| 
           
      
  
           
  |               
             
               TẬP SAN DƯỢC SƯ
            
            
            
              
            
              
                
                   
                  - 
                  
                  Con Đường Phải Đi
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  
                  Trúc Giao
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  
                  --o0o--
 
                  
                
                - 
                 
 
                - 
                Chúng ta đang 
                sống trong cõi đời ác năm trược, và ý thức được con người hiện 
                tại đã và đang bị dòng sanh tử luân hồi, và cuộc đời vô thường 
                chi phối, cho nên thường đem đến sự sợ sệt và bất an rất nhiều 
                cho chúng ta. Vì thế những ai muốn ra khỏi vòng sanh tử luân 
                hồi, thì chính chúng ta phải tự mình lựa chọn một con đường phải 
                đi. Con đường mà chúng ta lựa chọn và phải đi đó nó không bằng 
                hoa gấm mà bằng tâm nguyện tha thiết:
 
                - 
                - Trên cầu 
                Phật đạo dưới hóa độ chúng sanh. 
 
                - 
                Đây là nói 
                những người ý thức cuộc đời là vô thường, và sợ hãi trong kiếp 
                sống luân hồi sanh tử. 
 
                - 
                Có người cũng 
                cho rằng chết là hết, cho nên con người một khi chết rồi thì 
                trăm việc hết, cái gì cũng đều không có. Đây là quan niệm theo 
                chủ nghĩa vật chất, mà theo lập trường của Phật Giáo cho rằng 
                đây là cách nhìn của con người thường chỉ có nhục nhãn, mà không 
                có huệ nhãn. Vì vậy cho nên không thấy được chân tướng của vạn 
                tượng vũ trụ, nên mới nói thế này. Ðức Phật không những có nhục 
                nhãn, huệ nhãn mà còn có Phật nhãn, cho nên chân tướng của muôn 
                hình tượng vũ trụ Ngài thấy rất rõ ràng. Ngài nói sinh mạng của 
                con người không phải là chết rồi thì kể như xong hết, nếu như 
                đơn giản như thế này, thì con người ai cũng có cái tâm tham 
                muốn, thích làm cái gì thì làm cái nấy mà không cần nói cái việc 
                có nhân quả báo ứng thiện ác. 
 
                - 
                Kỳ thật, sinh 
                mạng của mỗi người trước khi chưa sinh thì đã có rồi, cũng không 
                phải chết rồi là hết. Lý lẽ nầy không phải chỉ nói qua loa vài 
                ba câu là có thể nói hết được vấn đề, đồng thời cũng là vấn đề 
                rất khó giải quyết. Do đó với nhu cầu của người học Phật tu 
                hành, là để giải quyết sự kiện nầy, đại sự sinh tử cho chính 
                mình. Chúng ta là người học Phật đối với cái chết, không phải là 
                hết cho nên phải ghi nhớ hai điều: 
 
                - 
                1- Ðời người 
                vô thường, vì thế nói về cái chết rất có thể do tuổi thọ hết, 
                hoặc phước hết, hoặc nghiệp báo đến.
 
                - 
                2- Không nên 
                lầm tưởng rằng thọ mạng là do trời sinh, trời cho tuổi thọ, do 
                vậy việc sống chết đều phó thác cho vận mệnh. 
 
                - 
                Phải biết rằng 
                tuổi thọ ngắn dài đều tùy thuộc vào thực tại, đa số là nghiệp ác 
                hiện đời, bởi vì có những việc không nên làm thì chúng ta lại 
                làm càn, không khéo tự giúp để dưỡng nuôi tốt tự thân chúng ta. 
                Vì vậy cứ cho là do thọ hết mà chết.
 
                - 
                Chúng ta là 
                người biết đạo lý, biết rõ sinh tử, con người chết rồi lại sinh, 
                sinh rồi lại chết, chết chết sinh sinh, sinh sinh chết chết, cứ 
                thế mà luân hồi không dứt. Yếu tố chủ yếu tạo thành luân hồi 
                sinh tử chính là Nghiệp. 
 
