| 
           
      
  
           
                
            
              
              
                - Thư Viện Chùa Dược Sư
 
                - PHẬT HỌC CƠ BẢN
 
                  
               
              
              
                
                   
                  - 
                  
                  VÔ VI CƯ ĐIỆN CÁC
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  Hòa Thượng Thích Thiện Siêu
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  --o0o--
 
                  
                
                - 
                 
 
                - 
                Phật 
                giáo là ánh sáng. Ánh sáng của Phật giáo là từ bi, trí tuệ. Ánh 
                sáng ấy soi rọi lòng người, phá tan màn vô minh, vị kỷ, tật đố, 
                tham sân si, để cùng nhau tạo lấy một cuộc sống an vui hạnh phúc 
                và xây dựng đức tính tốt đẹp: đức tính vô ngã vị tha.
 
                - 
                Ánh 
                sáng của Phật giáo đã lan truyền hầu khắp các nước Châu Á và 
                ngày nay nó đã lan truyền qua các nước Châu Âu, Châu Mỹ, Châu 
                Úc, Châu Phi...
 
                - 
                Ánh 
                sáng của Phật giáo đã đến nước Việt Nam từ thế kỷ thứ I và đã 
                hòa nhập vào lòng dân tộc, cùng dân tộc Việt Nam tạo nên những 
                trang sử oanh liệt, mang lại độc lập, tự do và hạnh phúc vững 
                vàng cho đất nước. Trong lịch sử Việt 
                Nam, 
                các vị Thiền sư của Phật giáo luôn luôn có mặt, gắn bó với các 
                triều đại: nhà Lê, nhà Đinh, nhà Lý, nhà Trần... Trong đó có 
                những vị Thiền sư mà bất cứ một người viết sử Việt Nam nào cũng 
                không thể bỏ qua được. Chính lúc Lê Đại Hành ở ngôi đã có nhờ 
                thiền sư Ngô Chân Lưu, Đỗ Pháp Thuận... là những vị Thiền sư bác 
                học, đạo đức cao thâm cùng chung giúp sức, cố vấn, cho nên khi 
                vua Lê Đại Hành hỏi Thiền sư Đỗ Pháp Thuận rằng "Vận nước hiện 
                nay như thế nào?". Thiền sư Đỗ Pháp Thuận liền trả lời:
 
                - 
                "Quốc 
                tộ như đằng lạc
 
                - 
                Nam 
                thiên lý thái bình
 
                - 
                Vô vi 
                cư điện các
 
                - 
                Xứ xứ 
                tức đao binh" [*]
 
                - 
                Tạm 
                dịch: 
 
                - 
                Vận 
                nước như mây quấn 
 
                - 
                Trời 
                Nam mở Thái bình 
 
                - 
                Vô vi 
                trên điện các
 
                - 
                Xứ xứ 
                hết đao binh
 
                - 
                (Lê 
                Mạnh Thát dịch)
 
                - 
                [*] Vận 
                nước như dây quấn
 
                - 
                Trời 
                Nam ôm thái bình
 
                - 
                Đạo đức 
                ngự cung điện
 
                - 
                Muôn xứ 
                tức đao binh (Nguyễn Lang – Sử luận1, tr. 146)
 
                - 
                Nghĩa 
                là: "Vận nước ngày nay nó vững chắc như dây quấn, trời Nam mở 
                thái bình, vô vi ở trên điện các, nơi nơi bặt hết đao binh".
 
                - 
                Chữ "Vô 
                vi cư điện các" này phải hiểu: Vô vi không có nghĩa là không làm 
                gì hết, nhưng có nghĩa là làm mà không có tư dục, không có tư 
                tâm. Không những thế, chữ vô vi trong đạo Phật khác với chữ vô 
                vi trong đạo Lão. Đạo Lão nói đạo là thường hằng tự nhiên, không 
                có danh, không thể nói. Muốn được an thì cứ thả tâm tự nhiên 
                theo đạo, không tác vi gì cả, chữ vô vi trong đạo Phật là dịch 
                từ chữ Phạn "Asamskrita", có nghĩa là không tạo tác, chỉ cho 
                pháp lành thường trụ không do nhân duyên tạo tác, không có sanh 
                diệt biến hoại, khác với pháp hữu vi là pháp do nhân duyên tạo 
                tác, có sanh diệt biến hoại, nên pháp vô vi chính là một tên 
                khác của Niết-bàn. Như trong luật Tứ phần, đức Phật Tỳ-bà-thi 
                dạy: "Nhẫn nhục đệ nhất đạo, Phật thuyết vô vi tối..." nhẫn nhục 
                là hạnh tu cao nhất, Niết-bàn là đạo tối thượng. Niết-bàn là 
                tịch tịnh vô vi an lạc, ngoài mọi vọng tình tà kiến chấp trước. 
                Như kinh Đại nhật phẩm Trụ tâm nói: "Bồ-tát vì chúng sanh trong 
                pháp giới, không từ mệt nhọc, thành tựu an trụ học giới vô vi, 
                xa lìa tà kiến, thông đạt chánh kiến". Hay "thâm quán pháp tánh 
                vô vi, hoặc sanh hoặc pháp (tức hoặc chấp thật có ngã, thật có 
                pháp) đều vô sở đắc". Chính trong tinh thần vô sở đắc đó, kinh 
                Kim cang dạy rõ: "Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm" là hãy đừng 
                trụ vào tướng gì cả mà sanh tâm bố thí, trì giới v.v...
 
