| 
           
      
  
           
                
            
              
              
                - Thư Viện Chùa Dược Sư
 
                - PHẬT HỌC CƠ BẢN
 
                  
               
              
              
                
                   
                  - 
                  
                  Ngài Huyền Trang
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  
                  Hòa Thượng Thích Thiện Siêu
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  
                  --o0o--
 
                  
                
                - 
                
                 
 
                - 
                
                Ngài Huyền Trang theo truyện Tây Du không gọi là Huyền Trang mà 
                kêu là Tam tạng thỉnh kinh hay Đường Tăng. Trong sách nói đủ là 
                Tam tạng Pháp sư Huyền Trang. 
 
                - 
                
                Đường Tăng tức là một vị Tăng đời Đường. Đời nhà Đường thì có 
                nhiều vị Tăng đi cầu kinh nhưng chỉ có ngài là đặc biệt nhất, 
                nổi nhất, cho nên nhiều khi họ nói Đường Tăng đó là chỉ cho ngài 
                Huyền Trang. Còn Tam tạng Pháp sư là gồm Kinh tạng, Luật tạng và 
                Luận tạng. Vì ngài là vị thông hiểu cả Tang tạng kinh, Luật, 
                Luận nên gọi là Tam tạng Pháp sư.
 
                - 
                
                Tiểu sử của ngài có nhiều người viết khắp nơi trên thế giới. 
                Riêng Việt Nam có 4, 5 người viết như Hòa thượng Thích Minh Châu 
                1 bản, đạo hữu Võ Đình Cường 1 bản, Trần Hà cũng có 1 bài, ông 
                Nguyễn Hiến Lê cũng có 1 bài... Trong tiểu sử đầy đủ nói về ngài 
                thì có tập của Hòa thượng Thích Minh Châu hay là của đạo hữu Võ 
                Đình Cường. Nhưng nói tóm tắt thì có bài của Trần Hà và của nhà 
                học giả Nguyễn Hiến Lê. Trong số này theo tôi thì bài của Nguyễn 
                Hiến Lê là súc tích nhất và có nhiều ý, nhiều cảm tưởng thâm 
                thúy với ngài - một lịch sử rất đặc biệt. Ông Nguyễn Hiến Lê là 
                một học giả nổi tiếng của miền Nam trước đây.
 
                - 
                
                Trong bài này tôi dựa vào bản của Nguyễn Hiến Lê để tóm tắt. Ông 
                Nguyễn Hiến Lê trong bài viết ông đặt đề: "Huyền Trang và công 
                cuộc thỉnh kinh vô tiền khoáng hậu của nhân loại".
 
                - 
                
                Với phụ đề như vậy chúng ta biết Huyền Trang là người như thế 
                nào và vĩ đại ra sao rồi? Một cuộc thỉnh kinh vô tiền khoáng hậu 
                của nhân loại - của nhân loại chứ không phải của riêng nước 
                Trung Hoa - mà cuộc thỉnh kinh ấy vô tiền khoáng hậu, tức trước 
                không hề có và sau ngài cũng không hề có được, không ai làm một 
                cuộc thỉnh kinh như ngài đã làm. Trước và sau không ai làm được 
                như vậy nên gọi là vô tiền khoáng hậu. Nội câu phụ đề của ông 
                Nguyễn Hiến Lê đặt vào đó, chúng ta thấy cái vĩ đại cao thượng 
                như thế nào của ngài Huyền Trang rồi:
 
                - 
                
                "Huyền Trang (tiếng Pháp là Hiuan-tsang) không phải là một triết 
                nhân, chẳng phát huy được thêm cái gì cho đạo, ông cũng không 
                phải là một văn hào hay một nhà khoa học, lại càng không phải là 
                một nhà thám hiểm như Christophe Colomb, Magellan, ông chỉ là 
                một Pháp sư đi hành hương ở đất Phật; vậy mà sự nghiệp của ông 
                đối với đạo Phật quan trọng hơn sự nghiệp của Chu Hi đối với đạo 
                Khổng, ông lại tặng dân tộc Trung Hoa bảy mươi lăm bộ sách, gồm 
                trên ngàn quyển, làm giàu cho Hoa ngữ được trên vạn tiếng; và 
                lưu lại cho nhân loại vô số tài liệu rất quí về phong tục, khí 
                hậu, sông núi, cỏ cây, di tích của những miền hoang vu, huyền bí 
                ở Trung bộ Á Châu, nhất là Ấn Độ, những tài liệu mà các nhà thám 
                hiểm phương Tây tới sau ông đều phải khen là rất đích xác, rất 
                quí báu. Thử hỏi, trong lịch sử nhân loại có vị danh nhân thứ 
                hai nào như ông không? Nội một việc dân tộc Trung Hoa thần kỳ 
                hóa cuộc đi thỉnh Kinh của ông, truyền miệng cho nhau sao chép 
                lại thành một bộ tiểu thuyết tức bộ Tây Du Ký - cũng là một cái 
                vinh dự mà từ xưa đến nay chưa ai được nhận nữa! Nhất là đọc 
                xong tiểu sử của ông ta mới thấy tấm gương của ông để lại cho ta 
                soi không có một chút vết. Các vĩ nhân khác, trừ vài vị Thánh, 
                còn có thể có chỗ cho ta không phục, còn ông thì suốt đời thanh 
                đạm, can đảm, cần cù, hiếu học, lễ độ, khiêm tốn, trong sạch và 
                hy sinh. Tôi muốn có một bức chân dung của ông quá!"
 
                - 
                
                Câu mở đầu của nhà học giả Nguyễn Hiến Lê ca ngợi ngài Huyền 
                Trang như vậy, chúng ta thấy và tưởng tượng cái tiểu sử của ngài 
                làm sao nói cho hết được. Một nhà học giả người ngoại đạo chứ 
                không phải trong đạo, lẽ tất nhiên câu nói của họ ở đây có một 
                nhận xét rất khách quan, chứ không vì tín ngưỡng người trong Đạo 
                nói với người trong Đạo. Nội chữ ông dùng trên đủ thấy ông kính 
                phục và ca ngợi ngài hết lời. "Đọc xong tiểu sử của ông ta mới 
                thấy tấm gương của ông để lại cho chúng ta soi không có một chút 
                vết. Các vĩ nhân khác, trừ vài vị Thánh còn có chỗ cho ta không 
                phục. Còn ông thì suốt đời thanh đạm, can đảm, cần cù, hiếu học, 
                lễ độ, khiêm tốn, trong sạch và hy sinh".
 
                - 
                
                Bao nhiêu chuyện hay, bao nhiêu từ ngữ tốt đẹp đều gồm trong lời 
                ca ngợi trên hết - có đủ nơi ngài hết. Christophe Colomb là nhà 
                thám hiểm tìm ra Châu Mỹ, Magellan là người đi chu du khắp thế 
                giới. Ông nêu lên hai người ấy để so sánh qua việc của ngài, 
                không phải là nhà thám hiểm, không phải là nhà văn hào, không 
                phải là nhà khoa học cũng không phải là triết nhân. Thế nhưng, 
                công lao của ngài đối với đạo Phật, đối với Trung Hoa, và đối 
                với nhân loại cũng lớn lao lắm.
 
                - 
                
                "Ông sinh năm 602 sau công nguyên, năm thứ 14 đời Tỳ Văn Đế [*] 
                tại huyện Câu Thị (Lộ Châu: hiện là huyện Yêm Sa, tỉnh Hà Nam), 
                trong một gia đình vọng tộc. Tằng tổ là Trần Khâm được phong 
                tước Khai quốc quân công đời Bắc Ngụy; tổ phụ là Trần hương làm 
                Quốc sử bác sĩ đời Bắc Tề, thân phụ là Trần Tuệ làm chức quan 
                huyện ở Giang Lăng đời Tỳ, sau thấy Tùy Dạng Đế là một hôn quân, 
                chán nản, từ quan về nhà dạy học. Ông tên thật là Trần Vỹ, đứng 
                hàng con út. Người anh thứ hai, Trần Tố, làm Hòa thượng chùa 
                Tịnh Độ (Lạc Dương). Như vậy gia đình ông là một gia đình nhà 
                Nho, phát ở thời Nam Bắc Triều, mà thời đó là một thời rất thịnh 
                của đạo Phật ở Trung Quốc.
 
                - 
                
                [*] Ông Trần Hà trong bài Trần Huyền Trang và chuyến thỉnh kinh 
                lịch sử (Bách khoa số 57) – ngày 15-5-59 nơi Huyền Trang sinh 
                năm 596 (năm thứ 16 đời Tỳ Văn Đế). Tôi theo René Groussel trong 
                cuốn Surles traces de Bouddha (Plon-1948), tr. 22 Từ Hải không 
                cho biết năm sinh và năm tịch của Huyền Trang nhưng có nói năm 
                Trinh Quán thứ nhất (Trinh Quán là niên hiệu của Đường Thái 
                Tông), tức 627 Tây lịch, Huyền Trang 26 tuổi (tuổi tính theo 
                phương Đông), vậy hợp với thuyết của Groussel: Huyền Trang sinh 
                năm 602. Vả lại, Nếu Huyền Trang sinh năm đó là năm thứ 8 của 
                đời Tý Văn Đế, chứ không phải là năm thứ 16.
 
                - 
                
                Đạo Phật bắt đầu vào Trung Quốc có lẽ từ đời Tần, đến đời Hán 
                ảnh hưởng còn ít; qua đời Đông Tấn và Nam Bắc Triều, nhân xã hội 
                Trung Hoa hủ bại, loạn lạc liên miên, dân chúng khổ sở, không 
                tìm được nỗi an ủi ở đạo Phật mới có ở đạo Nho, nên quay về đạo 
                Lão, nhất là đạo Phật, mà đạo Phật mới có cơ sở phát triển mạnh 
                mẽ. Sử chép đời Bắc Triều đã có non 900 chùa Phật và tại Lạc 
                Dương, Tăng ni ở các nước họp nhau lại có trên 3.000 người. Từ 
                vua quan đến dân chúng, ai cũng sùng bái đạo Phật. Tăng ni được 
                hưởng nhiều quyền lợi: khỏi phải đi lính, được miễn thuế, sưu 
                dịch; cho nên càng loạn lạc, càng nghèo khổ, dân chúng lại càng 
                chạy vào ẩn náu dưới cửa Phật. Người có của cũng xin đầu Phật, 
                để đất đai khỏi phải đóng thuế, thành thử đạo Phật bành trướng 
                rất mau; đến đời Bắc Ngụy, nhà chùa chiếm được một phần ba tổng 
                số diện tích đất đai trong nước.
 
                - 
                
                Cuối đời Nam Bắc Triều, nhà Châu thấy nguy cơ cho triều đình, 
                chủ trương diệt đạo Phật, bắt 3 triệu tăng ni hồi tục và ra lệnh 
                phá rất nhiều chùa chiền. Nhưng đến cuối thế kỷ thứ 6, đạo Phật 
                lại phục hưng, rồi nhân chính sách bạo tàn của Tùy Dạng Đế làm 
                cho dân chúng lầm than, điêu đứng (ba lần chiến tranh với Cao 
                Ly, động viên đến hơn một triệu tráng đinh nhưng thua; một lần 
                xuống Giang Nam ngắm quỳnh hoa nở, mà bắt hơn một triệu dân để 
                đào kinh từ Lạc Dương đến Giang Đô), chùa chiền lại mọc lên rất 
                nhiều, mở rộng cửa đón những kẻ chán ngán thời cuộc hoặc trốn 
                xâu lậu thuế.
 
                - 
                
                Thân phụ Huyền Trang là một trong những người chán ngán đó. Ông 
                không quy y, vẫn giữ đạo Nho, nhưng ham đọc kinh của đạo Lão và 
                đạo Phật".
 
                - 
                
                Lúc 8 tuổi ngài thích nghi lễ, rất nghiêm cẩn, có lễ độ, tính 
                tình ngay thẳng, không thích nhảy nhót, không ngơ ngác y như các 
                em bé khác. Lúc cha ngài đem Hiếu kinh giảng cho ngài nghe, đến 
                đoạn ông Tăng Tử khi nghe giảng bèn đứng dậy nghe thầy giảng 
                kinh. Thấy ông Tăng Tử như vậy, khi ngài đang ngồi nghe cha 
                giảng kinh, ngài cũng đứng dậy sửa áo. Cha ngài ngạc nhiên hỏi 
                tại sao đang ngồi nghe như vậy mà đứng dậy là nghĩa làm sao? 
                Ngài thưa: Tăng Tử nghe thầy giảng mà còn đứng nghiêm trang thay 
                huống chi con nghe cha dạy mà con không đứng dậy là vô lễ. Thế 
                cho biết lúc 8 tuổi ngài đã như vậy rồi. Từ đó chúng ta biết 
                tinh thần của ngài ra sao rồi.
 
                - 
                
                "Huyền Trang, hồi tám tuổi đã thích lễ nghi, tính tình nghiêm 
                cẩn. Ít năm sau, một người anh là Tố quy y, Huyền Trang được 
                nghe anh thỉnh thoảng giảng đạo Phật cho nghe, ham mê cũng muốn 
                theo anh. Năm 13 tuổi, ông lại chùa Tịnh Độ ở Lạc Dương xin quy 
                y. Mới đầu, nhà chùa còn do dự, chê ông nhỏ tuổi quá, sau thấy 
                ông thành tâm và thông minh lạ thường, nên chấp thuận." [*]
                
 
                - 
                
                [*] Theo Nguyễn Huy Khánh, tác giả cuốn khảo luận tiểu thuyết 
                Trung Hoa thì lần đó chùa Tịnh Độ được lệnh triều đình chọn 27 
                vị Hòa thượng. Muốn là Hòa thượng phải qua một kỳ sát hạch về 
                trình độ học vấn và tư cách đạo đức (quy chế đó có từ đời Tý hết 
                đời Minh mới bãi bỏ). Số người ứng thi có đến mấy trăm. Huyền 
                Trang cũng ghi tên, nhưng vì nhỏ tuổi không được phép dự. Tuy 
                vậy, cậu bé thông minh ấy vẫn không nản lòng, cứ núp gần công 
                môn mà nghe lỏm. Một bữa Trịnh Thiện Quả – người triều đình phái 
                tới – thấy cậu bé đứng rình nghe biết là người có chí, lại thấy 
                hình dung tuấn tú thêm đối đáp như lưu, hỏi: "Người muốn xuất 
                gia để làm gì?" – Thưa: "ý muốn, xa nối Phật Như Lai, gần sáng 
                như Pháp". Thiện Quả bèn đặc cách cho làm Tăng (khảo luận tiểu 
                thuyết Trung Hoa tr. 149, Khai Trí – 1950).
 