                - 
                Nghiệp có 
                nghĩa là tạo tác. Trước tiên là từ ý nghĩ hay tư tưởng, do từ 
                nơi tư tưởng mà phát ra tạo tác các ác nghiệp ở nơi ngôn ngữ và 
                thân thể. Bất luận có hành động tốt xấu thế nào đi nữa, thì Phật 
                pháp đều gọi là Nghiệp. Nghiệp có ba tánh: 
 
                - 
                - Thiện: Thiện 
                nghiệp hay chiêu lấy thiện quả, 
 
                - 
                - Ác: Ác 
                nghiệp hay chiêu lấy ác quả, và 
 
                - 
                - Vô ký: Vô ký 
                nghiệp tức là nghiệp không phải là thiện cũng không phải là ác, 
                cho nên không có quả.
 
                - 
                Nói về Nghiệp, 
                nếu không phải là người có tín tâm, thì hơi khó hiểu rõ, bởi vì 
                nó không hình không tướng, không chất không lượng, nhưng một khi 
                chúng ta khởi tâm động niệm, thì tất cả đều thành nghiệp chủng. 
                Nói một cách khác, Nghiệp mà chúng ta bàn ở đây chính là ấn 
                tượng trong ý thức của chúng ta và những người chung quanh. 
                Chúng ta và những người chung quanh, mỗi khi có khởi tâm động 
                niệm, thì từ ý nghĩ cho đến ngôn ngữ và hành vi, không kể là 
                thiện hay ác, lúc đó trong ý thức đều có lưu giữ ấn tượng, đây 
                tức là nghiệp chủng đã gieo vào trong ruộng thức thứ tám. Ruộng 
                thức thứ tám là thức A Lại Da. Chúng ta cũng như những người 
                chung quanh đều do ở nơi ngôn ngữ và hành vi của thân tâm mà tạo 
                thành một ấn tượng lưu giữ trong ý thức. Tuy rằng những ấn tượng 
                đó có cạn có sâu, nhưng tất cả đều không bị thời gian xóa diệt, 
                mà cứ nhớ luôn trong tìm thức, trong ký ức. Ðối với một sự việc 
                nào đó, có những ấn tượng sâu sắc, cố nhiên trọn đời khó quên, 
                và mỗi khi nhớ đến ấn tượng như thế, thì việc này ngay tức khắc 
                cũng ảnh hưởng đến tâm lý và hành vi của người chung quanh và 
                chúng ta. Cho dầu là ấn tượng đó rất nhỏ nhặt, nhưng cũng sẽ giữ 
                gìn vĩnh cửu ở trong chiều sâu của ý thức. Đó cũng là lý do hiện 
                tại các nhà tâm lý học giải thích về giấc mơ, hay mộng là những 
                hoạt động ẩn chứa trong ý thức, đồng thời cũng biểu thị cho 
                chúng ta thấy nghiệp lực cũng là bất diệt trong tâm thức của 
                chúng ta. Khi đã thành nghiệp chủng, thì khó có thể mài dũa hay 
                diệt đi, vì nó luôn luôn tồn tại hằng hữu, hoặc là chúng ta có 
                thể thấy, hoặc có khi chúng ta không thấy, nhưng khi gặp duyên 
                thì chúng khởi hiện ra. 
 
                - 
                Nếu lấy hiện 
                tại để giải thích về Nghiệp thì đại khái là mỗi người chúng ta 
                đều nhờ vào kết quả của sự phản ứng hoạt động, ý lực không dứt 
                của chính mình, mà tạo thành nghiệp của chính mình. Nghiệp nầy 
                lại tạo thành gốc gác của hoạt động tương lai, và chi phối vận 
                mệnh chính mình. Từ sự chi phối vận mệnh mà nói, thì gọi đó là 
                nghiệp quả hoặc nghiệp báo. Đã gọi là Nghiệp có nghĩa là vĩnh 
                viễn không mất, trừ khi Nghiệp chấm dứt, hay do ý chí ngừng nghỉ 
                hoạt động để tạo Nghiệp của chúng ta. Do đó những hoạt động nếu 
                chúng ta chuyển về phương hướng nào, thì Nghiệp cũng chuyển theo 
                phương hướng đó mà tồn tại. Như vậy nghiệp quả, nghiệp báo không 
                phải lấy một thời kỳ sanh ra đời hoặc chết đi một sinh mạng mà 
                gọi là hết. Chết chẳng qua là thân thể nầy được tạo thành bởi 
                các yếu tố vật chất, cho nên nó cũng theo phép tắc vật lý là có 
                tụ thì phải có tan. Hơn nữa sinh mạng của chúng ta thật ra không 
                phải chỉ là thuần túy trên phương diện vật chất, cho nên mỗi 
                người chúng ta tạo nghiệp, đều không do từ nơi chết của thân thể 
                vật chất mà hết Nghiệp. Sau khi chết, cái sức mạnh của nghiệp 
                dẫn chúng ta đổi thành một phương hướng khác, hình thành một cái 
                sinh mạng mới, cách chuyển đổi trạng thái này gọi là luân hồi. 
                Hiểu được đạo lý luân hồi, thì chúng ta có thể chứng minh được 
                nguyên tắc nghiệp lực không diệt.
 
