TẬP SAN DƯỢC SƯ

Nhân Quả
Thanh Tâm
--o0o---
           
Nếu nói về con người và môi trường sống chung quanh thì chữ Nhân có nghĩa là nguyên nhân. Quả có nghĩa là thành quả. Nếu nói về thực vật thì Nhân là cái nhân mầm. Quả là cái hạt, cái trái do mầm sanh ra. Nhân là năng lực phát động. Quả là sự hình thành của năng lực phát động ấy. Nhân và Quả là hai trạng thái tiếp nối nhau, tương quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà có. Nếu không có Nhân thì không có Quả, nếu không có quả thì biết không có nhân. Vì để cho ngắn gọn nên gọi tắc là Nhân Quả. Nhân Quả theo quan điểm của Ðạo Phật nói cho đủ là nhân quả của ba đời, tức là một chuổi quan hệ nhân quả từ đời quá khứ sang đời hiện tại, và từ đời hiện tại cho đến vị lai.
Nhân quả đứng về mặt thời gian mà nói, tức nhân trước quả sau. Mọi việc trên đời không phải ngẩu nhiên mà có, thực ra đều có mối quan hệ nhân quả xa gần của nó. Như trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu, làm lành được hưởng phước, làm ác bị đau khổ, là đạo lý hiển nhiên trong cuộc đời.
Hiểu rằng mọi sự việc trên đời không có một cái gì gọi là ngẩu nhiên mà sinh ra, thì chúng ta mới thấy mọi sự vật trong vũ trụ nầy là sự tổ hợp của nhiều nhân duyên. Cho nên không có một nhân nào có thể tự tác thành quả được, nếu không có sự giúp đở của nhiều nhân khác sẽ không thành một cái gì cả. Như nói rằng hạt bắp sanh ra cây bắp là nói một cách giản dị cho dễ hiểu chứ thật ra hạt bắp nếu để một mình nó giữa khoảng trống không, thiếu không khí, thiếu ánh sáng, đất, nước, nhân công, thì tự một mình nó không thể sanh ra được gì cả.
            Cho nên, khi chúng ta nghe bất cứ ai tuyên bố rằng:
- Mọi vật do một nhân sanh ra, hay một nhân có thể sanh ra vạn vật...
Thì chúng ta biết chắc chắn rằng người ấy nói sai sự thật, là đi ngược lại định luật của vũ trụ thiên nhiên. Phải biết rằng trong vũ trụ, vạn vật không phải tuần hành biến dịch một cách tự nhiên, vô lý, mà tuần tự tuân theo một cái luật chung. Luật đó là luật nhân quả, hổ tương tác dụng lẫn nhau. Luật nầy không phải do một đấng nào, xã hội nào đặt ra, mà là một luật thiên nhiên âm thầm lặng lẽ nhưng đúng đắn, mạnh mẻ vô cùng. Ðịnh luật nầy chỉ cho chúng ta thấy trong nhân hiện tại đã hàm chứa cái quả vị lai, cũng chính trong cái quả hiện tại đã có cái hình bóng của nhân quá khứ. Ý nghĩa nầy có nghĩa là:
- Một sự vật mà chúng ta gọi là nhân, là khi nó chưa biến chuyển, để hình thành ra cái quả mà chúng ta mong muốn chờ đợi. Một sự vật mà ta gọi là quả, là khi nó đã biến chuyển hình thành ra trạng thái mà ta mong đợi ước muốn.
Sự biến chuyển từ nhân để thành quả chúng ta thấy bàn bạc khắp mọi nơi, mọi loài. Chẳng hạn như:
            a- Trong Loài Thực Vật:
            Ðược gọi hạt cam là nhân, là khi nó chưa biến chuyển, nhưng khi nó biến chuyển thì hạt cam đó nó sanh cây cam đó là quả. Và cây cam trở thành nhân, và theo thời gian mà lớn có nghĩa là nó biến chuyển, thì cây cam sẽ sanh ra trái cam đó là quả. Cũng vậy được gọi là hạt ớt là Nhân, là khi nó chưa biến chuyển, nhưng khi nó biến chuyển thì hạt ớt đó nó sanh cây ớt, thì đó là Quả. Và Cây ớt trở thành Nhân, và theo thời gian lớn lên có nghĩa là nó biến chuyển, thì cây ớt sẽ sanh ra trái ớt đó là Quả. Nói một cách tổng quát giống ngọt thì sanh trái ngọt, giống chua thì sanh trái chua, giống nào thì sanh trái ấy.
            b- Trong Các Loài Ðộng Vật.