                - 
                
                Lúc bấy giờ ở ngôi chùa Tịnh Độ được phép của nhà vua tuyển chọn 
                thêm 27 vị tăng. Trong khi đó người xin vô làm Tăng có cả 100. 
                Người đại diện Triều đình đến tuyển chọn tên là Trịnh Thiện Quả. 
                Ngài Huyền Trang tuổi nhỏ nên không được đưa vào danh sách tuyển 
                chọn. Nhưng Ngài cứ đứng lấp ló ngoài cửa lắng nghe. Trịnh Thiện 
                Quả thấy vậy liền hỏi về tuổi tác, quê quán, sở thích... Đặc 
                biệt khi hỏi vì sao ngài muốn đi xuất gia? Ngài trả lời: Tôi xin 
                xuất gia là xa thì nối Phật, Như Lai, gần thì làm sáng như Pháp 
                (Viên thiệu Như Lai, cận quan như pháp). Câu này có ý nói: Tôi 
                xuất gia ý nhìn về xa, về trước, về đức Phật, tôi muốn nối dõi 
                giòng giống của Phật. Nhìn về gần trong hiện tại tôi muốn làm 
                sáng giáo pháp đang di truyền của ngài vậy. Xuất gia là vì mục 
                đích đó. Trong khi tuổi đang còn nhỏ, chỗ Triều đình tuyển Tăng, 
                vì tuổi nhỏ không được tuyển, cũng không chịu về nhà cứ đứng thơ 
                thẩn lấp ló để mà nghe ngóng, ham thích cái chuyện xuất gia đó, 
                cho nên khi trả lời câu nói đó thì ông Trịnh Thiện Quả đặc cách 
                cho ngài được vào làm Tăng".
 
                - 
                
                "Ông học hết các kinh của Tiểu thừa, Đại thừa rồi đến kinh 
                Niết-bàn, giáo lý rất cao siêu; học đến quên ăn quên ngủ".
 
                - 
                
                Kinh Niết-bàn là kinh cao nhất: Phật nói lên câu: Tất cả chúng 
                sanh đều có Phật tánh. Các Kinh khác có Kinh nói có Kinh không. 
                Tất cả chúng sanh đều có Phật tính, trong Kinh Niết-bàn chú 
                trọng đưa lên cái đạo lý ai cũng có Phật tính. Đó là một đạo lý 
                cao siêu nhất. Bây giờ chúng ta nghe lâu ngày quá quen rồi nên 
                coi thường, chứ người mới nghe, nghe đó lạ tai lắm, lạ vô cùng, 
                vì họ lý luận: Phật là Phật, chúng sanh là chúng sanh. Phật là 
                cao thượng, là siêu việt, còn chúng sanh là thấp hèn, là ô uế, 
                là mê muội, chớ sao chúng sanh lại có Phật tính. Câu đó chỉ 
                trong đạo Phật mới có chứ các đạo giáo khác không làm sao mà có. 
                Câu đó được nói ra, được nhấn mạnh ở trong Kinh Đại bát 
                Niết-bàn. Cho nên Kinh Đại bát Niết-bàn có ý nghĩa cao sâu là 
                vậy. Trước khi đi Tây vực, chính ngài đã học nhiều kinh sách 
                rồi, bởi trước ngài, ngài sinh năm 1602, trước ngài ở Trung quốc 
                năm 1607 đã có ngài Ma-đằng đến Trung Quốc dịch kinh Tứ thập nhị 
                chương. Từ đó trở về sau trải qua 4, 5 thế kỷ có nhiều vị tăng ở 
                Ấn Độ và các nước khác đến dịch kinh cũng nhiều rồi nên ngài 
                cũng đã học các kinh dịch đó, cả Tiểu thừa, Đại thừa ở Trung 
                Quốc.
 
                - 
                
                "Hồi đó là cuối đời Tỳ, đầu đời Đường, trong nước loạn lạc. Khi 
                đô thành một ổ đạo tặc, mà miền Hồ nam thành cái hang mãnh thú, 
                đường phố Lạc Dương đầy thây người.
 
                - 
                
                Phải lánh đi nơi khác, Huyền Trang bàn với anh qua Thành Đô (Tứ 
                Xuyên), ngụ chùa Không Túc trong 2, 3 năm, tiếp tục học hết kinh 
                của các giáo phái.
 
                - 
                
                Năm 20 tuổi, nội loạn đã chấm dứt, ông về Trường An, kinh đô nhà 
                Đường. Trường An là đất Phật đầu tiên ở Trung Hoa. Từ 5 thế kỷ 
                trước, những vị tu hành ở Ấn Độ qua cất chùa tại đó và dịch 
                những kinh tiểu thừa, Đại thừa từ Phạn ngữ qua Hoa ngữ. Công 
                việc dịch thuật đó có thể chia làm hai thời kỳ:
 
                - 
                
                - Từ Đông Hán đến Tây Tấn (khoảng 230 năm) dịch chưa có hệ thống 
                gì cả.
 
                - 
                
                - Từ Đông Tấn đến đầu đời Đường (khoảng 270 năm) đã thấy những 
                dịch phẩm có giá trị như bộ Pháp Hoa, bộ Đại phẩm..., tuy có thú 
                vị về văn chương, nhưng chưa thật sát nghĩa. Dịch giả đại biểu 
                cho thời ấy là một người Tây vực tên là Cưu-ma-la-thập.
 
                - 
                
                Ở Trường An, Huyền Trang ráng đọc hết những kinh đã dịch, tìm 
                những Hòa thượng có danh tiếng để học đạo, nhưng ông nhận thấy 
                rằng họ cũng thờ đức Thích Ca Mâu Ni mà giáo thuyết của họ khác 
                nhau xa quá, có khi phản nhau nữa. Có bao nhiêu tôn phái là có 
                bấy nhiêu chủ trương, làm cho ông hoang mang, không nhận được 
                đâu là đạo chính truyền".
 
                - 
                
                Bởi vì khi đạo Phật truyền qua Trung Hoa rồi thì có ngài cũng 
                nghiên cứu và trong quá trình nghiên cứu cũng có sự hiểu biết 
                riêng của mình. Chính vì thế nên nhận định cũng khác nhau, nên 
                mới lập ra các tông phái, hệ phái như Tịnh Độ tông, Luật tông, 
                Pháp tướng tông, Chân ngôn tông, Cu xá, Duy thức... mỗi tông 
                phái đều có kiến giải riêng. Vị này hiểu câu Kinh Phật như thế 
                này nên chủ xướng ra như thế này, vị khác hiểu như thế kia nên 
                xướng ra như thế kia, cho nên khi đọc, ngài thấy như vị này nói 
                vầy, vị khác nói khác, có vẻ hoang mang không biết đâu là chánh 
                đạo.
 
                - 
                
                "Bất mãn, ông xin phép anh đi học đạo ở khắp miền Bắc tại các 
                vùng Xuyên Đông (đông đô tỉnh Tứ Xuyên), qua Hồ Bắc, Hà Nam, Sơn 
                Đông, Hà Bắc. Càng tìm hiểu, ông càng nảy ra nhiều nghi vấn, đã 
                không tin được các vị Hòa thượng mà ngay trong những bản dịch 
                kinh Phật ông cũng thấy nhiều chỗ lờ mờ mâu thuẫn, hoặc dịch 
                sai. Vậy muốn hiểu rõ đạo thì chỉ còn một cách là đến nơi phát 
                tích của đạo Phật, tức Ấn Độ, để học tiếng Phạn rồi nghiên cứu 
                tại chỗ những kinh điển cổ nhất. Ý "Tây du" của ông phát sinh từ 
                đó."
 
                - 
                
                Từ đó chúng ta biết rằng, ngài cố tìm cách đi tìm học đạo ở Ấn 
                Độ. Trước khi qua Ấn Độ, ngài đã cố công đi tìm các vị Hòa 
                thượng, trưởng lão về các bộ kinh còn lại. Nhưng các Hòa thượng 
                đôi khi trả lời không đồng nhất, thậm chí có khi mâu thuẫn nhau. 
                Trong các kinh được dịch có nhiều chỗ tối nghĩa, có đoạn dịch 
                sai nên Ngài quyết chí phải tìm đến tận gốc - nơi sản sinh Phật 
                giáo để tìm hiểu cho tận ngọn ngành. Ngài tin rằng đó là sự cầu 
                học một cách chắc chắn từ nơi gốc thì mới bảo đảm hơn. Từ tấm 
                gương cầu học tận gốc của Ngài, thiết nghĩ chúng ta cũng nên học 
                tập như Ngài vậy.
 
                - 
                
                Ngày nay, các Phật tử khi đọc các kinh sách của các Thiền sư, 
                thức giả trước tác dịch thuật bằng tiếng Việt, đó là điều quí. 
                Nhưng quí hơn là phải đi vào các văn bản gốc của các kinh đã 
                được in ấn, để từ đó chúng ta đối chiếu các bản dịch hay trước 
                tác ấy đúng tới mức nào. Khi đọc kinh sách Phật giáo, các Phật 
                tử cũng phải có nhận thức vững vàng về giáo lý, điều nào sai 
                chưa đúng lắm thì có thể tìm hiểu nơi các vị đã hiểu biết để 
                tránh sự thắc mắc, hoặc giả là nên cầu học nơi các vị đã có 
                trình độ Phật học vững vàng thì chắc chắn các Phật tử sẽ nhận ra 
                được chỗ đúng sai trong các kinh sách Phật học đã được trước tác 
                in ấn trước đó. Các Phật tử nên trầm tĩnh suy tư về giáo lý của 
                đức Phật, đừng vội phê phán. Dĩ nhiên, phải thận trọng trong khi 
                đọc là tốt nhất, đừng tưởng rằng sách nào viết về Phật cũng đúng 
                và tin theo hết.
 
                - 
                
                Đó là thái độ cẩn trọng, trọng Pháp, nên ngài Huyền Trang mới có 
                tinh thần đi tìm học từ bản gốc ở Ấn Độ là vậy. Đó cũng là cách 
                giải đáp những nghi vấn, thắc mắc mà bấy lâu nay ngài đang phân 
                vân không biết đâu là đúng đâu là sai, và nếu đúng thì đúng tới 
                mức nào, nên Ngài quyết chí đi cầu pháp ở Tây phương là vậy.
 
                - 
                
                "Năm Trinh Quán nguyên niên, năm đầu triều vua Đường Thái Tôn 
                (62 sau Công nguyên)."
 
                - 
                
                Có nhiều thuyết nói năm Trinh quán nguyên niên, có năm Trinh 
                quán nhị niên, có năm Trinh quán tam niên, xê xích trong một hai 
                năm.
 
                - 
                
                "Huyền Trang cùng với vài vị Hòa thượng nữa dâng biểu lên nhà 
                vua xin phép qua Ấn du học. Truyện Tây Du Ký chép rằng Đường 
                Thái Tôn sai Tam Tạng [*] đi thỉnh kinh, lại cho làm ngự đệ, cho 
                lấy họ nhà Đường, có lẽ để nịnh triều đình mà quy công cho nhà 
                vua, chứ sự thật thì khác hẳn; vua Thái Tôn không cho phép, vì 
                nước mới được bình trị, vương quyền chưa được vững, mà sự ngoại 
                giao với các dân tộc ở phía Tây, tại Trung bộ Á Châu lại chưa 
                được tốt đẹp".
 
                - 
                
                [*] Xem lại trang Tam Tạng vốn có nghĩa là ba kho kinh Phật: 
                Kinh tạng, Luật lạng, Luận tạng; đây chỉ pháp danh Huyền Trang.
 
                - 
                
                Theo truyền thuyết, có nhiều người nói như trong truyện Tây Du, 
                Ngài Huyền Trang đi thỉnh kinh là do lịnh của vua Đường Thái 
                Tông. Nếu nói như vậy thì sai lầm, không những không sai đi mà 
                cấm không cho đi nữa là khác. Bởi vì lúc đó vua Đường mới dành 
                được ngôi nơi triều nhà Tùy, cho nên việc bình địch trong nước 
                chưa yên. Sự giao dịch với bên ngoài vua đều cấm hết. Nội bất 
                xuất ngoại bất nhập. Ngài Huyền Trang tự tìm trốn đi chứ không 
                phải vua sai đi.
 
                - 
                
                "Đợi mãi không được phép, các vị Hòa thượng cùng dâng biểu với 
                ông ngã lòng bỏ đi. Ông kiên nhẫn ở lại Trường An, học hết tiếng 
                Ấn Độ. Đêm ngày ông cầu nguyện các vị Bồ-tát cho ông đủ sáng 
                suốt và nghị lực thực hành nổi chương trình tây du của ông, mà 
                ông biết là rất khó khăn, phải qua nhiều nơi hiểm trở, hoang vu, 
                trộm cướp."
 
                - 
                
                Đơn phát 627 mà đến 629 cũng chưa có.
 