                - 
                Nghiệp lực đều 
                không do từ nơi cái chết của nhục thể mà tiêu diệt, bởi vì sau 
                khi nhục thể tan rã thì nghiệp do chúng ta tạo tác được gởi gắm 
                ở trong thức của A Lại Da, thức này lại chịu sự chi phối của 
                nghiệp lực, trở lại kết hợp cùng với vật chất riêng thành một 
                sinh mạng mới. Sinh mạng mới hình thành nầy:
 
                - 
                - Là người,
                
 
                - 
                - Là súc,
                
 
                - 
                - Là thần,
                
 
                - 
                - Là quỷ ...
 
                - 
                Thì chúng ta 
                không thể tự chủ, mà hoàn toàn dựa vào sự dẫn dắt của nghiệp 
                lực. Trong kinh Phật có nói tình hình nghiệp lực dắt dẫn A Lại 
                Da thức tương tự như:
 
                - 
                - Ví như chúng 
                ta thiếu nợ một người nào đó, không sớm thì muộn người đó cũng 
                đến nhà đòi nợ. 
 
                - 
                Do đây cũng có 
                thể nói nghiệp lực tương tự như một quả cân treo, sức nặng lệch 
                về phía nào thì quả cân rơi về phía đó.
 
                - 
                Nghiệp lực tức 
                là sau khi tạo tác khởi tâm động niệm, năng lực giữ gìn liên tục 
                mà dẫn phát. Thọ báo nhân gian đời này là nghiệp lực đời trước. 
                Nghiệp lực đời trước cùng với nghiệp lực đời này, sẽ quyết định 
                cho tiền đồ tương lai của đời sau, đây chính là nhân quả báo ứng 
                ba đời. Y cứ nơi luật nhân quả nghiệp báo mà nói, nghiệp lực 
                phát sinh nghiệp báo có ba thời gian ghi nhận:
 
                - 
                1- Đời này tạo 
                nghiệp, mà đời này cũng thọ báo. Đây gọi là quả báo nhãn tiền, 
                hay còn gọi là Hiện Báo Nghiệp.
 
                - 
                2- Đời này tạo 
                nghiệp, mà một đời sau đó thọ quả báo. Đây gọi là Sanh Báo 
                Nghiệp.
 
                - 
                3- Đời này tạo 
                nghiệp, mà hai hay nhiều đời sau mới thọ quả báo. Đây gọi là Hậu 
                Báo Nghiệp
 
                - 
                Căn cứ từ nơi 
                ba đời: Quá khứ, hiện tại, vị lai mà nói thì nhân quả không thể 
                tiêu diệt. Chỉ cần nhân duyên đầy đủ, đến lúc gọi là định nghiệp 
                thì ai là người tạo nhân thì người đó phải chịu báo ứng. Cuối 
                cùng tất cả đều do nghiệp lực xúc tác mà thành. Ở đây có ba sự 
                phân biệt:
 
                - 
                a- Tùy Theo 
                Nơi Sức Nặng: 
 
                - 
                Không luận là 
                thế nào, con người đến lúc chết, nghiệp lực nhất định sẽ hiện 
                ra. Việc tốt hay xấu lúc bình thường chúng ta làm đều rất nhiều, 
                do đó mà ngay lúc này nó có một cái sức mạnh đặc biệt, không 
                luận là thiện hay ác, cũng bắt đầu hiển hiện ra, con người sẽ 
                nương theo cái năng lực này mà thọ quả báo hay phước báo. Chẳng 
                hạn như một người sát nhân, trong tâm thường ghi nhớ sự việc 
                giết người ở trong tâm, quên không được. Mặc dầu người tạo 
                nghiệp muốn cho quên nhưng không quên được, mà trái lại càng cố 
                gắng quên đi thì trong tâm thức càng tồn tại sâu đậm hơn. Đến 
                lúc chết, những việc làm tội lỗi này sẽ hiện ra. Cũng vậy, một 
                người làm việc thiện một đời cứu người đến lúc mạng chung, thiện 
                nghiệp đó cũng sẽ tự nhiên hiển bày trước mắt. 
 