            - Loài chim sanh ra trứng, nên chúng ta gọi trứng là nhân, đó là lúc chưa biến chuyển. Khi nó biến chuyển, thì trứng đó nở thành con là quả. Con chim trở lại làm nhân, và theo thời gian con chim lớn lại sanh ra sinh ra trứng là quả...
- Loài thú sanh ra con, con ấy là quả. Con thú lớn lên, trở lại làm nhân, nhân sanh ra con là quả.
c- Nơi Con Người
- Về phương diện Vật chất:
Thân tứ đại là do bẩm thụ khí huyết của cha mẹ, và do hoàn cảnh nuôi dưỡng. Vậy cha mẹ và hoàn cảnh là nhân, theo thời gian chuyển biến, người con trưởng thành là quả, và cứ nối tiếp nhau như thế mãi, nhân sanh ra quả, quả sanh ra nhân, không bao giờ chấm dứt.
            - Về Phương Diện Tinh Thần:
            Những tư tưởng và hành vi trong quá khứ, tạo cho ta những tánh tốt hay xấu trong nếp sống hiện tại. Tư tưởng và hành động quá khứ là nhân, tánh tình nếp sống và tinh thần trong hiện tại là quả. Tánh tình và nếp sống hiện tại trở thành nhân để tạo ra những tư tưởng và hành động trong tương lai là quả.
             Người đời vì không quan sát một cách kỷ lưỡng, tường tận nên không nhận thấy luật ấy. Do đó, họ đã hành động một cách bừa bãi, thiếu tinh thần trách nhiệm đối với bản thân mình và với người chung quanh. Và cũng vì thế mà họ đã đau khổ lặn hụp mãi trong biển mê mờ, tội lỗi. Trái lại, Ðức Phật là bậc đã hoàn toàn giác ngộ, đã phát huy ra được cái luật nhân quả đang chi phối, điều hành mọi sự mọi vật trong vũ trụ nầy, nên Ngài đã hành động một cách sáng suốt lợi lạc cho chính mình và chúng sanh.
            Vậy chúng ta là Phật Tử, chúng ta cần phải hiểu biết cái luật nhân quả mà Ðấng Từ Phụ đã phát huy đó như thế nào, để rồi hành động đúng theo như những điều Ngài đã làm, hầu đem lại hạnh phúc chân thật lâu bền cho mình và những người chung quanh. Do đó chúng ta cần nên biết cái định luật bất di bất dịch nầy để áp dụng trong đời sống của chúng ta. Ðể nhận rõ sự quan trọng về phần tinh thần là nguyên nhân, chúng ta nên đặc biệt chú ý đến những trường hợp thường xảy ra trong cuộc sống: Nhân Quả Về Phương Diện Tinh Thần
a-      Nhân Quả Và Hành Vi Không Tốt
Tham: Thấy tiền của người, nổi lòng tham lam sanh ra trộm cắp, hoặc giết hại người là Nhân, bị chủ đánh đập hoặc đâm chém, phải tàn tật, hay bị nhà chức trách bắt giam trong khám đường chịu những điều tra tấn, đau khổ là Quả.
- Sân: Người quá nóng giận, đánh đập vợ con, phá hoại nhà cửa, chém giết người không gớm tay là nhân, khi hết giận đau đớn nhìn thấy vợ con bệnh hoạn, nhà cửa tiêu tan, luật pháp trừng trị, phải chịu nhiều điều khổ cực là quả.
- Si Mê: Người say mê sắc dục ong bướm ngoài đường không còn biết sự hay sự dỡ, phải trái là nhân, làm cho gia đình lũng cũng, thân thể suy nhược, trí huệ u ám là quả
- Nghi ngờ: Suốt đời cứ nghi ngờ việc nầy đến việc kia, ai nói cũng không tin, ai làm gì cũng không theo, đó là nhân kết cuộc không làm nên được việc gì cả là quả.
- Kiêu Mạn: Tự cho mình là hơn cả, khinh bỉ mọi người chà đạp lên nhân phẩm người chung quanh, là nhân, bị nguời ghét bỏ xa lánh, sống một đời lẻ loi, cô độc là quả.