                - 
                
                "Một đêm năm 629, ông nằm mộng thấy một ngọn linh sơn ở giữa 
                biển, bèn nhảy xuống nước để lội qua thì vừa lúc đó, một bông 
                sen xuất hiện, đỡ ông, đưa ông tới chân núi. Núi dựng đứng, leo 
                không được, ông chưa biết tính sao thì một ngọn cuồng phong bí 
                mật nâng bổng ông lên tới ngọn núi. Đứng trên núi nhìn chung 
                quanh thấy cảnh bao la, rực rỡ. Ông thích quá, tỉnh dậy."
 
                - 
                
                Vì sự thành tâm cầu nguyện rất chí thành cao độ và rất chính 
                đáng, cho nên có sự cảm ứng là ngài nằm mộng thấy một ngọn linh 
                sơn ở giữa biển. Sướng quá ngài nhảy ào xuống chứ không biết có 
                lội được hay không! Trong khi nhảy như vậy có một bông sen đỡ 
                lên đưa đến chân núi thì núi quá cao không biết làm sao mà leo. 
                Khi ấy có một ngọn gió cuồng phong nâng lên chóp núi. Khi đứng 
                trên chóp núi nhìn tứ bề chung quanh mênh mông bát ngát không có 
                gì. Ngài rất sung sướng và tưởng tượng rằng việc đi thỉnh Kinh 
                của mình đã có cảm ứng.
 
                - 
                
                "Từ đó ông càng quyết tin rằng thế nào cũng thành công và chính 
                lòng quyết tín, mộ đạo đó đã giúp ông thắng mọi gian nan sau 
                này. Ít bữa sau, nhân miền chung quanh Trường An bị nạn mưa đá 
                mất mùa, triều đình xuống chiếu cho phép dân ở kinh đô được đi 
                nơi khác làm ăn, ông theo nhóm người di cư, tiến về phương Tây, 
                mở đầu cuộc du hành vạn lý.
 
                - 
                
                Năm đó (629), ông 28 tuổi (tính theo phương Đông), đến năm 44 
                tuổi mới trở về, tính ra xa quê luôn trong 16 năm.
 
                - 
                
                Tuổi đó là tuổi hăng hái, tin tưởng, mà bẩm tính ông lại nghiêm 
                cẩn, ôn hòa, nên ông rất được nhiều người mến trọng. "Nước da 
                hơi sạm, mắt sáng. Vẻ mặt uy nghiêm, nét mặt tươi sáng rực rỡ. 
                Giọng nói trong trẻo, rõ ràng, ngôn ngữ cao nhã, hoa mỹ, du 
                dương, ai nghe cũng mê..." Nhìn ông, người ta nhận ngay thấy sự 
                dung hòa của đạo Phật và đạo Khổng - lòng từ bi, đại độ của đạo 
                Phật, đức lễ độ, sáng suốt của đạo Khổng. Ông vừa thương người, 
                vừa cương quyết, trang nghiêm như đại giang, mà lại bình tĩnh, 
                rực rỡ như bông sen nổi trên mặt nước".
 
                - 
                
                Ngài không những thông minh mà rất đẹp. Tánh tình rất nghiêm cẩn 
                mà lại hòa nhã, khiêm tốn. Đó là điều rất hiếm. Thường thường 
                người thông minh thì hay kiêu ngạo, kiêu căng khó khiêm tốn, nhu 
                hòa. Người thông minh thì hay cãi. Nhưng ở ngài không có chuyện 
                đó, đó là đức tính của một con người toàn diện đạo đức, thông 
                minh, cần cù, nghiêm cẩn, nhu hòa, nhẫn nhục... đều có nơi Ngài.
 
                - 
                
                "Ta sẽ chia cuộc hành trình của ông làm 4 giai đoạn:
 
                - 
                
                - Từ Trường An tới Ngọc Môn Quan, hết địa phận Trung Quốc.
 
                - 
                
                - Từ Ngọc Môn Quan tới Kapica biên giới địa phận Ấn Độ, qua 
                những nước nhỏ ở Trung bộ Châu Á.
 
                - 
                
                - Giai đoạn ở Ấn Độ.
 
                - 
                
                - Giai đoạn trên đường về; như độc giả sẽ thấy, do một tình cờ 
                mà lúc về, ông theo một đường khác với lúc đi, thành thử ghi 
                chép thêm được nhiều nhận xét về một miền lúc đó còn bí mật.
 
                - 
                
                Từ Trường An ông tới Tân Châu (coi trên bản đồ), Lan Châu, rồi 
                Lương Châu (hiện là huyện Vũ Uy, Tỉnh Cam Túc) - tức Hà Tây, cửa 
                ngõ của huyện Vũ Uy, Trương Dịch, Đôn Hoàng, Tửu Tuyền).
 
                - 
                
                Chắc độc giả đã quen với tên đó. Vương Chi Hoán, một thi sĩ thời 
                Thịnh Đường, được người đương thời tặng cho tên Thi Thiên Tử nhờ 
                bài Lương Châu từ tả cảnh rừng núi hoang vu ở miền biên ải đó:
 
                - 
                
                "... Hoàng Hà viễn thượng bạch vân gian,
 
                - 
                
                Nhất phiến cỏ thành vạn nhẫn san..." 
 
                - 
                
                Tạm dịch:
 
                - 
                
                Hoàng Hà treo ngọn giữa mây xanh,
 
                - 
                
                Vạn bậc non cao, một mãnh thành
 
                - 
                
                Ngay từ đời Đường, mà có lẽ từ trước nữa, Lương Châu đã là ngã 
                ba của các con đường mòn đưa những đoàn thương nhân từ phương 
                Tây hoặc từ Mông Cổ tiến vào Trung Hoa. Các thương nhân đó gồm 
                rất nhiều giống người, ngôn ngữ, phong tục khác nhau, họp chợ ở 
                Lương Châu để trao đổi hàng hóa, tin tức và chắc chắn cũng để do 
                thám cho sự canh phòng rất nghiêm mật. Đô đốc Lý Đại Lượng được 
                lệnh phong tỏa, không cho người ngoài vô Trung Quốc và người 
                Trung Quốc lọt ra ngoài. Huyền Trang phải nấn ná chờ cơ hội, 
                nhân dịp đó ông thuyết pháp cho các thương nhân, người ta tạ ơn 
                ông vật gì thì ông đem cúng vào chùa hết."
 
                - 
                
                Nhân lúc tụ tập Ngài thuyết pháp cho các thương nhân, khi được 
                cúng dường, Ngài lại cúng cho chùa hết.
 
                - 
                
                “Hơn một tháng sau nhân lúc lính canh trễ nải, ông trốn thoát, 
                Lý Đại Lượng sai vệ binh đuổi bắt; nhờ Pháp sư Tuệ Uy phái hai 
                môn đệ là Tuệ Lâm và Đạo Chỉnh đi theo bảo hộ. Huyền Trang mới 
                thoát được. Họ đêm đi, ngày trốn, lần mò đến Qua Châu (hiện là 
                huyện Tây An, tỉnh Cam Túc).
 
                - 
                
                Thứ sử Qua Châu là Độc Cô Khai theo đạo Phật, tuy biết lệnh của 
                triều đình, nhưng làm lơ cho ông, lại chỉ dẫn đường đi cho ông 
                nữa. Từ Qua Châu, tiến lên phía Bắc ít chục dặm tới Ngọc Môn 
                Quan (lúc Đường sơ, thì Ngọc Môn Quan tương đương như huyện Yên 
                Tây ngày nay), một cửa ải nằm trên biên giới và ở bờ sông Hồ Lô 
                (nay là sông Sớ Lặc), nước chảy xiết, gió lộng suốt ngày đêm vì 
                lòng sông rất lạ lùng: Trên hẹp, dưới rộng.
 
                - 
                
                Cảnh ở đây thật là rợn tóc du khách. Một thế kỷ sau, nhà Đường 
                đã bình phục những dân tộc ở phía Tây, vậy mà các thi sĩ triều 
                Minh Hoàng, chỉ nghĩ tới miền biên tái hoang vu, hiểm trở này 
                cũng nổi lên những giọng ai oán, mà thương cho những chinh phu 
                phải đi thú ở nơi đó, và cho những người vợ trẻ của họ ở nhà đăm 
                đăm trông chồng:
 
                - 
                
                QUAN SƠN NGUYỆT - Lý Bạch
 
                - 
                
                Minh nguyệt xuất Thiên San,
 
                - 
                
                Thương mang vân hải gian,
 
                - 
                
                Trường phong kỷ vạn lý,
 
                - 
                
                Xuy độ Ngọc Môn Quan,
 
                - 
                
                Hán há Bạch đăng đạo,
 
                - 
                
                Hồ khuy Thanh hải loan,
 
                - 
                
                Do lai chinh chiến địa,
 
                - 
                
                Bất kiến hữu nhân hoàn.
 
                - 
                
                Thú khách vọng biên sắc,
 
                - 
                
                Tư quy đa khổ nhan,
 
                - 
                
                Cao lâu đương thử dạ,
 
                - 
                
                Thán tức vị ưng nhàn.
 
                - 
                
                Tản Đà dịch:
 
                - 
                
                Vừng trăng ra núi Thiên San [1] 
 
                - 
                
                Mênh mang nước bể mây ngàn đang soi
 
                - 
                
                Gió đâu muôn dặm chạy dài, 
 
                - 
                
                Thổi đưa trăng sáng ra ngoài Ngọc Môn [2]
 
                - 
                
                Bạch - đăng quân Hán đóng đồn,
 
                - 
                
                Vùng kia Thanh hải dòm luôn mắt Hồ.
 
                - 
                
                Từ xưa bao kẻ chinh phu,
 
                - 
                
                Đã ra đất chiến, về ru mấy người?
 
                - 
                
                Buồn trông cảnh sắc bên trời,
 
                - 
                
                Giục lòng khách thú nhớ nơi quê nhà,
 
                - 
                
                Lầu cao, đêm vắng, ai mà,
 
                - 
                
                Đến nay than thở ắt là chưa nguôi.
 
                - 
                
                [1] Cũng có tên là Tuyết San, ở Tân Cương, nơi đó tháng năm mà 
                vẫn còn tuyết phủ tuyệt nhiên không có hoa cỏ: Ngũ nguyệt Thiên 
                sơn tuyết, vô hoa chỉ hữu hàn. (Tái hạ khúc – Lý Bạch)
 
                - 
                
                [2] Tức Ngọc Môn Quan
 
                - 
                
                "Qua sông Hồ Lô, ra khỏi Ngọc Môn Quan rồi, lại phải tránh 5 tòa 
                phong hỏa đài báo hiệu bằng cách đốt lửa lên khi có giặc tới để 
                cho người canh ngọn đài kế đó trông thấy cũng đốt lửa lên, như 
                vậy truyền tin lần lần cho Ngọc Môn Quan."
 
                - 
                
                Ngoài Trung Quốc ra còn đặt 5 phong hỏa đài. Lúc đó họ báo tin 
                bằng cách đốt lửa lên, đài thứ 2, 3, 4 đốt lửa lên tức tin tới 
                Ngọc Môn Quan. Tới nơi cửa ải sẽ đề phòng.
 
                - 
                
                "Mỗi đài cách nhau khoảng trăm dặm (mỗi dặm khoảng 600 thước 
                tây) và đều có lính canh, đài xây giữa một vùng hoang vu, thành 
                thử ai muốn kiếm thức ăn, nước uống phải đến chân phong hỏa đài, 
                mà sẽ bị giam cầm, tra hỏi."
 
                - 
                
                Đài canh như vậy mà chỉ có tới chân đài mới có nước mà thôi. Tới 
                phong hỏa dài thì bị chận lại.
 
                - 
                
                "Thấy đường đi khó khăn, Huyền Trang lo lắng. Ngựa ông bị bịnh, 
                mới chết. Hai người mà pháp sư Tuệ Uy cho theo ông thì một người 
                sợ lệnh triều đình truy nã, đòi lộn về; còn một người ốm yếu 
                quá, không sao chịu nỗi gian lao trên đường, ông cũng cho về 
                nốt, thế là ông lại cô độc. Ông mua một con ngựa khác, sửa soạn 
                lên đường thì một người trong miền, tên là Thạch Bàn Đà xin theo 
                làm đồ đệ".
 
                - 
                
                Thạch-bàn-đà là một người Hồ (người Trung Á) xin quy y thọ giới 
                với ngài. Ông này biết đường nên xin dẫn đường đi.
 
                - 
                
                "Đêm đó hai thầy trò khởi hành, gặp một ông già. Nghe Huyền 
                Trang kể mục đích thỉnh kinh, ông già thán phục, nhưng khuyên: 
                "Thầy nên trở về đi, không tới nơi được đâu vì đường về phương 
                Tây nguy hiểm lắm; nếu gặp những đám cát di động hoặc những cơn 
                gió lửa thì không thể nào thoát được. Đã nhiều đoàn thương nhân 
                bỏ mạng trên đường rồi".
 
                - 
                
                Ông không nghe, cứ tiến, đốn cây ngô đồng bắc cầu qua sông Hồ 
                Lô. Qua bờ bên kia sông, mệt quá ông chợp mắt được một lúc thì 
                thấy người đưa đường tên Tiếu Hồ nằm cách xa ông khoảng trăm 
                bước, rút kiếm ra, rón rén tiến lại khi cách ông độ mươi bước 
                thì ngừng lại, ra vẻ do dự một chút rồi trở lui".
 
                - 
                
                Ông già Hồ đi thì đêm đó ông dắt ra một Tiếu Hồ khác giới thiệu 
                với ngài. Ngài Huyền Trang cho ông trở lui. Khi qua một chỗ rộng 
                mệt quá chợp mắt thì thấy Tiếu Hồ đứng dậy cầm gươm đi rón rén 
                lần đến bên ngài rồi do dự rút lui.
 