                - 
                b- Tùy Theo 
                Nơi Tập Khí:
 
                - 
                Như có người 
                không biết nghiệp tốt, hay xấu, cứ bình thường làm việc theo 
                thói quen của chúng ta và cho đó là thường. Trong cái không biết 
                chúng ta cứ cho đó là thường, nhưng không có nghĩa là không có 
                tạo tác nghiệp, do vậy cũng có thể sinh ra những năng lực vĩ 
                đại. Việc ác tuy là nhỏ, nhưng cuối cùng cũng phải thọ lãnh ác 
                báo. Việc thiện tuy là nhỏ nhưng cũng có thể thu gặt được thiện 
                quả, tức là muốn nói khi tạo nghiệp gì, thì cuối cùng cũng phải 
                theo nghiệp định này mà thọ báo. Trường Hợp nầy gọi là tạo 
                Nghiệp theo tập khí
 
                - 
                c- Tùy Theo Sự 
                Nhớ Nghĩ:
 
                - 
                Bình thường 
                trong cuộc sống của chúng ta, không có thiện không có ác. Tuy 
                nhiên, nếu một giây phút nào đó bỗng nhớ tới chuyện xưa, lúc đó 
                trong tâm chợt khởi lên niệm thiện hoặc niệm ác, thế là tùy theo 
                niệm thiện hoặc niệm ác này mà thọ báo. Chẳng hạn như câu chuyện 
                được kể lại:
 
                - 
                Thuở xưa, ở 
                ngôi làng nọ có ba mươi người thanh niên kết bạn với nhau, chung 
                lo việc từ thiện. Họ đặt ra bảy điều luật mọi người tuân hành. 
                Bảy điều luật đó là:
 
                - 
                - Không sát 
                sanh
 
                - 
                - Không trộm 
                cắp
 
                - 
                - Không tà dâm
 
                - 
                - Không nói 
                dối
 
                - 
                - Không nói 
                hai chiều
 
                - 
                - Không nói 
                thêu dệt
 
                - 
                - Không nói 
                lời độc ác.
 
                - 
                Hằng ngày các 
                thanh niên chuyên làm việc từ thiện như làm đường, bắt cầu, giúp 
                đỡ những người nghèo khổ, bệnh tật. Ảnh hưởng của họ một ngày 
                một lớn ở trong thôn. Ai ai ở trong thôn cũng đều quý mến họ vì 
                thấy họ làm từ thiện mà không ý tham chiếm giữ vật nhỏ nào.
 
                - 
                Anh đoàn 
                trưởng có ba bà vợ. Bà vợ thứ nhất nghĩ:
 
                - 
                - Chồng mình 
                làm từ thiện, kiếp sau sẽ sanh về cõi Trời, bây giờ mình không 
                làm từ thiện, thì kiếp sau sẽ bị đọa lạc.
 
                - 
                Vì nghĩ như 
                thế cho nên bà vợ thứ nhất phát tâm cúng một khu vườn rộng bằng 
                một mẫu, có bóng cây râm mát ở giữa làng để làm công viên. Các 
                chàng thanh niên trồng đủ loại kỳ hoa dị thảo, trông thấy rất 
                đẹp mắt, lại có ghế đá để dưới tàng cây cho dân làng chiều chiều 
                đi tản bộ ngồi nghỉ mát.
 
                - 
                Bà vợ thứ hai 
                bỏ tiền ra đào hồ trồng sen ở giữa vườn trông rất đẹp mắt. Giữa 
                hồ lại làm nhà thủy tạ lục giác, trên mái lợp ngói âm dương, có 
                chiếc cầu cong bắc ngang qua, sơn màu đỏ trông rất xinh. Dưới hồ 
                nuôi những đàn cá đỏ, cá vàng. Người đứng trên cầu, ngồi trong 
                nhà thủy tạ ném thức ăn xuống dưới hồ, cá tranh nhau ăn trông 
                rất vui.
 
                - 
                Riêng bà vợ 
                thứ ba chỉ biết chưng diện, ăn chơi, không biết làm từ thiện, 
                không biết đạo đức nhân nghĩa là gì.
 