- Nghiện Rượu Chè: Chung nhau tiền bạc ăn nhậu cho ngỏa nguê là nhân, đến lúc say sưa chén bát ngổn ngan, ghế bàn nghiên ngã, nhiều khi gây ra chém giết nhau làm những điều tội lỗi phải bị phạt và tù tội là Quả.
            - Say Mê Cờ Bạc: Thấy tiền bạc của người muốn lấy về làm của riêng nên suốt tháng năm theo con bài lá bạc, là nhân, đến lúc của hết nhà tiêu, nợ nần vây kéo, thiếu trước hụt sau thâm quỷ thụt két là quả.
b- Nhân Quả Của Tư Tưởng Tốt Hành Vi Tốt.
Như trên chúng ta thấy, những tư tưởng hành vi xấu xa tạo ra cho con người những hậu quả đen tối nhục nhã, khổ đau như thế nào, thì những tư tưởng tốt và hành vi đẹp cũng tạo cho con người những hậu quả sáng lạn vinh quang như thế ấy. Chẳng hạn như:
- Người không có tánh tham lam bỏn xẻn, thì tất nhiên không bị của tiền trói buộc, tâm trí được thảnh thơi.
- Người không nóng giận, thì tất nhiên được sống trong cảnh hiền hoà, gia đình êm ấm.
- Người không si mê theo sắc dục, thì tất nhiên được gia đình kính nể, trí huệ sáng suốt thân thể tráng kiện,
- Người không hay ngờ vực có đức tin, thì tất nhiên hăng hái trong công việc, được người chung quanh tin cậy, dễ thành tựu trong đời.
- Người không ngạo mạn thì được bạn bè quý chuộng, niềm nở đón tiếp, tận tâm giúp đỡ  khi mình gặp tai biến.
- Người không rượu chè cờ bạc, thì không đến nỗi túng thiếu, bà con quen biết kính nể yêu vì..
Nói một cách tổng quát, về phương diện tinh thần cũng như vật chất, bất cứ một ai gieo thứ gì thì sẽ gặp thứ ấy. Mỗi vật vì thế đều có thể gọi là nhân hay quả được cả, bởi vì nếu đối với quá khứ, thì nó là quả, nhưng với tương lai thì nó là nhân. Nhân và quả tiếp nối nhau, đắp đổi nhau như những vòng trong sợi dây chuyền. Cứ như thế mà liên tục vận hành không thay đổi, nhưng đối với những người gây nghiệp xấu, hay tạo phước lành mà có báo ứng hay không, có Nhân Quả hay không tất cả đều tùy thuộc vào sự phát triển nhanh hay chậm từ Nhân đến Quả. Sự chuyển từ nhân đến quả, có khi nhanh khi chậm, chứ không phải bao giờ cũng diễn tiến trong thời gian đồng nhất. Có những nhân trong hiện tại sẽ gặt được kết quả ngay trong đời hiện tại nầy, gọi là Hiện Báo. Có những nhân trong hiện tại, và cho tới đời sau mới có kết quả, gọi là sinh báo. Có những nhân trong hiện tại, hai ba đời cho đến nhiều đời sau mới có kết quả, gọi là Hậu Báo. Ba hình thức nhân quả nầy, chúng ta có thể quán xét ngay trong đời sống hiện tại để thấu hiểu.
- Hiện Báo
Như chúng ta ăn ở đạo đức, gìn giữ giữ nhân cách sẽ được mọi người kính trọng có uy tín trong xã hội, chúng ta cố gắng học tập sẽ thành đạt, có địa vị tốt, cố gắng làm ăn sẽ được giàu có, đầy đủ. Ðó gọi là: Ở hiền gặp lành. Còn nếu mình ăn ở bất lương, lười biếng rượu chè bài bạc, sẽ tù tội, nghèo hèn đau khổ. Ðó là gieo gió gặt bão.
- Sinh Báo & Hậu Báo:
Sinh Báo và Hậu Báo đều là nhân quả liên quan giữa đời nầy và đời khác, chẳng qua thời gian dài ngắn hạn bất đồng mà thôi.
            Như vậy chúng ta thấy, có những nhân và quả xảy ra kế tiếp nhân liền nhau, nhân vừa khởi thì quả đã xuất hiện. Chẳng hạn như khi ta vừa đánh xuống một mặt trống là nhân, thì tiếng trống liền được phát hiện là quả. Hay khi hai luồng điện âm và dương vừa gặp, thì ánh sáng liền bừng lên. Có khi nhân đã gây rồi, nhưng phải đợi một thời gian quả mới hình thành, như từ khi gieo hạt giống, cho đến khi gặt lúa, cần phải có một thời gian ít nhất là bốn tháng.
