ cũng thay đổi một cách đột ngột theo thời gian. Trước đây tại thuộc địa Mỹ, mức độ về sự quan hệ đại đồng về vật chất và quan hệ gần gũi thường lớn hơn bây giờ, khi gia đình và kể cả những người lạ cùng chia sẻ một khoảng không gian nhỏ, ngủ cùng trong một căn phòng, dùng một phòng chung để tắm, ăn và ngủ. Tuy nhiên mức giao tiếp thông thường giữa vợ chồng đúng là có nghi thức chuẩn mực như ngày nay, không khác biệt nhiều so với cách quen biết hay cách láng giềng nói chuyện với nhau trước đây. Chỉ ở thế kỷ sau đó thì có khác, trong khi tình yêu và hôn nhân trở nên lãng mạn cao độ, và sự tự bộc lộ sự quan hệ đại đồng được cho là chất liệu cho bất cứ sự liên kết tình yêu nào.
Con người có nhiều vẻ khác nhau lạ kỳ giữa trong đời sống, những sự thay đổi vô hạn về cách con người trải qua những kinh nghiệm cảm giác, gần gũi thân mật. Chỉ riêng hiểu biết này đã cho chúng ta cơ hội lớn trong sự thực tập. Có nghĩa là vào chính lúc này chúng ta đã luôn luôn có nguồn vui to lớn về sự quan hệ. Sự quan hệ đại đồng hoàn toàn ở quanh ta.
Ngày nay có quá nhiều người bị đè nặng bởi cảm thấy thiếu điều gì đó trong đời sống, quá đau khổ vì thiếu sự quan hệ với con người. Điều này đặc biệt đúng, khi trải qua những thời kỳ không thể tránh được trong cuộc sống, mà chúng ta lại không để tâm đến mối quan hệ mật thiết nào. Có một khái niệm phổ biến trong văn hóa chúng ta là sự quan hệ sâu sắc đã đạt được hiệu quả cao nhất trong bối cảnh hiện tại. Có những mối quan hệ lãng mạn, say đắm giữa chúng ta và người đặc biệt nào đó mà chúng ta dành nhiều thiện cảm hơn tất cả những người khác. Điều này có thể là một quan điểm giới hạn sâu xa, tách riêng giữa chúng ta khỏi những suối nguồn quan hệ đại đồng, và là nguyên nhân của nhiều thống khổ và bất hạnh khi người đặc biệt đó không ở đây. Nhưng trong phạm vi khả năng của chúng ta có những phương tiện để tránh điều này, chỉ cần chúng ta phải có can đảm mở rộng khái niệm quan hệ đại đồng gồm tất cả những hình thái khác chung quanh chúng ta trên cơ sở đối xử hằng ngày của chúng ta thì chúng ta sẽ hạnh phúc.
Nói tóm lại, bằng cách mở rộng định nghĩa về sự quan hệ, chúng ta tự bộc lộ để khám phá những cách thức mới và đủ vừa ý về sự quan hệ để tạo nhịp cầu cảm thông với người khác.
Nếu những điều mà chúng ta đã và đang tìm cầu trong đời sống là hạnh phúc, và sự quan hệ rộng mở là yếu tố quan trọng cho việc tạo thành một nhịp cầu thông cảm, một cuộc sống hạnh phúc hơn, thì rõ ràng là nó làm cho đời sống của chúng ta có ý nghĩa, và sự quan hệ bao gồm càng nhiều hình thái liên kết với người khác càng nhiều càng tốt. Do vậy mà sự quan hệ đại đồng của người học phật là căn cứ trên thiện chí, bộc lộ giữa mình với nhiều người khác, với gia đình, bè bạn và cả đến những người lạ. Sự hình thành và sự gắn bó chân thật sâu xa được căn cứ vào bản chất thông thường của con người, mà qua đó là tinh thần thực tập đạo từ bi của người Phật Tử là yếu tố nổi bậc nhất trong việc tạo nên nhịp cầu thông cảm.
--o0o--