                - 
                Ba mươi ba 
                người thanh niên làm việc từ thiện, ảnh hưởng mỗi ngày một lớn, 
                dân chúng rất mến mộ. Điều nầy làm cho ông thôn trưởng đâm ra 
                ganh tỵ. Ông viết biểu dâng Vua rằng ba mươi người thanh niên 
                nầy có ý tạo phản, cho nên tìm mọi cách làm từ thiện để lấy lòng 
                dân. Nhà Vua nghe theo, liền cho truyền lệnh bắt ba mười người 
                thanh niên đem ra pháp trường cho voi dày. Khi sắp hành hình, 
                nhớ lại các việc làm xa xưa, anh đoàn trưởng nói với các anh em 
                trong đoàn:
 
                - 
                - Chúng ta 
                không nên oán thù ông thôn trưởng và nhà Vua, mà chúng ta phải 
                khởi tâm thương xót vì họ đã bị vô minh che lấp nên làm việc 
                thất đức, rất đáng thương xót. Chúng ta cũng nên khởi tâm thương 
                con voi làm việc độc ác. Chúng ta phải luôn nhớ lại việc làm từ 
                thiện của mình, vì thân người có mất đi, nhưng phước đức thì 
                không.
 
                - 
                Lúc quan giám 
                sát ra lịnh thả voi ra để thi hành án lệnh, Voi không dám dẫm 
                lên ba mươi ba người thanh niên kia, trái lại voi còn sợ và thụt 
                lùi. Người nài ra lịnh nhưng voi vẫn không chịu nghe. Quan Giám 
                Sát về tâu Vua, nhà Vua lấy làm lạ và đích thân tra hỏi:
 
                - 
                - Các người là 
                Trời, hay là Quỷ Thần mà Voi không dám làm hại.
 
                - 
                Các thanh niên 
                thưa:
 
                - 
                           - 
                Chúng tôi là dân lành, chỉ chuyên làm việc từ thiện, ích quốc 
                lợi dân, không có gì phạm pháp. Ông thôn trưởng thấy mất ảnh 
                hưởng nên sanh lòng đố kỵ, vì vậy mới báo cáo lên nhà Vua là 
                chúng tôi âm mưu làm phản, chứ thật ra chúng tôi là dân lương 
                thiện. Nếu Bệ Hạ không tin thì cứ hỏi dân chúng sinh sống trong 
                thôn nầy thì biết. Cùng lúc dân chúng trong thôn cũng dâng kiến 
                nghị, trình bày với nhà Vua là ba mươi ba người thanh niên nầy 
                vô tội.
 
                - 
                           Nhà 
                Vua nghe xong rất hoan hỷ, cho tha bổng ba mươi ba người thanh 
                niên vô tội và còn khen thưởng để khích lệ nhân dân. Nhà Vua cho 
                phép ba mươi ba thanh niên tiếp tục làm việc từ thiện và trừng 
                trị ông thôn trưởng có tâm hiểm ác, vu khống người lương thiện.
 
                - 
                           Từ 
                khi được nhà Vua biết và tha bổng, các thanh niên làm việc phước 
                thiện càng hăng hái hơn. Trong suốt cuộc đời của ba mươi người 
                thanh niên kia lúc nào cũng làm việc nghĩa để tích công bồi đức, 
                nhờ vậy mà đến khi mãn phần tất cả đều được sanh về cõi Trời ba 
                mươi ba. Vị đoàn trưởng kia làm Thiên Đế Thích(tức là Thượng 
                Đế), còn ba mươi hai người kia làm Vua của ba mươi hai cõi Trời 
                chung quanh. Hai bà vợ của anh trưởng đoàn, nhờ phước cúng vườn 
                cây và hồ, nhà thủy tạ, nên được sanh lên cõi Trời làm vợ Thiên 
                Đế Thích. Trong khi đó bà vợ thứ ba do vì ăn chơi, chưng diện, 
                phạm tôi sát sanh nên bị đọa làm cò trắng.  
 
                - 
                           Nội 
                dung câu chuyện nầy cho chúng ta thấy, bất cứ hành động nào của 
                chúng ta cũng đều có kết quả. Tuy ba mươi ba thanh niên làm việc 
                thiện, nhưng sở dĩ có kết quả tốt đẹp do nhờ ở giây phút thập tử 
                nhất sanh nhớ lại thiện nghiệp đã làm, nên phước báo hiện tiền. 
                Nhưng nếu ba mươi ba thanh niên nầy lúc đó khởi tâm niệm thù 
                hận, không chắc việc làm từ thiện đó có kết quả, không khéo còn 
                bị cận tử nghiệp phá tan những phước đức đã làm, bởi vì:
 
                - 
                           - 
                Một đám lửa sân cháy cả rừng công đức.      
 