            Có khi từ nhân đến quả cách nhau từng hai chục năm như đứa bé mới cắp sách đi học đến ngày thành tài, phải qua một thời gian ít nhất mười mấy hai mươi năm. Có khi cần đến một vài trăm năm, hay nhiều hơn nữa quả mới xuất hiện. Ðó cũng là lý do có những con người mới sanh ra đã có sự bất đồng về giàu nghèo, sang hèn, đẹp xấu, thông minh đần độn... Và đó cũng là lý do tại sao chúng ta lại sinh vào nhà nghèo để chịu cảnh thiếu thốn, mà không được sinh vào nhà giàu để hưởng cảnh an nhàn? Tại sao cha mẹ sanh ra lại xấu xí, tàn tật, mà không được xinh đẹp, bình thường như mọi người? Chỉ có đạo lý nhân quả ba đời mới giải đáp thoả đáng được điều nầy. Ðây chính là do chúng ta đời trước làm lành nhiều, hay làm ác nhiều mà có kết quả tốt xấu khác nhau trong hiện đời. Vì vậy, người biết được lẽ nầy không oán trời, không trách người, hay tự dằn vật với những thiệt thòi bẩm sinh của mình, mà cố gắng sống an lạc, có ý nghĩa để từ từ chuyển hoá, thoát ra cảnh khổ hiện tại. Cho nên trong thực tế, có những người xuất thân rất hàn vi, xấu xí, tàn tật... song nhờ thay vì ngồi đó tự dằn vật hay trách móc cha mẹ hoàn cảnh, thì họ lại cố gắng vươn lên, cuối cùng thành đạt trở nên giàu có, danh tiếng được mọi người kính trọng.
            Trong cuộc sống nhiều khi chúng ta gặp phải những chuyện rủi ro, hay may mắn bất ngờ. Những cái mà chúng ta cho rằng tự nhiên .... bổng dưng, khi không... này thực ra tất cả mà chúng ta nghĩ là tự nhiên, bổng dưng, khi không ... đều có nghiệp nhân sâu xa trong đời quá khứ của chúng ta chiêu cảm ra. Ðây là nói lên vấn đề sinh báo và hậu báo của Lý Nhân Quả. Vì lý do mau chậm, trong sự phát hiện cái quả, chúng ta không nên hấp tấp nóng nảy mà cho rằng cái luật nhân quả không hoàn toàn đúng, khi thấy có những cái nhân chưa phát sanh. Chúng ta phải nhìn nhân quả toàn diện qua Hiện Báo, Sinh Báo, Hậu Báo như vậy, mới thấy được ý nghĩa sâu xa và chính xác của đạo lý nầy.
Như vậy nhân quả đã chi phối tất cả vũ trụ vạn hữu, không có một vật gì, sự gì, động vật, hay thực vật, vật chất hay tinh thần, thoát ra ngoài luật nhân quả được. Ở đây một khi chúng ta đã có một quan niệm rõ ràng về luật nhân quả, và chúng ta áp dụng định luật nầy để ngăn ngừa những hành động của chúng ta thì chúng ta sẽ thấy có những sự lợi ích:
01-   Không Mê Tín:
Luật nhân quả tránh cho chúng ta những mê tín dị đoan, những tin tưởng sai lầm và thần quyền. Luật nhân quả cho chúng ta thấy được thực trạng của sự vật, không có gì mơ hồ, bí hiếm. Nó vén tất cả những cái màn đen tối, phỉnh phờ của mê tín dị đoan, đang bao trùm sự vật. Nó cũng phủ nhận luôn cái thuyết chủ trương:
- Vạn Vật do một vị thần sinh ra, và có uy quyền thưởng phạt muôn loài.
 Do đó, người hiểu rõ luật nhân quả sẽ không đặt sai lòng tin tưởng của mình, không cầu cạnh một cách vô ích, không ỷ lại thần quyền, không lo sợ hoang mang.