                - 
                
                "Gần sáng, tỉnh dậy, ông không nhắc gì đến việc ban đêm cả, lẳng 
                lặng bảo hắn đi lấy nước. Hắn miễn cưỡng vâng lời, nhưng một lát 
                sau thưa: "Con đường này dài và nguy hiểm. Ở chân phong hỏa đài 
                thứ năm mới có nước, muốn kiếm nước thì phải lẻn tới ban đêm, bị 
                chúng bắn chết mất. Thầy trò mình trở về thôi". Ông vẫn không 
                nghe cứ tiến tới. Thình lình hắn rút gươm ra, bắt ông đi trước. 
                Ông không chịu, thấy ông can đảm, bình tĩnh lạ thường, hắn không 
                dám hạ thủ, bỏ ông trốn mất".
 
                - 
                
                Mới 1 bước đầu mà thấy nguy hiểm như vậy. Vì sao hắn làm dữ như 
                vậy? là hắn khuyên ông trở lại không được thì phản làm sao? Để 
                đi một mình thì lộ ra, nếu bị bắt thì khai báo ra thì hắn sẽ bị 
                tai họa lây, cho nên hắn cố làm là khuyên ông trở về, thứ hai 
                phải giết ông đi. Cả hai đều không được cho nên phải bỏ trốn.
 
                - 
                
                "Ông lại thui thủi một mình trên sa mạc. Gần tới phong hỏa đài 
                thứ nhất, ông nấp trong lòng một con kinh khô, đợi đến tối mới 
                mò ra, kiếm nước uống. Đúng lúc ông múc nước, hai mũi tên bay 
                vèo bên tai ông, ông la lên: "Tôi là Hòa thượng ở Trường An đây, 
                đừng bắn nữa", rồi ông lại nạp mình cho lính. Người chỉ huy đài 
                đó là hiệu úy Vương Tường, một tín đồ đạo Phật".
 
                - 
                
                Điều đó chứng tỏ rằng lúc đó đạo Phật đang lan truyền rộng ở 
                Trung Hoa cho nên ông Hiệu Úy ở đây cũng theo đạo Phật. Vương 
                Tường khuyên ông đừng đi nữa, ông cũng không nghe, nói: "Bần 
                tăng đau lòng thấy rằng kinh Phật thiếu sót mà mỗi người hiểu 
                một lối không biết đâu là đạo chân truyền, nên đã nguyện qua Ấn 
                Độ học đạo. Nếu hiệu úy ngăn cản bần tăng thì giết bần tăng đi, 
                chứ nhất định bần tăng không chịu trở gót đâu".
 
                - 
                
                Thấy lòng cương quyết đó, Vương Tường đành để ông đi, sau khi 
                tặng ông ít vật thực và viết thư giới thiệu với người chỉ huy 
                đài thứ nhì. Riêng đài thứ năm thì họ Vương khuyên ông nên 
                tránh, vì viên chỉ huy không theo đạo Phật, mà tính tình hung 
                bạo.
 
                - 
                
                Ông nghe lời, qua khỏi đài thứ tư rồi đi về hướng Tây, tiến vào 
                sa mạc Hạ Diên Tích (tức sa mạc Qua-Bích, Gobi) và từ đây ông 
                rời xứ sở của tổ tiên, không biết bao giờ mới trở lại nữa.
 
                - 
                
                Nhìn lại một lần cuối cùng phong hỏa đài thứ tư, ông bùi ngùi, 
                rồi buông cương cho ngựa bước tới.
 
                - 
                
                Đường qua sa mạc dài 800 dặm, tức non 500 cây số, có tên là Sa 
                Hà (con sông cát). Người xưa đã tả sa mạc đó như vầy: "Không có 
                loài cầm, không có loài thú, chẳng có nước mà cũng chẳng có cỏ. 
                Muốn tìm phương hướng thì các bộ hành phải nhận bóng của mình và 
                tụng kinh Phật".
 
                - 
                
                Huyền Trang chắc đã làm đúng theo câu đó. Các nhà thám hiểm như 
                Christophe Colomb, Magellan vượt đại dương, tuy gặp những cảnh 
                giông tố, hoặc đói khát nhưng còn có bầu bạn, thủy thủ. Ngay như 
                Alain Gerbault, tuy một mình lênh đênh trên một chiếc thuyền 
                buồm đi vòng quanh thế giới, nhưng cũng không đến nỗi cô độc vì 
                còn tin tưởng thế giới theo dõi hành trình của mình mà tới hải 
                cảng nào cũng có người chờ đón để hoan hô. Còn Huyền Trang thì 
                thui thủi trong sa mạc mênh mông, ngày chỉ có ánh nắng gay gắt 
                của mặt trời, đêm chỉ có ánh sáng mờ mờ của các vì sao, cảnh cô 
                độc thật ghê gớm mà đức mạo hiểm của ông cổ kim chưa ai bì kịp".
 
                - 
                
                Sa mạc Gobi này rộng mênh mông, khoảng 800 dặm Anh. Năm trước có 
                chuyến đi Mông Cổ tôi đã có dịp tới nơi đó. Họ làm một số nhà 
                cho khách du lịch đến đó ở lại đôi ba ngày để nhìn cảnh sa mạc 
                và tận hưởng không khí trong lành ở đây. Tôi đến đó được hai 
                đêm. Hôm đó họ đưa chúng tôi đến thăm một trại nuôi lạc đà. Ngồi 
                trên
                xe hơi anh lái xe tìm con đường đi mau nhất để tới nơi sở 
                nuôi lạc đà, nhưng anh cũng bị lạc. Khi tìm được đường anh trở 
                lại chỗ xuất phát cũng mất cả hàng giờ. Giữa sa mạc Gobi nhìn ra 
                toàn là cỏ lúp xúp, núi đá và chân trời mà thôi.
 
                - 
                
                Mênh mông quá, đi một mình giữa sa mạc, khiếp quá! Ông Nguyễn 
                Hiến Lê có cái hay là đem so sánh ngài Huyền Trang với các nhà 
                thám hiểm khác. Các nhà thám hiểm khác mặc dù đi trên biển mênh 
                mông một mình nhưng mà hai bên bờ có người chầu chực họ, theo 
                dõi họ, tiếp tế nước cho họ khi họ đến nơi. Chứ Ngài Huyền Trang 
                đi không ai đưa, đến không ai đón, đi thì đi lén, may mắn lắm 
                trên đường đi nếu gặp bạn bè họ giúp cho một đoạn đường mà thôi. 
                Trước mắt không biết ai là người đón vì ai biết ngài là Huyền 
                Trang đâu? Khi so sánh như vậy, Nguyễn Hiến Lê đã cho thấy sự kỳ 
                vĩ của ngài Huyền Trang hơn các nhà thám hiểm trước trên thế 
                gian.
 
                - 
                
                "Ông tìm suối nước mà không thấy, chỉ thấy những đội binh mã 
                nhung phục bằng nỉ và da thú, cưỡi lạc đà, giáo mác sáng ngời ẩn 
                rồi hiện, tới rồi lui, biến đổi kỳ dị ở chân trời. Ông thúc ngựa 
                lại gần thì mọi vật biến đâu mất hết. Thì ra đó chỉ là ảo ảnh 
                trong sa mạc."
 
                - 
                
                Ảo ảnh thật khiếp, thấy một đội binh trước mắt, nếu không cương 
                quyết thì ngài đã đi lui rồi. Nếu cương quyết đi tới thì toàn là 
                ảo ảnh.
 
                - 
                
                "Khát quá ông lấy bầu nước ra, nhưng tay ông lóng cóng mà bầu 
                nặng, rớt xuống cát nước chảy ra hết. Chán nản ông quay trở về 
                phía Trung Hoa".
 
                - 
                
                Khát như vậy, mệt như vậy mà còn một chút nước, đến khi cầm bầu 
                nước ra thì nước cũng giọt rơi ra ngoài mất. Trong cách nói, 
                trong bầu chỉ còn 1 giọt nước hy vọng nước từ giọt ra vào trong 
                miệng mình thì gió nó bay tạt đi mất. Lúc đó là lúc ngài chán 
                nản nhất muốn trở về Trung Hoa.
 
                - 
                
                "Chỉ có lúc đó là ông nghi ngờ. Nhưng sau khi đi được 10 cây số 
                ông lại nghĩ: "Hồi đầu ta đã thề là không tới Tây Trúc thì không 
                khi nào trở về quê hương. Thà đi về phương Tây mà chết còn hơn 
                là trở về hướng Đông mà sống". Rồi ông thúc ngựa, hướng về Tây 
                Bắc mà đi.
 
                - 
                
                Cát bụi mù mịt, chạm vào da thịt chỗ nào thì muốn cháy chỗ đó. 
                Ông khát quá, lưỡi sưng, môi nứt, mắt mờ, sức kiệt không tiến 
                được nữa. Đã năm ngày và bốn đêm rồi không có một giọt nước thấm 
                môi. Ông té xỉu trên cát, nhưng chưa đến nỗi mê man, còn hăng 
                hái tụng kinh niệm Phật, tới nửa đêm thứ năm thì một cơn gió mát 
                thổi qua, cơ thể tỉnh táo lại như mới được tắm xong. Ông vỗ về 
                con ngựa, nó đứng dậy, hí hí mấy tiếng nhỏ rồi đi. Được khoảng 
                sáu cây số thì tự nhiên nó đổi hướng, không làm sao bắt nó theo 
                hướng cũ được nữa. Ông ngạc nhiên nhưng nghĩ nên để cho nó theo 
                bản năng của nó, vì chắc có gì lạ đây. Quả nhiên, đi được một 
                quảng đường nữa thì ông mừng quýnh: một đám cỏ xanh hiện ra ở 
                trước mặt. Vậy ngựa đã biết đánh hơi cỏ từ xa. Bên đám cỏ là một 
                đầm nước trong sáng như gương. Nghỉ ngơi cho hết mệt ông cắt cỏ 
                cho ngựa và múc đầy bầu nước rồi tiếp tục hành trình.
 
                - 
                
                Hai hôm sau ông tới nước I Ngô (nay ở phía nam Cáp Mật tỉnh Tân 
                Cương). Ông đã vượt quảng đường khó khăn nhất, tính ra mất 8, 9 
                ngày mới qua được sa mạc.
 
                - 
                
                I Ngô là một ốc đảo, xưa có quân đội Trung Hoa đóng, nhưng lúc 
                đó thành một thuộc địa của Thổ. Huyền Trang ngừng bước trong một 
                ngôi chùa và gặp ba vị Hòa thượng Trung Hoa. Họ mừng mừng tủi 
                tủi chạy ra tiếp đón ông, ôm ông mà khóc, không ngờ tha phương 
                còn gặp được người cố quận.
 
                - 
                
                Vua nước Cao Xương (nay thành Nhã Nhĩ phụ cận hồ Nhã Nhị ở phía 
                Tây Thố lỗ phồn tỉnh Tân Cương) ở phía Tây I Ngô, nghe tin ông 
                tới, sai sứ lại đón. Ông nhận lời đương đêm tới nơi thì vua Cao 
                Xương là Khúc văn Thái sai đốt đuốc rồi thân hành ra khỏi hoàng 
                cung để nghinh tiếp, còn Vương Phi và đại thần thì quỳ lạy. Khúc 
                văn Thái rất mộ đạo nhưng tính tình vẫn là tính tình hung hãn 
                của một dân tộc kém thông minh. Ông ta tiếp Huyền Trang rất long 
                trọng, tôn kính như trò tôn kính thầy, nhưng nhất định năn nỉ 
                Huyền Trang ở lại làm chức giáo chủ trong nước, năn nỉ không 
                được thì dọa nạt. Huyền Trang dùng lời tha thiết để chối từ mà 
                không được, phải cương quyết:
 
                - 
                
                - Bần tăng đến đây không vì danh vọng mà chỉ vì muốn qua Tây 
                Trúc nghiên cứu kinh điển tại chỗ để hiểu rõ đạo Phật rồi về 
                nước giảng lại cho mọi người. Bệ hạ không nên ngăn cản bần tăng. 
                Mà ngăn cản cũng không được. Bệ hạ chỉ có thể giữ một nắm xương 
                tàn ở lại đây thôi, còn ý chí cùng tinh thần của bần tăng thì 
                không thể giữ được.
 
                - 
                
                Khúc Văn Thái cũng không nghe, lại càng chìu chuộng hơn trước, 
                đích thân dọn cơm đứng hầu. Huyền Trang phải dùng đến chính sách 
                tuyệt thực, ngồi ngay ngắn, không nhúc nhích luôn ba ngày, không 
                uống một giọt nước. Qua ngày thứ tư, Khúc văn Thái thấy hơi thở 
                của ông suy rồi, vừa tủi vừa sợ, quì xuống xin lỗi ông, thề 
                trước tượng Phật là không dám ngăn cản ông nữa, nhưng xin ông ở 
                lại Cao Xương thêm một tháng nữa để giảng đạo cho thần dân. Ông 
                nhận lời ăn uống trở lại.
 
                - 
                
                Khúc Văn Thái sai dựng một cái lều rộng mênh mông che được 300 
                người. Mỗi ngày, hoàng gia, các vị Hòa thượng và các quan trong 
                triều tới lều nghe Huyền Trang giảng kinh.
 
                - 
                
                Khi Huyền Trang lên đường, Khúc tặng ông đủ các đồ ngự hàn cùng 
                vật dụng, vàng bạc, gấm vóc, cùng với 30 con ngựa và 25 người 
                tùy tùng, đưa ông 24 bức thư giới thiệu với các quốc vương ở 
                trung bộ Á Châu, lại sai một viên tướng đưa đường ông nữa.
 