                - 
                Từ những điểm 
                chính yếu trên, cho nên bình thường, thay vì chúng ta cứ nhớ 
                nghĩ viễn vong, niệm theo kiểu chúng sanh niệm thì chư tôn đức 
                thường hay nhắc nhở mọi người niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. 
                Và trong cuộc sống hằng ngày, thường nên xưng tán công đức bố 
                thí, trì giới, khiến họ tự thân phước báo càng ngày càng thêm 
                tăng tiến, và người chung quanh nghe được khởi tâm ưa thích công 
                đức và tâm sinh thiện niệm. Nương nơi công lực này thì sẽ tạo 
                nên phước báo tốt đẹp cho hiện tại và đời sau.
 
                - 
                Có người tuy 
                có nghiệp thiện, nhưng lúc lâm chung vì người thân không biết 
                tạo những điều không tốt, lúc gần chết chịu sự đâm chích đau khổ 
                trong lòng, cho nên niệm ác sanh khởi vì vậy mà phải bị đoạ lạc. 
                Đây cũng là lý do tại sao chư tôn đức thường khuyên người đời, 
                nếu những thân bằng quyến thuộc đến lúc lâm chung, không luận 
                già trẻ, đều không nên kêu khóc, nắm tay, sờ mó, cứ la hét, kêu 
                réo, ôm ấp, đụng chạm vào thân thể của người chết. Những hành 
                động nầy chúng cứ nghĩ là thương tiếc nhớ nhung, nhưng thật ra 
                là chúng ta làm phiền tâm thần của người mất khiến cho họ sinh 
                khởi tâm phiền não. Thay vì chúng ta khóc thương, thì chúng ta 
                nên khuyên người mất, người thân của chúng ta nên chuyên tâm 
                tưởng nhớ đến Phật, niệm Phật, niệm công đức... Đây là giây phút 
                quan trọng. Như lúc bình thường chúng ta cứ mãi tạo tác các 
                nghiệp ác, cho nên lúc lâm chung, chúng ta được nhắc nhở khởi 
                lên một niệm thiện là điều không thể khởi được. Trừ phi chúng ta 
                đời trước có nghiệp thiện, hoặc lúc bình thường hay có nghiệp 
                thiện to lớn, hoặc tập thiện thành tánh, và lúc lâm chung còn có 
                trợ niệm thêm, thì có thể quyết định được sanh qua nơi cõi lành 
                như người xưa đã từng nói:
 
                - 
                - Thiện có báo 
                thiện, ác có báo ác.
 
                - 
                Và mỗi con 
                người ở mỗi đời đều có thiện nghiệp và ác nghiệp, nhưng không 
                phải vì vậy mà vĩnh viễn không có cách nào thóat khỏi sinh tử.
                
 
                - 
                Tuy nhiên, một 
                yếu tố khác chúng ta cũng nên ghi nhận. Rằng  nếu nói chỉ có mỗi 
                nghiệp lực thì không đủ để cho chúng ta phải đau khổ trong sanh 
                tử luân hồi, mà phải nói thêm một yếu tố khác nữa đó là phiền 
                não. Quả thật, ngoài nghiệp lực còn có điều kiện của phiền não, 
                trong đó ái nhiễm là tối trọng yếu. Nếu như không có khát ái thì 
                các thứ phiền não, cũng sẽ không thể cảm lấy mầm khổ của sinh, 
                cho nên Phật Pháp cũng thường dạy bảo người đời: 
 
                - 
                - Dứt phiền 
                não, xong sinh tử.
 