02- Niềm Tự Tin:
Luật Nhân Quả đem lại lòng tin tưởng vào chính con người của mình. Khi đã biết cuộc đời của mình là do nghiệp nhân của mình tạo ra, và tự mình là người thợ xây dựng đời mình, mình là kẻ sáng tạo, mà không tin tưởng ở mình thì còn tin tưởng ở nơi ai nữa. Lòng tự tin ấy là một sức mạnh vô cùng quý báu làm cho con người dám hoạt động, dám hy sinh, hăng hái làm điều tốt. Vì những hành động tốt đẹp ấy, họ biết sẽ là những cái nhân qúy báu đem lại những cái kết quả tốt đẹp.
03- Sự Phấn Đấu Tuyệt Đối:
Luật Nhân Quả làm cho chúng ta không chán nản trước mọi nghịch cảnh. Người hay chán nản hay trách móc là vì đã đặt sai lòng tin của mình, là vì đã có thói quen ỷ lại ở kẻ khác, là vì đã hướng ngoại. Nhưng khi đã biết mình là động cơ chính, là nguyên nhân chính của mọi thất bại hay thành công, thì không còn chán nản trách móc ai nữa. Ðã biết mình là quan trọng như thế thì chỉ còn lo tự sửa mình thôi gieo nhân xấu, để khỏi phải gặt quả xấu, tránh tạo giống ác để khỏi mang quả ác. Có người thắc mắc rằng:
- Nhân quả là một luật tự nhiên rất đúng đắn công bằng, nhưng tại sao có người đời hiền từ mà lại gặp lắm tai nạn khổ sở, trái lại những người hung ác sao lại vẫn được bình an?
Thực sự thì Ðịnh luật Nhân Quả lúc nào cũng công bằng, tuy nhiên như có lần chúng tôi đã trình bày là thời gian tiến triển từ nhân đến quả, có khi nhanh khi chậm, chứ không phải khi nào cũng đồng nhau. Có cái nhân dẫn đến quả ngay, có cái nhân dẫn từ đời nầy đến đời sau mới hình thành quả.
Vậy nếu có người trong đời hiện tại làm việc hung ác mà được an lành là do kiếp trước họ tạo nhơn hiền từ. Còn cái nhơn hung ác, mới tạo trong đời nay thì tương lai hay qua đời sau họ sẽ chịu quả báo. Cũng như có người năm nay ăn chơi, không làm gì hết, mà vẫn no đủ, là nhờ năm rồi họ có làm, có tiền của để dành vậy.. Còn cái nhân năm nay không làm thì sang năm họ sẽ chịu quả đói rách.
Còn người đời nay hiền từ, làm các điều phước thiện, mà vẫn gặp tai nạn, khổ sở, là do đời trước họ tạo những nhơn không tốt, cái nhân hiền từ đời nay qua đời sau họ sẽ hưởng quả vui. Tương tự như vậy, cũng như có người tuy năm nay siêng năng làm ruộng, mà vẫn thiếu hụt là vì nhân ăn chơi năm vừa rồi, và nhân siêng năng năm nay sang năm họ sẽ hưởng quả sung túc.
Cũng có người hỏi:
- Theo luật nhân quả ai làm nấy chịu, cha làm tội, con không thể thay thế được, con làm tội cha không thể thay thế được. Tại sao lại thấy có những việc cha làm con phải chịu liên can, con làm cha phải chịu ảnh hưởng?
Trong kinh Phật day:
- Nhân quả nghiệp báo có hai thứ: Biệt Nghiệp và Cộng Nghiệp.
Biệt nghiệp, là nghiệp báo riêng của mỗi chúng sanh, như mình có học nhiều thì mình biết nhiều, mình ăn thì mình no, mình siêng năng thì mình dễ thành công, mình nhác lười thi mình thất bại.
Cộng nghiệp là nghiệp chung cho nhiều chúng sanh cùng sống trong một hoàn cảnh. Như người Việt Nam sau năm 1975, tất cả những ai đang ở tại miền nam Việt Nam đều cùng chung một số phận là mất nước, đó là cộng nghiệp. Trong số những người cùng có cái cộng nghiệp thì chúng ta thấy có những người vượt biển tìm tự do, đó là biệt nghiệp. Cái biệt nghiệp nầy nó trở thành cộng nghiệp đối với những người vượt biển tìm tự do. Trong số những người có cộng nghiệp vượt biển tìm tự do, chúng ta còn thấy có những người yên ổn đến bờ bến, có nguời thì chết trên biển cả hoặc trên đường bộ, đó là tùy theo cái biệt nghiệp của mỗi người. Cái biệt nghiệp của những người đến bờ bến lại trở thành cái cộng nghiệp. Cũng là những người đến bờ bến nhưng lại có người giàu kẻ nghèo, thì đó là tùy thuộc vào biệt nghiệp của mỗi người.