                - 
                
                Để đáp ơn vua Cao Xương, ông dâng lên một bức khải:
 
                - 
                
                (...) Nép thấy Đại vương bẫm thụ cái khí thuần hòa của nhị nghi 
                trời đất; rủ áo làm vua, vỗ nuôi dân chúng, phía đông ví bằng 
                phong đại quốc, phía tây yên vỗ tục bách nhung (...) Lại hay 
                kính hiền yêu sĩ, hiếu thiện lưu từ, thương xót kẻ xa xôi đi 
                lại, ân cần cho tiếp đãi đến nơi, đã được vào hầu, nhuần ơn càng 
                hậu tiếp đãi chuyện trò, phát dương pháp nghĩa. Lại được nhờ 
                ngài giáng kết làm nghĩa anh em, dốc một tấm lòng yêu thuận. Và 
                lại được đưa thư cho hơn hai mươi phiên cõi Tây vực, với sức ân 
                cần, sai bảo tiễn tống. Lại thương tôi Tây du vò võ, đường tuyết 
                lạnh lùng; bèn xuống lời minh sắc, độ cho bốn chú tiểu Sa di để 
                làm người hầu hạ. Nào là pháp nhục mũ bông, đệm cừu giầy miệt, 
                hơn năm mươi thứ và lỉnh lụa vàng bạc tiền nong, để khiến cho 
                sung cái phí vãng hoàn trong hai mươi năm. Nép trong thẹn thùng 
                sợ hãi, không biết xử trí cách nào. Dẫu khơi dòng nước Giao Hà 
                ví ơn kia chẳng ít kém; cân hòn non Thông Lĩnh, đọ nghĩa nọ còn 
                nặng hơn.
 
                - 
                
                "Sau này xin bái yết chúng sư, bẫm vâng chính pháp, đem về phiên 
                dịch truyền bá những điều chưa từng nghe. Phá tan cái rừng rậm 
                rạp của những kẻ tà kiến, tuyệt hẳn cái ý xuyên tạc của những 
                mối dị đoan (...). May ra cái công nhỏ ấy, ngõ đáp lại cái ơn 
                sâu kia. Nay tiền đồ còn xa, không thể lưu ở lâu được, ngày mai 
                từ biệt, thảm thiết bùi ngùi; không xiết đội ơn, can dâng khải 
                lên kính tạ". (Đông Châu dịch - Nam phong số 142, tháng 9, 
                1929).
 
                - 
                
                Ngày khởi hành, cả triều đình, các tăng lữ và bá tánh đưa ông ra 
                tới cửa thành Tây. Huyền Trang cảm tấm lòng của nhà vua, hứa 
                trên đường về sẽ ghé Cao Xương ở lại ba năm, rồi bùi ngùi lên 
                ngựa. Nhưng sau này ông không giữ được lời hứa vì lúc đó, bộ lạc 
                Khúc Văn Thái đã bị diệt vong (bởi Đường Thái Tông).
 
                - 
                
                Từ đây danh tiếng của ông được mọi người biết cuộc hành trình 
                được dễ dàng hơn trước nhiều, tới đâu cũng được đón đưa long 
                trọng. Khúc Văn Thái đã có công lớn trong chuyến thỉnh kinh của 
                ông.
 
                - 
                
                Qua một miền rừng núi hiểm trở nổi tiếng là có nhiều mỏ bạc, 
                Huyền Trang tới A Ki Ni (này là Yên Chi tỉnh Tân Cương), một nơi 
                nghỉ ngơi của các đoàn thương nhân tá túc một đêm rồi tới Khố Xa 
                (tức nước Khất Chi, Tân Cương) rồi tới Bạc Lục Ca (tức Ôn Túc, 
                Tân Cương). Miền này rất trù phú. Vì lúc đó tuyết phủ đầy dẫy 
                Thiên Sơn không thể tiếp tục hành trình ngay được, Ông phải ở 
                lại đó hai tháng và có dịp nhận xét, ghi chép phong tục cùng văn 
                minh của Khố Xa, lưu lại những tài liệu rất quí cho các nhà khảo 
                cổ sau này; Vương quốc đó rộng khoảng ngàn dặm từ Đông qua Tây 
                và sáu trăm dặm từ Nam chí Bắc. Chu vi kinh đô được 17, 18 dặm. 
                Đất trồng kê đỏ, lúa mạch, nho, lựu, lê, mận, đào. Có mỏ vàng, 
                đồng, sắt, chì, thiết. Khí hậu ấm áp, dân thuần lương. Văn tự 
                phỏng theo của Ấn Độ. Âm nhạc tiến xa hơn các nước láng giềng 
                nhiều. Chính nhờ Khố Xa mà đạo Phật truyền qua Trung Hoa. Vì nằm 
                trên đường chở lụa từ La Mã qua Trung Hoa, nên Khố Xa buôn bán 
                rất thịnh, hạng phú gia bận những đồ gấm vóc rực rỡ.
 
                - 
                
                Tại đó, ông gặp một nhà tu hành, học thức uyên bác, là Mộc Xoa 
                Cúc Đa, đã qua Ấn Độ nghiên cứu kinh điển trên hai chục năm. Nhờ 
                sự gặp gỡ đó, ông biết thêm được nhiều về đạo Phật và Ấn Độ, 
                nhưng đôi khi cuộc thảo luận về Phật pháp có giọng hơi gay gắt 
                vì Mộc Xoa Cúc Đa theo Tiểu thừa như hầu hết các Hòa thượng 
                Trung bộ Á Châu, còn ông thì thiên về Đại thừa. Rốt cuộc, Mộc 
                Xoa Cúc Đa phải nhận rằng ngay tại Ấn Độ cũng có rất ít học giả 
                như ông.
 
                - 
                
                Khi tuyết bắt đầu tan, ông lại tiếp tục hành trình, tới Ô Hắc 
                Quốc rồi leo núi Thông Lãnh cao 7.200 thước trong dãy Thiên Sơn. 
                Ông tả núi đó rất kĩ: "Nó rất nguy hiểm, ngọn đụng trời. Từ hồi 
                khai thiên lập địa, tuyết phủ, đóng lại thành những đống băng 
                quanh năm không tan. Băng trải thành từng lớp cứng và rực rỡ, 
                liên tiếp tới chân trời, lẫn với mây. Nhìn vào chói mắt. (...). 
                Leo trèo thực khó khăn, nguy hiểm. Lại thêm lúc nào cũng có thể 
                có những cơn giông tuyết, thành thử dưới giầy có hai lớp da, dù 
                mặc áo cừu cũng vẫn run lên cầm cập. Muốn ăn hoặc ngủ thì không 
                có chỗ nào khô để nghỉ chân. Chỉ có cách là treo nồi lên chỗ nào 
                đó mà nấu ăn và trải chiếu ra để nằm."
 
                - 
                
                Cho nên sau này như Hướng đạo treo nồi lên cây mà nấu là bắt 
                chước từ đây, vì không có chỗ nào khô hết, chỉ có treo nồi nơi 
                cây, đó là cách thức mấy người đi cắm trại bắt chước. Chuyện đó 
                phát nguyên từ ngài Huyền Trang.
 
                - 
                
                "Leo núi đó, đoàn của Huyền Trang chết mất hơn chục người vì đói 
                lạnh (không kể một số lớn bò và ngựa), chỉ còn lại lơ thơ ít 
                người.
 
                - 
                
                Xuống tới chân núi, ông theo một con sông rồi tới Nhiệt Hồ (cũng 
                gọi là Hồ Tây Khắc). "Hồ này chu vi khoảng 1.000 dặm nằm dài từ 
                Đông qua Tây, phía Nam rộng và phía Bắc hẹp. Bốn bề là núi; vô 
                số sông chảy vào. Nước màu đen phơn phớt xanh, vị mặn và chát". 
                Hồ không bao giờ đóng băng, khí hậu tương đối ấm áp, nên các vua 
                chúa trong miền tới đó để trị hàn. Chính ở gần hồ tại Tô Điệp 
                Thành (nay là tỉnh Phục Long là nước Cộng hòa Cát Nhĩ Cát Tư 
                thuộc Nga. Xưa thuộc Tây Độc Quyết), mà Huyền Trang gặp Điệp Hộ 
                Khắc Hàn của xứ Đột Quyết.
 
                - 
                
                Khắc Hàn ở trong một cái lều thêu hoa bằng vàng rực rỡ chói mắt, 
                tuy là man rợ mà có vẻ uy nghi đáng kính. Khắc Hàn vốn là bà con 
                của Khúc Văn Thái nên tiếp đãi Huyền Trang long trọng, nghe ông 
                giảng kinh xong, ngưỡng mộ ông lắm, muốn giữ lại "Bạch sư phụ, 
                sư phụ đừng nên qua Tây Trúc. Xứ đó nóng lắm, đông cũng như hè. 
                Tôi ngại rằng sư phụ mới qua đó thì mặt mũi sẽ chảy ra như sáp 
                hết. Dân chúng thì đen thui, đa số lõa lồ, không biết lễ nghi gì 
                cả, không đáng cho sư phụ tới thăm".
 
                - 
                
                Sở dĩ ông này nói dân chúng Ấn Độ lõa lồ, không phải dân chúng 
                hoàn toàn lõa lồ hết đâu, vì ở xa ông chỉ biết một phần mà thôi. 
                Bởi ở Ấn Độ lúc đó có đạo Kỳ-na-giáo trong đó có phái tu Lõa thể 
                (họ ở trần truồng). Ấn Độ bấy giờ cũng có số đó. Thỉnh thoảng họ 
                cũng đi ra đường nhưng con số ấy rất ít. Chắc ông này nghe phái 
                đó nên nói là dân Ấn Độ lõa lồ, chứ thật ra không phải ai cũng 
                lõa lồ hết, chỉ có một số ít theo phái Lõa thể mà thôi.
 
                - 
                
                "Ông không nghe, Khắc Hàn phải để ông đi. Ông tiến về phương 
                Tây, tới nước Xá Thời, qua một bãi sa mạc rộng khoảng hai trăm 
                rưỡi cây số, cát đỏ, rồi đến nước Phong Mạc Kiện, một nơi có 
                thành lũy rất cổ, vì 9 thế kỷ trước Huyền Trang, A Lịch Sơn Đại 
                Đế đã qua đó để vô Ấn Độ.
 
                - 
                
                Nơi đó, một ngã ba trên đường chở lụa nên có vô số hàng hóa quí 
                giá. Đất cát lại phì nhiêu, trồng loại cây gì cũng được. Dân tộc 
                khác hẳn những miền ông đã qua. Đây bắt đầu là khu vực ảnh hưởng 
                của Ba Tư, không chịu ảnh hưởng của văn minh Trung Hoa. Tuy còn 
                vài ngôi chùa nhưng đều hoang tàn vì vua và dân không theo đạo 
                Phật mà thờ Thần lửa.
 
                - 
                
                Nhà vua tiếp Huyền Trang một cách khinh khỉnh, nhưng sau khi 
                nghe ông thuyết pháp tỏ ý cảm động, che chở ông. Có lần dân 
                chúng cầm bó đuốc đánh đuổi ông, nhà vua hay tin bắt họ, xử tội 
                chặt chân, chặt tay, ông xin giảm tội cho, và sau đó dân chúng 
                vừa kính vừa sợ, xin theo đạo Phật rất đông. Năm sau, nhà vua 
                lại sai sứ qua Trung Hoa tỏ tinh thần phục Đường Thái Tông. Lúc 
                đó Thái Tông mới biết công của ông đối với triều đình.
 
                - 
                
                Từ Phong Mạc Kiện, Huyền Trang tiến về phía Nam, khoảng ba bốn 
                trăm dặm, tới Thiết Môn Sơn, một nơi vô cùng hiểm trở, rất lợi 
                cho sử dụng võ. "Nó là một con đường hẻm thuộc địa phận A Phú 
                Hãn, ngoằn nghèo ở dưới chân hai rặng núi cao chót vót, dựng 
                đứng lên như hai bức tường đen, màu sắt, vì núi có nhiều quặng 
                sắt. Vô số ghềnh thác nằm ngang đường. Ở đầu đường là một cái 
                cửa có hai cánh bằng sắt, trên cửa treo những chuông sắt. Những 
                khi gió thổi vào, tiếng chuông vang động lên như sấm, hòa với 
                tiếng thác đổ ào, mà trời lại u ám, thì thật là cảnh địa ngục. 
                Chỉ mười tên quân giữ cửa ải đó là đủ ngăn cản thiên binh vạn 
                mã. Người Thổ nắm được yếu điểm đó mà kiểm soát hết giao thông 
                và thương mại giữa Ấn và Trung bộ Á Châu".
 
                - 
                
                Q         ua khỏi Thiết Môn Quan, đoàn hộ tống Điệp Hồ Khắc Hàn 
                từ giã trở về. Ông một mình tiến về phía đông nam, qua nhiều 
                nước nhỏ rồi một hôm tình cờ gặp một vị Hòa thượng trẻ tuổi xứ 
                Thổ Hỏa La tên là Tuệ Tánh tình nguyện làm đồ đệ, đưa ông sang 
                Ấn Độ. Hai người vòng qua phía Tây Đại Tuyết Sơn, đi trên hai 
                ngàn dặm nữa thì vị Hòa thượng được lệnh của vua Thổ Hòa La phải 
                từ biệt mà trở về Đại Hạ".
 
                - 
                
                Thế là ngài đi một mình. Lúc đó Phật giáo đã lan rộng nên tới 
                chỗ nào cũng có người theo đạo Phật hết. Các xứ Trung Á phần 
                nhiều theo đạo Phật.
 
                - 
                
                "Miền đó là miền Bactriane hồi xưa, thời thượng cổ thuộc về Ba 
                Tư, sau bị A Lịch Sơn Đại Đế chiếm, chịu ảnh hưởng Hy Lạp trong 
                một thời gian, rồi chịu ảnh hưởng của đạo Phật, có những chùa 
                Phật chứa 3.000 tăng đồ.
 