                - 
                Như vậy chúng 
                ta thấy các loài hữu tình thuộc ba cõi, trong đó có chúng ta, do 
                nơi mê hoặc mà tạo nghiệp, từ nơi nhân tạo nghiệp mà thọ khổ, 
                rồi nhân thọ khổ lại trở thành mê hoặc. Cho nên ba món: 
                
 
                - 
                - Hoặc 
                
 
                - 
                - Nghiệp
                
 
                - 
                - Khổ 
                
 
                - 
                Là ba yếu tố 
                nầy hình thành ra tánh ác, rồi cứ theo đó mà tuần hoàn luân lưu 
                mãi. Nhưng Nghiệp mà Hoặc tạo ra, có chia ra nghiệp thiện, 
                nghiệp ác, nghiệp nhẹ, nghiệp nặng, do đây quả báo nhận được 
                cũng có phân ra làm sáu đường. Nghiệp thức ở trong sáu đường mà 
                sinh đây tử kia thì gọi là luân hồi sáu đường. Sáu đường là:
                
 
                - 
                - Trời, 
                
 
                - 
                - A Tu La,
                
 
                - 
                - Người,
 
                - 
                - Súc sinh
                
 
                - 
                - Ngạ quỷ, và
                
 
                - 
                - Địa ngục.
                
 
                - 
                Ba đường trước 
                gọi là đường thiện, ba đường sau gọi là đường ác. Trong ba thiện 
                nghiệp nầy thì cõi trời là cảnh giới phước báo rất nhiều, thọ 
                mạng cũng dài. A Tu La phước báo giống trời, nhưng do vì tâm sân 
                rất là nặng, đấu tranh không dừng cho nên không có địa vị như 
                cõi Trời. Cõi Người thì khổ nhiều vui ít, nhưng vẫn còn khá hơn 
                những cảnh giới của ba ác đạo. Trong ba đường ác, cảnh giới Súc 
                sinh thì hoàn toàn khổ. Ngạ quỷ thường chịu đói lạnh. Địa ngục 
                thì khổ đau, trong cõi đó khổ đau rất nhiều kiểu. 
 
                - 
                Chúng ta đã 
                biết cảnh sung sướng ở cõi người, cõi Trời, và những cảnh khổ 
                của Súc Sanh, Địa Ngục, Ngạ Quỷ, cho nên là người học Phật chắc 
                chắn chúng ta biết lựa chọn con đường nào là con đường mà chúng 
                ta phải đi rồi. Khi mà chúng ta đã biết Con Đường mà chúng ta 
                phải đi thì chúng ta sẽ biết được chúng ta từ đâu đến, chết rồi 
                đi về đâu ngay tức khắc. 
 
                - 
                Đến đây chắc 
                hẳn chúng ta biết sau khi chúng ta không còn ở cõi đời nầy thì 
                chúng ta sẽ đi về đâu! 
 
                - 
                Như có lần 
                chúng tôi nói, người chết, không phải trăm việc đều hết, chết 
                rồi thì mọi việc đều xong, mà người chết là nhục thân chết thôi, 
                chứ tâm thức không chết. Cái tâm thức  đó vĩnh viễn không thể 
                chết, mà là theo chỗ tạo tác trong hiện tại:
 
                - 
                - Làm thiện 
                thì thăng thiên hưởng phước, hoặc sinh trở lại làm người. Nếu 
                làm ác, thì đọa lạc trong ba đường chịu lấy khổ báo, tức là chết 
                đây rồi lại sinh kia, sinh rồi lại chết, sinh chết, chết sinh 
                xoay vần luân chuyển, không bao giờ dừng lại, đây gọi là luân 
                hồi sáu đường. 
 
                - 
                Đến đây chúng 
                ta mới thấy cái hiệu lực của báo ứng nhân quả. Nghĩa là thiện có 
                thiện báo, ác có ác báo. Chúng ta biết rằng sở dĩ chúng ta hiện 
                tại là con người rất có thể:
 
                - 
                -  Đời này làm 
                người, là đời trước do phước báo cõi trời hưởng hết nên đọa lạc 
                vào con đường làm người.
 
                - 
                Hoặc là:
                
 
                - 
                - Đời trước 
                chúng ta ở nơi nhân đạo sau khi chết, hợp với việc trở lại làm 
                người mà trở lại sinh làm người.
 
                - 
                Hoặc là:
                
 
                - 
                - Đời trước 
                chúng ta do khổ báo ba đường, ác chịu hết nghiệp ác rồi chuyển 
                sinh làm người.
 