                - 
                Như 
                vậy, chữ "vô vi" trong đạo Phật đâu có nghĩa là không làm gì 
                hết, trái lại vô vi là làm tất cả những gì thuận với pháp tánh, 
                Niết-bàn, chân như, theo đó không có chút ý tưởng chấp ngã, chấp 
                nhân, chấp pháp... Ngồi ở ngôi cao cai trị muôn dân với một tinh 
                thần vô vi, vị tha trị nước, không có tư dục, không có tư tâm, 
                tất nhiên nước sẽ yên, dân sẽ bình, không có những sự rối rắm và 
                không có giặc giã nổi lên.
 
                - 
                Lão Tử 
                nói: "Bất quí nan đắc chi hóa, sử nhân bất đạo", người ở ngôi 
                cao mà không thèm quí những vật khó kiếm được, thì dân sẽ học 
                theo đó mà không sanh tâm trộm cắp.
 
                - 
                Với cái 
                nghĩa như vậy nó gắn liền với lịch sử, gắn liền với Thiền sư Đỗ 
                Pháp Thuận, với Lê Đại Hành. Thế nhưng, tiếc thay cho đến ngày 
                hôm nay, cũng có những vị học giả cắt nghĩa rằng:
 
                - 
                "Vận 
                nước như dây quấn
 
                - 
                Nam 
                thiên mở thái bình
 
                - 
                Không 
                làm gì ở điện các 
 
                - 
                Nơi nơi 
                dấy đao binh"
 
                - 
                Từ một 
                nghĩa này lật ngược lại thành một nghĩa khác. Từ nghĩa vô vi như 
                vừa nói lại bảo là không làm gì hết, cho nên từ "tức đao binh" 
                là dứt hết đao binh lại bảo là "dấy đao binh", và nếu như các 
                nghĩa sai lầm đó mà tiếp tục được nhận định, được cắt nghĩa, thì 
                tất nhiên lịch sử Việt Nam sẽ bị giải thích một cách sai lệch. 
                Trong thời Lê Đại Hành độc lập mà nói rằng, một vị Thiền sư đã 
                từng giúp cho Lê Đại Hành đánh Tống bình Chiêm giữ ngôi, giữ 
                nước mà nói không làm gì ở điện các, nơi nơi dấy đao binh, cắt 
                nghĩa như thế là đã đi ngược lại lịch sử. Cắt nghĩa như thế 
                chẳng những đã không hiểu Phật giáo mà còn cố tình làm sai lệch 
                lịch sử Việt Nam. Do đó cho nên các nhà nghiên cứu Phật học Việt 
                Nam cần phải khai mở tất cả những gì khuất lấp, những gì bị che 
                đậy, hầu làm sáng tỏ những trang sử vẻ vang mà Phật giáo đã đóng 
                góp và xây dựng cho đất nước. Khi đã khai mở tất cả những sự 
                khuất lấp đó để cho Phật giáo được phát huy, cùng nhau xây dựng 
                đất nước thì đó là một công trình, một việc làm hết sức thích 
                đáng.
 
                - 
                Giáo lý 
                của đức Phật vô cùng thậm thâm, nhưng không có nghĩa là hư 
                huyễn, ảo tưởng. Cái vô cùng thậm thâm đó ở chính trước mắt, 
                chính ở bên tai, chính ở trong hành động của chúng ta hằng ngày. 
                Cái vô cùng thậm thâm ấy nó chuyển hóa lòng người, là kim chỉ 
                nam cho các vị Thiền sư khi cần bảo vệ Phật pháp và đất nước thì 
                họ hy sinh tính mạng của mình mà không biết tự ngã.
 