 Một cách chính xác hơn, cái cộng nghiệp nếu áp dụng vào cho người dân miền nam Việt Nam vào thời điểm năm 1975 vừa qua thì dù giàu dù nghèo, dù tri thức dù bình dân, đều chịu ảnh hưởng chung của tình trạng thiếu thốn khổ đau phiền muộn. Nhưng những người sanh ở một nước tiên tiến như Hoa Kỳ thì mọi người đều tương đối được hưởng một đời sống vật chất đầy đủ. Như vậy đã là những thành viên trong một gia đình, là công dân của một xứ sở hay một dân tộc, cố nhiên cái nghiệp quả phải có liên quan với nhau, cho nên sách có câu:
- Nhất nhơn tác phước thiên nhân hưởng.
Ðộc thọ khai hoa vạn thọ hương.
Nghĩa là :
- Một người làm phước ngàn người hưởng
Một bông trổ hoa, muôn cây chung quanh đều thơm
Nói một cách chính xác, quan niệm Nhân Quả trong Ðạo Phật không phải là một sự ngẩu nhiên, vô trách nhiệm đối với hành vi của mình, việc gì cũng bảo là tự nhiên... khi không ... mà là biết rõ về nhân quả để chúng ta biết cách sống và hành xử với những người chung quanh. Những ai biết cách sống với suy tư:
- Ở hiền gặp lành,
Thì người ấy đã đạt hạnh phúc rồi. Tâm chúng ta an ổn, vì biết đời sống của mình không thật có, vô nghĩa. Ðó là chưa nói đến vấn đề nhân nào, quả nấy không bao giờ sai chạy.
            Tinh thần của người học hỏi giáo lý của Đạo Phật không phải cái gì cũng đổ thừa cho đời trước, số mệnh định sẳn, mà không chịu nổ lực vươn lên để xây dựng cuộc đời, cải đổi hoàn cảnh. Trái lại đối với người học đạo, tự mình nhận lãnh trách nhiệm của mọi hành động tạo tác từ thân miệng ý. Người phật tử lại càng không tin rằng có một đấng Thượng Ðế có quyền năng sắp đặt cuộc sống của chúng ta, và sự khổ vui đều do đấng tối thượng nầy quyết định. Nên biết:
            - Có trời mà cũng tại ta
            Tu là cội phúc tình là dây oan.
            Hoặc là:
            - Có trời mà cũng tại ta
            Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.
            Trời đây không phải là Thượng Ðế mà là tội phước gây tạo trong đời quá khứ, đã ảnh hưởng, chi phối đến đời sống của chúng ta trong hiện tại. Ðạo Phật tuy nói đến việc quá khứ, hiện tại, vị lai, tuy nhiên lại coi trọng việc hiện tại để khích lệ sự nổ lực vươn lên của con người, để chuyển đổi hoàn cảnh, cải thiện quá khứ nhằm xây dụng một tương lai tươi đẹp hạnh phúc. Cho nên Truyện Kiều, cụ Nguyễn Du tuy có nói việc nghiệp nhân trong quá khứ, ảnh hưởng đến số phận của con người trong hiện tại, song cuối cùng vẫn kết luận:
- Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều.
Nói tóm lại, chúng ta biết rõ giá trị của luật nhân quả, vì vậy chúng ta nên đem bài học nầy ra áp dụng vào mọi công việc hằng ngày của chúng ta. Khi chúng ta làm một việc gì, nói một lời gì cũng nên nghĩ trước đến kết quả tốt hay xấu của nó, chứ đừng có làm liều, nói liều, rồi phải chịu hậu quả, nhục nhã, hay đau khổ trong tương lai. Nếu chúng ta làm được như vậy thì chúng ta sẽ thấy tánh tình và hành vi của chúng ta mỗi ngày một thêm cải tiến, các việc sái quấy sẽ giảm bớt các việc lành càng thêm tăng trưởng. Và do sự gieo nhân toàn thiện đó, từ địa vị người, chúng ta có thể tiến dần đến quả vị thánh hiền siêu nhiên.
--o0o--