                - 
                
                Đoạn đường vòng Đại Tuyết Sơn khó đi nhất. Mây như đặc lại, 
                tuyết bay loạn suốt ngày, không bao giờ thấy mặt trời. Đường 
                cheo leo không có chỗ nào phẳng mà rộng được ba thước. Có khi 
                phải nằm rạp xuống bíu vào đá mà nhích đi từng chút, có khi phải 
                qua những cầu kết bằng mây đong đưa ở trên không, chỉ vô ý một 
                chút là té xuống vực thẳm thác đổ ào ào.
 
                - 
                
                Từ khi Tuệ Tánh trở gót, Huyền Trang lại thui thủi một mình 
                trong rừng rậm hoang vu, leo đèo Shibar cao 3.000 thước tới 
                Kapica (thung lũng Kâbul), một miền phì nhiêu phong phú; Dài 60 
                cây số và rộng 20 cây số. Đó đã thuộc về Ấn, cho nên ông gặp ở 
                Kapica nhiều nhà tu hành Ấn, theo thuyết khổ hạnh: ở trần 
                truồng, ngồi cầu nguyện trong rừng, chịu cảnh đói lạnh.
 
                - 
                
                Ông nghĩ ở đó hết mùa hè, rồi đến Lampaka, mà từ khí hậu cho đến 
                người, vật và phong tục đều khác các miền trước. Dân thì vui vẻ, 
                thích ca hát, nhảy múa, tuy nhỏ mà nhanh nhẹn, bận áo vải màu 
                rực rỡ. Đúng là dân tộc Ấn Độ. Khí hậu hơi nóng, cây cối um tùm, 
                và có nhiều khỉ. Ông qua sông Indus tới Taxila, viếng nơi mà 
                theo truyền thuyết đức Phật trong một kiếp trước đã thấy một con 
                cọp cái đói, không kiếm được mồi, để nuôi bảy cọp con, bèn động 
                lòng từ bi, từ trên cao đâm đầu xuống gần cửa hang cọp tự hủy 
                thân để nuôi cọp, vì vậy mà đất ở chung quanh đỏ như máu mà cây 
                cối cũng có sắc đỏ."
 
                - 
                
                Trong Phật giáo có một truyền thuyết đó là chuyện tiền thân đức 
                Phật, có lần đã xả thân đi để nuôi cọp. Thấy bầy cọp con 7 con 
                nằm la liệt, cọp mẹ không biết lấy gì cho con ăn cứ nằm đó mà 
                run, nên Ngài động lòng thương leo lên cây nhảy xuống bên nó để 
                thí thân cho nó, do truyền thuyết như vậy nên ở đó cây cối nó 
                mọc lên sắc đỏ.
 
                - 
                
                "Taxila thuộc về Kâcmir, một nước rất thuần đạo, có hàng trăm 
                chùa và 5.000 sư. Chính nơi đó là đất pháp nguyên của phái đại 
                thừa. Nhà vua nghe Huyền Trang cũng theo phái đó, nên rất kính 
                trọng, thân hành ra biên giới và thỉnh lên ngồi một thớt tượng 
                để cùng song song vô kinh đô. Vì gặp được một pháp sư bảy chục 
                tuổi, Pháp sư Xứng Lão[*] làu thông tam tạng, lại tìm được rất 
                nhiều kinh điển (cộng đến non một triệu rưỡi), Huyền Trang ở lại 
                Kâcmir 2 năm (từ 631 - 633) để học đạo. Trò rất kính thầy, và 
                thầy rất mến trò, tương đắc nhau lắm. Khi đã hiểu rõ kinh điển 
                rồi, Huyền Trang mới từ biệt nhà vua và thầy học để đi thăm đất 
                Phật. Tính ra, ông xa quê đã bốn năm, trải qua biết bao gian 
                lao, nhưng đã gần tới đích.
 
                - 
                
                [*] Tức Tăng Xứng, Ngài Huyền Trang học với ngài Tăng Xứng các 
                luận Cu Xá, thuận Chánh lý, Nhơn minh, Thanh minh v.v...
 
                - 
                
                Rời Kâcmir tới Cakala, rồi lại đi được ít ngày thì một hôm, qua 
                một khu rừng rậm ông cùng đoàn tùy tùng bị cướp lột hết hành 
                trang, phải trốn trong một cái hang. Nhờ có một đám nông dân hay 
                tin lại cứu đưa tới một chùa Bà-la-môn ở đó. Ông chủ chùa này 
                tin theo đạo Bà-la-môn mà cũng thích nghiên cứu đạo Phật. Huyền 
                Trang xin ở lại một tháng để tìm hiểu thêm đạo Bà-la-môn, rồi 
                mới đi tới Jâlandhars.
 
                - 
                
                Từ đây cuộc du học của ông thích thú vô cùng, tới đâu ông cũng 
                gặp những di tích của đạo Phật, tha hồ mà đọc kinh điển mà thảo 
                luận với các pháp sư, và thỉnh giáo các vị tu hành uyên bác.
 
                - 
                
                Ấn Độ nổi tiếng là một xứ huyền bí, một phần vì địa thế, một 
                phần vì tôn giáo. Về địa thế, xứ đó gần như cách biệt hẳn với 
                các xứ chung quanh; ba phía đông, tây và nam là biển, phía bắc 
                thì có dãy Hy Mã Lạp Sơn cao vòi vọi, rất bất tiện cho sự giao 
                thông; về tôn giáo thì mới bắt đầu có hai đạo chính, đạo 
                Bà-la-môn và đạo Phật, và một đạo nữa là đạo Hồi, từ Ba Tư 
                truyền vào; riêng hai đạo Bà-la-môn và Phật có rất nhiều giáo 
                phái mà lý thuyết khác nhau xa. Đất đai rộng mênh mông như một 
                lục địa nhỏ, chia ra hàng trăm nước, có nước nhỏ chỉ bằng một 
                phần trăm nước khác. Vàng bạc châu báu rất nhiều, đền chùa chỗ 
                nào cũng có. Dân rất mê tín mà chia làm nhiều giai cấp; bọn quí 
                phái mơ mộng trong cung điện hết đi săn thì tưởng thanh sắc, bọn 
                tu hành Bà-la-môn chẳng làm việc gì, chỉ tu hành và rất được 
                trọng, hạng thương nhân nhờ giàu có mà cũng được nể, hạng nông 
                dân bị khinh bỉ gần như hạng nô lệ; cuối cùng là hạng tiện dân 
                bị các giai cấp khác khinh tởm hơn là ta khinh tởm người cùi, 
                đến nỗi không ai dám lại gần họ và cái bóng của họ chiếu vào vật 
                nào thì vật đó bị coi như dơ bẩn, phải nép đi chứ không ai chịu 
                mó vào nữa.
 
                - 
                
                Tóm lại, từ văn minh đến phong tục, khác hẳn Trung Hoa. Huyền 
                Trang sống non 10 năm ở đấy, có dịp đi khắp các nơi, được trông 
                thấy bao nhiêu điều lạ, rồi bẩm sinh có óc nhận xét tinh tế, ghi 
                cả lại trong tập du ký, thành một mớ tài liệu rất quí giá chẳng 
                những giúp người Trung Hoa thời đó mà còn giúp cả những học giả 
                thời nay hiểu Ấn Độ nữa. Chính René Grosset, tác giả cuốn "Sur 
                les traces de Bouddha" cũng phải thán phục tài nhận xét của ông, 
                coi ông vào hàng chân chính nhất thời cổ".
 
                - 
                
                Kâcmir thuộc Kế Tân, một nước rất thuần đạo, một nước lúc trước 
                là cái bàn đạp, đạo Phật từ đó làm nơi xuất phát để truyền qua 
                Trung Quốc. Khi đạo Phật truyền lên Tây bắc Ấn, Kâcmir là một 
                nước hết sức thịnh hành về Phật giáo.
 
                - 
                
                "Từ Jâlandhara, ông tiến xuống phía đông nam, tới Mâthura, rồi 
                qua phương đông tới thượng lưu sông Gange (Hằng Hà). Ông tả con 
                sông đó y như một nhà khoa học: "Gần nguồn, sông rộng ba dặm, mà 
                gần cửa biển rộng 10 dặm. Nước bình thường thì trong xanh nhưng 
                thường thay màu mà mặt nước mênh mông. Rất nhiều sinh vật kỳ dị 
                sống trong sông, phần nhiều không làm hại người. Vị của nước 
                ngọt và dễ chịu, cát mịn vô cùng. Người bản xứ coi sông đó là 
                một vị thần, kẻ nào tắm nước sông thì gội hết được tội, nếu uống 
                nước hay chỉ rửa miệng thôi cũng tiêu tan được những khổ não, 
                nếu chết đuối trong sông thì được lên trời. Lúc nào trên bờ cũng 
                có vô số người tụ họp đàn ông lẫn đàn bà". Ông cho như vậy là dị 
                đoan."
 
                - 
                
                Ở Ấn Độ có 4 lối hỏa táng, tức 4 lối chôn. Thủy táng: Chết rồi 
                đem bỏ xuống sông Hằng, họ tin rằng hồn sẽ lên Thiên đàng, Thổ 
                táng: Chôn cất như Việt Nam. Hỏa táng: Tức đem thiêu lấy cốt rải 
                trên nước, núi, đồng ruộng, đất đai hay giữ lại trong hũ kỷ 
                niệm. Và không táng: Là đem bỏ trên đồi vắng cho chim và súc vật 
                ăn. Đó là 4 cách táng. Tuy nhiên ở Ấn Độ hiện nay có cách bỏ 
                xuống nước sông Hằng là cách phổ thông nhất.
 
                - 
                
                "Tới Kanauj, ông không được gặp vua Harsha (Giới Nhật), một 
                người rất mộ Phật, mỗi năm thường họp tất cả các vị pháp sư Ấn 
                Độ tại kinh đô để tranh biện về Đạo, lại mời vị nào đức độ cao 
                nhất, học thức sâu nhất lên ngồi trên ngai vàng của mình mà 
                thuyết pháp.
 
                - 
                
                Khi ngồi thuyền xuôi sông Gange với hai chục người nữa để tới 
                Prayâga, ông gặp một tai nạn kinh khủng. Thuyền qua một khúc 
                sông hai bên là rừng rậm. Một bọn cướp bơi một chục chiếc thuyền 
                ra chận, lôi cả hành khách lên bờ. Bọn họ thờ nữ thần Durgâ và 
                mỗi năm phải kiếm một người đàn ông đẹp trai, lực lưỡng, giết để 
                tế thần. Thấy Huyền Trang chúng mừng quá vì nước da ông trắng 
                trẻo mà nét mặt tươi nhã, thông minh, bàn với nhau sẽ giết ông. 
                Họ dắt ông tới sân đền, rút gươm ra định hạ thủ, thấy ông vẫn 
                bình tĩnh, họ hơi ngạc nhiên. Ông xin được tụng kinh trước khi 
                chết, chúng bằng lòng. Những người đồng hành khóc lóc thảm 
                thiết; còn ông thì càng tụng kinh, mặt càng tươi tỉnh, sung 
                sướng không biết gì ở chung quanh cả. Đột nhiên một cơn giông 
                nổi lên, thuyền nhồi lên nhồi xuống rồi chìm, cây cối gãy răng 
                rắc. Bọn cướp hoảng sợ, tưởng là ông có phép thần, quỳ xuống xin 
                ông tha tội. Ông mở mắt ra hỏi chúng đã đến giờ chết chưa."
 
                - 
                
                Cho biết rằng khi nhập tâm định tĩnh rồi thì như trong Kinh nói: 
                Nếu một người phát tâm trở về nguồn thì 10 phương thế giới đều 
                tan biến hết. Chính ngài trong giờ phút này, 10 phương thế giới 
                đều tan biến, đối với ngài không có. Cảnh rùng rợn xung quanh đó 
                đến khi nhập định thì không biết nên ngài mới hỏi: Đã đến giờ 
                chết chưa?
 
                - 
                
                "Khi hay chúng đã đổi ý ông cũng không lộ nét vui. Vừa lúc đó 
                gió ngớt.
 
                - 
                
                Sau Prayàga, ông lại thăm Kaucãmbi, rồi lên phương bắc xứ Népal 
                để viếng các đất Thánh của đạo Phật.
 
                - 
                
                Trước sau ông đã làm lễ những nơi:
 
                - 
                
                1. Nước Gavastis (Xá Vệ) nơi mà xưa đức Thích Ca trú ngụ và 
                truyền đạo lâu nhất.
 
                - 
                
                2. Nước Kapilavastu (Ca-tỳ-la-vệ) nơi ngài chào đời (hiện là 
                tỉnh Gorakhpur). 
 
                - 
                
                3. Nước Kusinagara (Câu-thi-ma-kiệt-la) gần Népal, nơi ngài 
                tịch.
 
                - 
                
                4. Thánh Bénares (Ba-nại-la nơi ngài Thành đạo).
 
                - 
                
                5. Nước Vaisali (Vệ-xá-lhiện 
                là tỉnh Besarh, nơi mà ngài thích nghỉ chân trong mùa mưa.
 
                - 
                
                6. Chùa Đề La Dà và gốc Bồ-đề.
 
                - 
                
                Trong cuộc hành hương đó, lòng ông rung động, bồi hồi tưởng như 
                lúc nào cũng được nghe những bản nhạc du dương. Đời hy sinh của 
                đức Thích Ca hiện lên, hồi này tiếp hồi khác, rực rỡ, đủ từng 
                chi tiết."
 
                - 
                
                Khi tới thăm cảnh giáng sinh của các thánh tích của Phật thì 
                Ngài tưởng tượng như ngài thấy Phật, thấy Phật từng giai đoạn 
                một.
 