                - 
                Nhìn 
                bên ngoài, đọc những câu kinh Phật có lắm người chê. Chê rằng: 
                các ông thầy chỉ biết chuông mõ, đọc lên những câu kinh Phật, 
                thấy rõ cả một hơi tiêu cực, yếm thế, bi quan! Thế nhưng họ quên 
                đi rằng tại sao lại có những vị Thiền sư yêu đạo yêu đời như Ngô 
                Chân Lưu, Đỗ Pháp Thuận, như Vạn Hạnh đến thế! Làm sao lại có 
                những vị đã hy sinh cao cả, đã đem lại vinh dự không những cho 
                Phật giáo Việt Nam mà còn làm vinh dự cho dân tộc Việt 
                Nam 
                như Bồ-tát Thích Quảng Đức đến thế! Thế mới biết rằng đằng sau 
                cái nhìn có vẻ tiêu cực, Phật giáo có một sức mạnh vô cùng tích 
                cực. Đó chính là một câu hỏi mà ngày hôm nay cũng còn nhiều 
                người đang đặt ra và đang suy nghĩ về nó. Họ nói: không biết tại 
                sao khi đọc trong kinh Phật, không thấy câu nào nói đến yêu nước 
                hết, chẳng có chữ nào nói đến Tổ quốc hết, thế nhưng tại sao lại 
                có những vị Thiền sư lại làm nên việc mà thiết tưởng trong chúng 
                ta ít mấy ai làm được? Thế cho biết nơi mỗi con người chúng ta 
                từ trong bản chất, theo như đức Phật gọi: "Tất cả mọi người đều 
                có tính Phật", cái tính Phật đó nó gồm đủ các nghĩa đại từ bi, 
                đại trí tuệ, đại giải thoát, đại hùng lực. Nhưng cái tính Phật 
                đó đồng thời nó cũng bị những cái tính chúng sinh như: tham, 
                sân, si, ngã mạn, tật đố, hẹp hòi, nhỏ mọn, ích kỷ, che lấp. Khi 
                đã bị những cái tiêu cực đó nó che khuất, nên cái tính tích cực 
                bị chôn vùi mà không phát triển ra được. Do đó phải đọc kinh, 
                học kinh, tụng kinh để tiêu diệt tính tiêu cực tham, tiêu cực 
                sân, tiêu cực si, tiêu cực ngã mạn, tật đố... Khi mà những cái 
                tiêu cực đó đã tiêu đi thì tự nhiên tính tích cực bộc lộ ra, 
                không cần nhắc tới nó cũng bộc phát.
 
                - 
                Mặt 
                trời vẫn sáng nhưng bị làn mây khuất lấp, khi làn mây tan đi thì 
                mặt trời tự sáng, không cần đòi hỏi ánh sáng mặt trời thì mặt 
                trời cũng tự sáng. Chính những điều đó đã cắt nghĩa cho chúng 
                ta, giải đáp các câu hỏi: tại sao đọc những câu kinh Phật thấy 
                có vẻ bi quan yếm thế, nhưng đến khi làm những việc tích cực thì 
                rất lớn lao?
 
                - 
                Trong 
                thời đức Phật, Ngài cũng dạy cái đạo lý tương tợ như thế. Có 
                những kẻ ngoại đạo đến chỉ trích đức Phật rằng: "Ổ, ông Phật, 
                ông cứ đi truyền bá cái Đạo phá hoại sự sống, truyền bá cái Đạo 
                hư vô, người ta nói như vậy có đúng không thưa ông?"- Đức Phật 
                trả lời: "Đúng đấy! Ta truyền bá cái Đạo phá hoại sự sống, nhưng 
                là cái Đạo phá hoại sự sống tham lam, phá hoại sự sống ích kỷ, 
                phá hoại sự sống tật đố và truyền bá cái Đạo hư vô, nhưng là Đạo 
                hư vô tính xấu, hư vô hành động ích kỷ, hư vô hành động phá 
                hoại. Đây chính là cái Đạo ta truyền". [Tăng Chi, Phẩm thắng 
                Tri Tham – HT. Minh Châu dịch]
 
                - 
                Nếu như 
                không nghiên cứu chúng ta sẽ chấp chặt cái hư vô phá hoại đời 
                sống, rồi chúng ta cũng sẽ mang một cái lầm như các nhà ngoại 
                đạo kia gán lên cho là lời dạy của đức Phật. Vì lẽ đó cho nên 
                cần phải có người nghiên cứu Phật học để phát huy cái cao cả, 
                phát huy cái sáng suốt, cái tinh hoa trong kho tàng giáo lý đức 
                Phật, để sửa sai những cái hiểu lầm, những cái hiểu không đúng, 
                đã, đang và sẽ có hại đối với đạo Phật chúng ta. 
 
                -  
 
                - --o0o--
 
               
              
             
             | 
   
           
               
       
       |