                - 
                           So 
                với ba trường hợp để trở thành con người, chúng ta thấy, nếu 
                chúng ta từ cõi trời hết phước báo mà trở lại đời nầy, hoặc do 
                phước báo lúc làm con người từ đời kiếp trước mà trở lại làm 
                người thì tương đối chúng ta sẽ có phước tướng, giàu có sang 
                trọng. Nhưng nếu chúng ta là con người do từ ba đường dữ trở lại 
                thì cuộc đời sẽ còn đau khổ không ít. Tuy nhiên nếu biết được 
                đạo lý mà tu tập thì đó là chúng ta đã biết lựa chọn con Đường 
                chúng ta phải đi, trong tương lai sẽ tươi mát nhiều phước báo 
                hơn.
 
                - 
                Con người, và 
                tâm thức sau khi chết, trở lại chuyển sinh cũng thường có vấn đề 
                này, nhất là theo truyền thống của Phật Giáo Tây Tạng. Tuy nhiên 
                vì là người phàm mắt thịt, chúng ta không thấy, nhưng nếu tu 
                hành, được khai ngộ, có thiên nhãn huệ nhãn, thì việc trong sáu 
                đường chúng ta có thể xem xét rất rõ ràng. Chúng ta là phàm phu 
                chỉ có nhục nhãn, chỉ có thể nhìn thấy việc của phàm phu và súc 
                sinh, còn thiên đạo, ngạ quỷ đạo và địa ngục đạo đương nhiên 
                không thấy.
 
                - 
                Nói thì nói 
                vậy, thật sự không có gì là khó hiểu, nếu chịu khó suy xét về 
                nhân quả nghiệp báo thì chúng ta sẽ thấy. Như trong đời nầy việc 
                làm chúng ta hợp với thiên đạo, như thế đời sau, sau khi chết, 
                chúng ta sẽ sanh về cõi Trời hưởng phước. Nếu như đời này việc 
                làm hợp với nhân đạo, như thế đời sau tái sinh làm người. Các 
                đường khác cũng tương tự như vậy. Như thế nếu lựa chọn con đường 
                phải đi, thì chúng ta phải lựa chọn con đường dẫn chúng ta về:
 
                - 
                - Cõi Trời
 
                - 
                - Cõi Người 
                ... 
 
                - 
                Một khi chúng 
                ta đã lựa chọn con đường đi về cõi Trời, cõi Người thì không ai 
                có thể cưỡng bách chúng ta phải đọa lạc vào địa ngục, đây là vấn 
                đề rất hiển nhiên. Nói một cách đơn giản tức là:
 
                - 
                - Làm thiện 
                thì được phước, làm ác thì bị họa.
 
                - 
                Nói tóm lại, 
                trong sáu đường thì đường Trời là tốt nhất; kế tới là A Tu La, 
                rồi đến con người, còn các đường khác đều là khổ. Chúng ta nhờ 
                dựa nơi lương tâm của một con người, làm nhiều việc thiện, thì 
                sau được báo ứng tốt sinh vào thiên đạo, chờ cho báo ứng xong 
                hết trở lại chuyển đến các đường khác, cũng như vậy có thể 
                chuyển sinh đến đường súc sinh. Nếu muốn thoát ly luân hồi sáu 
                đường mà riêng nhờ vào việc làm thiện thì không đủ, cho nên 
                chúng ta là người học phật, tu hành một cách chí thành, chuyên 
                nhất tinh tấn không biếng lười, không phô bày, không lơ là, mới 
                có thể ra khỏi luân hồi sáu đường. Nên nhớ rằng, không phải chỉ 
                nói qua loa chúng ta tu hành học Phật là xong, là chúng ta ra 
                khỏi luân hồi sáu đường, mà chúng ta phải dấn thân quyết chí tu 
                tập mới được. 
 
                - 
                Nếu chúng ta 
                biết rằng thế giới Ta Bà là biển khổ, đời người là khổ, khổ 
                nhiều vui ít, làm ác dễ làm thiện khó, cơ hội sanh về cõi Trời 
                hưởng phước thì ít, mà cơ hội rơi vào ba đường ác thì nhiều. Một 
                khi mất thân người rơi vào ba đường ác thì không phải là việc 
                giỡn chơi. Nếu chúng ta muốn thoát ly ra khỏi luân hồi của sáu 
                đường, thì chúng ta cần phải có định hướng, lựa chọn con đường 
                nào là Con Đường Phải Đi của chúng ta, biết được con đường mà 
                chúng ta phải đi thì cứ thế mà đi, không sớm thì muộn chắc chắn 
                chúng ta sẽ đến nơi mà chúng ta muốn đến.
 
             
              
           
                --o0o--
                 
              
              
            
             | 
   
           
               
       
       |