                - 
                
                "Đây là chỗ mà một bà dì của Ngài, cũng là mẹ nuôi của Ngài nữa, 
                xin Ngài cho phụ nữ được qui y, sau dựng lên một chùa Phật đầu 
                tiên cho các ni cô ".
 
                - 
                
                Tức di tích của bà Ma-ha Bà-xà-ba-đề, di mẫu của Phật xin đi 
                xuất gia. Bà là người xin Phật đi xuất gia đầu tiên để làm một 
                người nữ xuất gia, mà từ trước ở Ấn Độ chưa có đạo nào khác có 
                và bà là người đầu tiên xuất gia trong giáo pháp của Ngài. Sự 
                xuất gia của bà ban đầu xin Phật không chấp nhận. Vì Phật sợ 
                người nữ vào hàng Tăng giới thì sẽ hỗn độn nên ban đầu Ngài 
                không chấp nhận. Nhưng sau nhờ Tôn giả Anan xin đức Phật nhiều 
                lần Ngài mới chấp nhận. Khi chấp nhận Ngài ra 8 điều kiện mà 
                trong luật gọi là Bát Kính Pháp. Một người nữ xuất gia thọ giới 
                rồi phải giữ Kính Pháp nữa, tức 8 pháp phải cung kính đối với 
                Tăng. Đó là người nữ xuất gia trong giáo pháp của Ngài vậy.
                
 
                - 
                
                "Đây là nơi chôn nhau cắt rốn của Ngài. Ôi cảnh vật tang thương. 
                Cung điện xưa kia ở đâu mà nay chỉ còn một vùng cỏ úa dưới ánh 
                tà dương! Kinh đô của vua cha đã bị tàn phá đến nỗi không còn 
                nhận ra chu vi nữa. Cũng may di tích còn lưu lại ít nhiều. Thổ 
                dân còn chỉ được chỗ mà Hoàng Tử đấu kiếm và thắng được đối thủ, 
                chỗ mà lần đầu tiên Ngài thấy cảnh lão, bệnh, tử; con đường mà 
                Ngài theo cái đêm bỏ cha mẹ vợ con, phú quý vinh hoa, rũ sạch 
                bụi trần để đi tìm đạo. Nhớ lại những chuyện đó, Huyền Trang 
                rưng rưng nước mắt mà thấy sự hy sinh của mình còn kém xa sự hy 
                sinh của đức Phật. Người ta dắt ông lại thăm một cánh đồng, nơi 
                mà Ngài sụt sùi thấy nông phu bừa đất, nhổ cỏ và giết những sâu 
                và trứng sâu, đau lòng tưởng như người thân của mình bị hại vậy. 
                Ôi! lòng nhân của Ngài mênh mông như vũ trụ! Và ngôi chùa ở mép 
                khu rừng kia, phải là nơi Ngài cởi bỏ áo đẹp, lấy gươm cắt tóc, 
                đưa cho Xa Nặc, bảo y trở về không? Kinh truyện còn chép Xa Nặc 
                khóc ròng và con ngựa của Ngài cũng cảm động, liếm chân Ngài 
                trước khi từ biệt. 
 
                - 
                
                Đây là chỗ Ngài tịch. Đã hơn 11 thế kỷ rồi. Ngôi nhà của người 
                thợ rèn đã mời Ngài dùng bữa cơm cuối cùng còn đó. Mà chỗ kia là 
                nơi Ngài nằm nghỉ, nơi người ta cất hỏa đàn để thiêu Ngài.
                
 
                - 
                
                Ở Bénarès ông đi thăm Lộc viên, nơi Ngài thuyết pháp lần đầu cho 
                năm đệ tử đầu tiên. Huyền Trang còn nghe văng vẳng lời Ngài dạy:
 
                - 
                
                "Hỡi các Tỳ-kheo! Có hai thái cực mà ta phải tránh, một cái là 
                đời hoan lạc, nó thấp hèn, phù phiếm; một là cái đời khổ hạnh, 
                nó thê thảm, xấu xa và vô ích... Hỡi các Tỳ-kheo, đây là chân lý 
                về đau khổ:sanh, lão, bệnh, tử, phải xa cách cái gì mình yêu, đó 
                là khổ. Và đây là nguồn gốc của khổ: Lòng dục (...). Và đây là 
                chân lý về phép diệt khổ: Diệt được lòng dục đó là diệt được khổ 
                ".
 
                - 
                
                Ông ngừng lại lâu ở gốc Bồ-đề. Đây mới là đất Thánh của đạo 
                Phật, nơi đức Thích Ca nhập định và giáo đạo. Hiện nay gốc Bồ 
                -đề cũ không còn, nhưng lúc ông tới thì nó vẫn tươi tốt: "Thân 
                cây trắng vàng, lá xanh và láng, mùa hè cũng như mùa đông đều 
                tươi tốt. Nhưng tới ngày lễ Niết-bàn thì rụng hết một lượt rồi 
                hôm sau mọc ra mơn mởn. Ngày đó các vị vua chúa lại tưới sữa vào 
                gốc cây, đốt đèn, trưng bông, lượm ít lá rồi về". Sau này người 
                ta xây một bức tường gạch chung quanh và cất một ngôi chùa ở gần 
                cổng bắc vòng thành. 
 
                - 
                
                Cạnh gốc cây có một tượng Phật. Người ta đồn có lời sấm rằng khi 
                tượng đó bị đất lấp kín thì đạo Phật thất truyền ở Ấn Độ. Huyền 
                Trang thấy tượng đã bị vùi tới ngực, đoán chỉ độ 200 năm sau thì 
                bị vùi trọn. Lạ lùng thay, tới thế kỷ thứ 9, đạo Phật cực suy ở 
                Ấn, trừ vài miền như Magadha và Bengale, không còn mấy người 
                theo nữa. 
 
                - 
                
                Ông quỳ ở gốc cây, than thở, cầu nguyện rồi đi thăm cái hồ xưa 
                của đức Thích Ca hay lại tắm, giặt, trước khi lại chùa Nâlandà 
                (nước Magadha ) lưu học.
 
                - 
                
                Ấn Độ có hàng vạn ngôi chùa mà Nâlandâ lớn nhất, đẹp nhất, cũng 
                là trường đại học cổ nhất. Gần như một thành thị riêng biệt."
 
                - 
                
                Trường đại học cổ nhất ở Ấn, trước cả các trường đại học Tây 
                phương. Huyền Trang đến là đầu thế kỷ thứ 7, cuối thế kỷ thứ 6, 
                khi ấy trên thế giới chưa có mấy Đại học hết. Nalanda có một 
                trường Đại học là cao nhất, chứa cả 3.000 Tăng. Người nào muốn 
                vào học phải qua một cuộc hạch hỏi mới vô học được, cho biết 
                rằng Phật giáo thời đó rất thịnh hành. Chùa dựng lên 700 năm mà 
                ngài Huyền Trang đến đó cuối thế kỷ 6, như vậy là dựng lên trước 
                cuối thế kỷ 1 trước Tây lịch. 
 
                - 
                
                "Chung quanh là một bức tường gạch, ở trong có hàng chục ngôi 
                chùa, vô số nhà ở và phòng hội họp, phòng tụng kinh. Đứng ở các 
                hành lang nhìn ra: Nóc nhà như "bay lên trên khói", "phong vân 
                nói ở chung quanh" mà "sen xanh rực rỡ trên dòng nước trong". 
                Giọng văn ông khi tả cảnh đó bóng bẩy như giọng thi sĩ Trường 
                An.
 
                - 
                
                Chùa có một thư viện rất cổ và đầy đủ: Kinh Đại thừa, Tiểu thừa, 
                Phệ đà (trên 150 bộ ), rồi sách thuốc, thiên văn, địa lý, toán, 
                kỹ thuật... luôn luôn lúc nào cũng có mười ngàn tăng lữ lại học 
                thuyết Đại thừa. Kỷ luật rất nghiêm, từ khi chùa dựng lên tới 
                lúc đó, trên 700 năm, chẳng những thường dân mà các vua chúa 
                cũng kính trọng tinh thần của tăng lữ trong chùa, chu cấp cho 
                rất nhiều: mỗi ngày 200 gia đình đem gạo, sữa, bơ, trái cây lại 
                cúng.
 
                - 
                
                Vị sư chủ trì là Giới Hiền pháp sư (Cilabhadra), một nhà học giả 
                uyên bác nhất thời đó, năm ấy đã 106 tuổi mà óc vẫn sáng suốt. 
                Hay tin Huyền Trang tới, pháp sư sai 200 tăng lữ và hàng ngàn 
                tín đồ cầm cờ phướn, dù, đem hương hoa đi đón rước. Tới chùa, 
                Huyền Trang lại chào pháp sư; theo tục trong miền, cũng quỳ gối, 
                đập đầu vào sàn, lạy, xin nhận làm môn đệ. Giới Hiền pháp sư cảm 
                động đến sa lệ: "Ít tháng trước, ta đau nặng, chỉ mong được mau 
                giải thoát. Một đêm ta nằm mộng thấy ba vị ra lệnh cho ta phải 
                sống để đợi một Hòa thượng Trung Hoa tới mà truyền đạo cho. Bây 
                giờ con tới đây, hợp với mộng đó lắm."
 
                - 
                
                Ngài Giới Hiền là Pháp chủ và 106 tuổi thọ. Thân tứ đại đang 
                hành hạ và ngài muốn giải thoát nhưng đêm nằm mộng thấy 3 vị 
                thần nhân bảo là phải đợi 1 vị sư Trung Hoa đến và truyền đạo 
                cho họ rồi mới giải thoát, thì ngài Huyền Trang tới.
 
                - 
                
                "Vì quá già, từ lâu Giới Hiền pháp sư không giảng kinh nữa, lần 
                này mới ráng giảng cho Huyền Trang bộ luận trọng yếu nhất là bộ 
                Du Già luận".
 
                - 
                
                Du-dà là luận Duy thức học, 100 cuốn.
 
                - 
                
                "Ngày khai giảng, tăng lữ và tín đồ các miền chung quanh họp lại 
                đông như ngày hội. Huyền Trang học rất tiến tới, trong số vạn sư 
                đồ ở chùa, may lắm được 10 người theo nổi ông.
 
                - 
                
                Ông ở chùa 15 tháng (634 sau C.N) học hết bộ Du Già luận và học 
                thêm triết Bà-la-môn và Phạn ngữ, soạn được một cuốn ngữ pháp 
                tiếng Phạn giản lược mà rất đúng.
 
                - 
                
                Ông xin phép Giới Hiền pháp sư đi chu du Ấn Độ để tìm hiểu thêm 
                các giáo phái khác, nhất là tình hình Phật giáo ở mỗi nơi.
 
                - 
                
                Ông thăm xứ Bengale, xuống hải cảng Tâmralipti, trên vịnh 
                Bengale định đóng ghe ra đảo Tích Lan, (trung tâm của phái Tiểu 
                thừa) nhưng có kẻ khuyên ông đừng đi đường biển, vì sóng gió, 
                ông bèn theo đường bộ, men biển mà tiến xuống Tây Nam, tới ngang 
                đảo Tích Lan rồi sẽ đón ghe, như vậy chỉ mất ba ngày biển.
 
                - 
                
                Trên đường, ông thăm xứ Odradeca, Kalinge, Andhra, Pallava (ông 
                tới đây năm 640).
 
                - 
                
                Theo René Grousset, Huyền Trang không qua đảo Tích Lan vì trong 
                đảo đương có nội loạn và nạn đói, nhưng theo ông Trần Hà trong 
                bài Trần Huyền Trang và chuyến thỉnh kinh lịch sử (Bách Khoa số 
                57, 68 và 60) thì Huyền Trang có vượt biển qua Tích Lan, chưa rõ 
                thuyết nào đúng.
 
                - 
                
                Tới cực Nam Ấn, ông theo bờ biển phía Tây, mà lên tới gần ranh 
                giới Ấn Độ - Ba Tư, qua những xứ Mahârâshtra, 
                
                Nasik, 
                Bharukacha. Nhận xét được điều gì ông cũng ghi chép kỹ lưỡng. Mà 
                những nhận xét đó thường rất đúng, chẳng tính tình cũng giống 
                Mahratte ở nước Mahârâshtra (Calukya), hồi ông đi qua ra sao, 
                thì bây giờ cũng vậy; bình dị, ngay thẳng, nhưng tự ái và nóng 
                tính, trọng nghĩa và khinh chết hy sinh để báo ân mà mạo hiểm để 
                báo oán, và rất đàng hoàng, báo trước cho kẻ thù biết rồi mới ra 
                tay. 
 
                - 
                
                Tướng của họ mà bị cầm tù thì thà chịu chết như không chịu cái 
                nhục để kẻ thắng bắt mình phải bận quần áo đàn bà. Giống người 
                đó là giống thượng võ nhất ở Ấn Độ.
 
                - 
                
                Những ghi chép của ông về công việc dẫn thủy nhập điền và những 
                tơ lụa của Ba Tư cũng rất đúng, mặc dù ông qua xứ đó mà chỉ nghe 
                người ta kể lại.
 
                - 
                
                Đến cực Tây Ấn Độ sau khi khảo sát phong tục, tôn giáo, kinh 
                điển trong các chùa khắp nơi (có chỗ ông ở lại học đạo 1, 2 
                năm), ông băng qua trung bộ Ấn mà qua phía đông, tới xứ 
                
                Magadha 
                và trở lại chùa Nâlandâ. Lần này ông ôn lại tất cả những điều đã 
                học được, rồi suy nghĩ để tìm chân lý.
 
                - 
                
                Giới Hiền pháp sư vẫn còn sống sai ông chủ trì cuộc diễn giảng 
                về Nhiếp đại thừa luận. Ông Trần Hà, trong bài đã dẫn, chép 
                rằng:
 
                - 
                
                "Bây giờ nhà sư Tử Quang, cũng được xem là đệ tử hữu danh của 
                Giới Hiền pháp sư, không phục sự chủ trì của Huyền Trang..., 
                nhưng khi Huyền Trang viết 3.000 câu tụng "Hội tông luận" thì cả 
                chùa Tăng chúng đều phục cả, Giới Hiền pháp sư cũng khen nức nở. 
                Tử Quang thấy sự học của mình còn non kém, xấu hổ bỏ chùa ra đi, 
                hơn năm sau mới trở lại.
 
                - 
                
                "Cũng lúc ấy, có một người Bà-la-môn viết 40 điều lý luận đem 
                dán trước cửa chùa Na-lan-đà, thách rằng: - Nếu ai bác được điều 
                của ta, ta sẽ tự cắt đầu tạ lỗi.
 
                - 
                
                Mấy ngày sau, vẫn chưa ai dám biện bác. Huyền Trang bèn thỉnh 
                Giới Hiền pháp sư đến chứng kiến để ông tranh luận với người 
                Bà-la-môn ấy. Rốt cuộc, người Bà-la-môn đuối lý và yêu cầu được 
                làm theo lời hứa. Huyền Trang đáp: - Hòa thượng không được sát 
                sanh.
 
                - 
                
                Những truyện đó không chắc đã đúng nhưng có thể tin được. Một 
                người đã từng trải, học rộng, bẩm tính lại ôn hòa, nhã nhặn như 
                ông tất không hiếu thắng; nhưng trong một xứ giáo phái lộn xộn 
                như Ấn Độ, lại được mục kích những cuộc tranh biện rất thường 
                giữa các giáo phái, thì thế nào ông cũng phải đưa ý kiến, có khi 
                để hòa giải, cũng có khi để vạch chỗ sai lầm. Ta đã biết, ông 
                cũng như đa số các Hòa thượng uyên bác của Trung Hoa, thiên về 
                Đại thừa, ông đứng ra hòa giải các tiểu phái trong giới theo Đại 
                thừa ở Ấn, bảo rằng cái hại là do người trước chú thích kinh 
                điển theo ý riêng của mình, nhưng cái hại đó không lớn, chẳng 
                qua chỉ là đại đồng tiểu dị, vậy ta nên bỏ tiểu dị mà theo đại 
                đồng cho khỏi xung đột nhau.
 
                - 
                
                Đối với Tiểu thừa, ông nghiêm khắc hơn. Ông chỉ trích mạnh nhất 
                là đạo Bà-la-môn, và những giáo phái chủ trương khổ hạnh, theo 
                những tục kỳ cục, dã man. Có bạn lấy tro cọ vào người tới khi da 
                trắng bệch ra cho như vậy mới đắc đạo. Có kẻ không bận quần áo, 
                tóc lông đều nhổ hết, trần như con nhộng. Có tinh thần Khổng 
                học, có óc lương tri, ông không chịu được những xuẩn động đó. 
                Ông bực mình thấy những "tu sĩ" đeo vào cổ một chuỗi mảnh sọ 
                người, hoặc bận những quần áo dính đủ các thứ dơ, ăn những thịt 
                thối để cho "tâm hồn được giải thoát".
 
                - 
                
                Vua một nước láng giềng, nước Kamarùpa (vua Cưu-ma-la nước 
                Ca-ma-lâu-bà, hiện này là tỉnh Assam) hâm mộ tài ông, mời ông 
                tới kinh đô giảng kinh. Nhưng đồng thời vua Harsha (vua Giới 
                Nhật), một vị quân chủ hùng cường nhất Ấn Độ thời đó, cai trị 
                gần hết Bắc Bộ Ấn, lại có tài văn thơ rất sùng đạo Phật, cũng 
                muốn rước ông lại kinh đô là Kanauj (Khúc Nữ thành). Vua Kamrùpa 
                phải phục tùng vua Harsha, bỏ chương trình của mình, rồi cùng 
                hai vạn thớt voi, ba vạn thuyền, dẫn cả binh lính hộ tống Huyền 
                Trang tới Karughira, chỗ vua Harsha đương cắm trại. Huyền Trang 
                tới vào lúc tối. Nóng lòng, vua Harsha không chịu đợi đến sáng 
                hôm sau, sai đốt đuốc rồi cùng các tướng tá đi đón. Gặp Huyền 
                Trang, nhà vua quỳ xuống đất, hôn chân ông, đeo hoa đầy người 
                ông. Ít bữa sau nhà vua rước ông và vua Kamarùpa về kinh đô là 
                Kanauj (năm 643). Quân đội của hai nước lần đó họp lại; thành 
                một cuộc rước long trọng chưa từng thấy. Tiếng chuông, tiếng 
                trống, tiếng đờn, tiếng sáo vang lừng trên sông. Tiểu vương các 
                nước chư hầu cũng lại tiếp rước. Tính ra có 18 quốc vương trung 
                bộ Ấn Độ, ba ngàn tăng lữ Đại thừa và Tiểu thừa, hai ngàn 
                Bà-la-môn và một ngàn tăng lữ ở chùa Nâlandâ tụ họp tại Kanauj 
                để nghe ông thuyết pháp.
 
                - 
                
                Đàn dựng lên rồi, tượng Phật bằng vàng đã rước lại. Tượng Phật 
                tới đâu thì vua Harsha cho rắc vàng bạc, châu báu tới đó. Rồi 
                tiệc dọn cho mọi người; bảo vật tặng cho tăng lữ.
 
                - 
                
                Huyền Trang ngồi ghế Luận chủ, giảng về phá ác kiến luận và 
                nhiều nguyên lý Đại thừa khác. Vua Harsha lại cho chép bài giảng 
                của ông, đem dán ở cửa để mọi người coi, dưới bài thêm rằng hễ 
                ai vạch được một chỗ sai thì để đền ơn, nhà vua sẽ cho người đó 
                được chặt đầu mình. Huyền Trang đâu có muốn như vậy! Khi chính 
                trị xen vào tôn giáo thì chân lý phải lu mờ! Được 18 ngày mà vẫn 
                không có ai dám lại biện luận với ông cả. Vua Harsha cả mừng, 
                tuyên bố là phái Đại thừa đã toàn thắng và tặng Huyền Trang một 
                vạn đồng tiền vàng, ba vạn đồng tiền bạc, một trăm bộ quần áo 
                bằng vải tốt, một thớt voi, đỡ ông lên ngồi trên bành, dạo khắp 
                kinh đô. Tăng lữ phái Tiểu thừa và Bà-la-môn oán lắm, nhưng 
                không dám bạo động. Vua Harsha đem hết cả châu báu của cải trong 
                kho phân phát cho dân chúng, chỉ giữ một bộ đồ vải thô. Nhưng 18 
                vua chư hầu của ông ta vội vàng thu nhặt của cải trong dân gian 
                để mua lại những bảo vật mà vua Harsha đã phân phát rồi tặng lại 
                nhà vua. Thế là châu lại về hợp phố mà vua Harsha được tiếng 
                khen là theo đúng bài học từ bỏ phú quí của đức Thích Ca.
 
                - 
                
                Huyền Trang không phục nhưng cũng không dám chỉ trích, xin phép 
                về Trung Quốc. Nhà vua giữ lại, các tăng lữ chùa Nâlandâ cũng 
                khuyên ở lại. Ông đáp:
 
                - 
                
                "Trung Hoa ở xa Tây Trúc, đường đi lại hiểm trở cho nên đạo Phật 
                truyền tới trễ mà ít người hiểu được kỹ lời dạy của đức Thích 
                Ca. Chính vì vậy nên bần tăng mới lặn lội đến đây để cầu đạo, 
                nay đã học xong, xin được về nước để chỉ lại cho những người 
                không được may mắn lại đất Phật như bần tăng. Bần tăng đâu dám 
                quên lời khuyên tự giác rồi giác tha của thầy".
 
                - 
                
                Vua Harsha (Giới Nhật) nghe vậy không dám cản nữa, nhưng xin cho 
                sứ giả đưa về đường biển để có dịp trình quốc thứ lên vua Thái 
                Tông. Ông cũng từ chối vì đã hứa với vua Cao Xương là khi về ghé 
                nước đó ở lại ít năm: Món nợ danh dự đó không thể không trả.
 
                - 
                
                Vua Harsha tặng ông nhiều bảo vật, thớt voi, sai một đoàn hộ 
                tống ông tới biên giới Ấn, lại viết nhiều thứ thư giới thiệu ông 
                với các vua các miền ông đã qua. Còn kinh điển và tượng Phật thì 
                sai người chở theo. Vua Kamarùpa (Assam) cũng tặng ông một chiếc 
                áo ngự hàn, và cùng với vua Harsha đưa ông mấy chục dặm ra khỏi 
                thành. Lúc từ biệt ai nấy đều sa lệ.
 
                - 
                
                Lòng quyến luyến của hai quốc vương đó thực cảm động. Ba ngày 
                sau, Huyền Trang ngạc nhiên thấy một đoàn kinh 
                đuổi theo đi đầu là hai vua, lại tiễn thêm một đoạn đường nữa, 
                rồi lại bùi ngùi lúc chia tay. Lần này thì vĩnh biệt. Bốn năm 
                sau vua Harsha bị giết và một đoạn sử rực rỡ của Ấn Độ kết thúc.
 
                - 
                
                Huyền Trang nghỉ ở Bilsar (phía bắc Kansuj) hai tháng trong mùa 
                mưa năm 643, rồi đi ngược con đường cũ, qua Jàlandhara Taxila. 
                Miền đó đầy kẻ cướp nhưng ông được yên ổn vì họ hiểu công việc 
                thỉnh kinh của ông.
 
                - 
                
                Đầu năm 644, ông qua sông Indus. Tới giữa sông, sóng nổi lên dữ 
                dội, một chiếc thuyền nghiêng ngả, người giữ kinh té xuống nước, 
                cứu được, nhưng mất nhiều cuốn kinh chép tay và nhiều hạt giống.
 
                - 
                
                Vua nước Kapica hay tin ông tới, lại đón ông ở bờ sông, thấy vậy 
                sai người đi chép ngay những kinh đã mất. Nhiều vua khác cũng đi 
                xa hàng chục dặm để tiễn biệt ông vì tới đâu dân chúng cũng tiếp 
                rước ông long trọng. Tính ra ông ở Ấn Độ 10 năm."
 
                - 
                
                Ở Ấn Độ 10 năm, đi về 7 năm.
 
                - 
                
                "Coi trên bản đồ, độc giả thấy tới Badakhsan ông không theo con 
                đường cũ đưa tới Thiết Môn Quan mà rẽ qua hướng đông.
 
                - 
                
                Vua Kapica đã dự bị cho ông đủ vật thực, y phục, lại sai trăm 
                người đưa ông qua Đại Tuyết Sơn vì biết rằng quãng đường leo núi 
                đó khó khăn nhất. Ông leo lên mất 14 ngày. Cảnh vô cùng lạnh 
                lẽo, hoang vu; không có một ngọn cây, chỉ toàn đá chồng chất lên 
                nhau tới hút mắt. Núi cao và gió mạnh đến nỗi chim không dám bay 
                qua.
 
                - 
                
                Hết Đại Tuyết Sơn rồi đến Thông Lĩnh. Người trong miền vì lạnh 
                quá, sống trong hang thú vật, kể chuyện có lần hàng ngàn thương 
                nhân và lạc đà qua đó gặp cơn bão tuyết bị vùi trọn trong tuyết. 
                Họ lại kể có hai vị Phật sống, ngồi tham thiền, không ăn uống, 
                không cử động, trong một cái hang từ 700 năm rồi mà da thịt chỉ 
                khô chứ không rã. Và còn nhiều truyện quái đản hơn nữa.
 
                - 
                
                Ông tới Kashgar, Yarkand (Ka-Tan), Vu điền là một tiểu quốc 
                phong phú nhờ đất tốt, trồng dâu được. Hồi xưa Trung Hoa giữ kín 
                cách trồng dâu và nuôi tằm vì đó là nguồn lợi rất lớn. Chắc độc 
                giả đã biết thời Trung Cổ lục Trung Hoa chở qua Châu Âu đắt tới 
                nỗi cứ bắt lên cân mà đổi lấy vàng. Tương truyền vua Vu Điền 
                cưới được một công chúa Trung Hoa và công chúa đã đem lén theo 
                được một ít hột dâu và ít con tằm làm giàu cho nước của chồng mà 
                bí mật của Trung Hoa từ đó bị tiết lộ, truyền qua Byznace rồi 
                Châu Âu.
 
                - 
                
                Vua Vu Điền lưu ông lại bảy tháng để giảng đạo cho dân chúng 
                nghe. Ông nhờ một đoàn thương nhân bản xứ đem giúp một tờ biểu 
                về Trường An để xin phép triều đình được nhập cảnh (vì trước ông 
                lén đi).
 
                - 
                
                Cuối tờ biểu có đoạn:
 
                - 
                
                "... (Huyền Trang tôi) chu du lịch lãm đến mười bảy năm (tính 
                theo Trung Hoa), nay đã từ nước Bát-la-gia-già qua cõi 
                Già-tất-thí, vượt núi Thông Lĩnh qua sông Ba mê, đi về đến nước 
                Vu Điền. Vì có đem theo con voi lớn đi, nó chết đuối mất, kinh 
                bản đem về rất nhiều, chưa mướn được xe chở, vậy phải tạm đình ở 
                lại. Chưa kịp ru ruổi về để sớm yết kiến chốn hiên bệ. Khôn xiết 
                ngóng trông. Cần sai người tục nước Cao Xương tên là Mã Huyền 
                Trí theo bọn thương lữ đi về trước dâng biểu tâu lên vua nghe" 
                (Đông Châu dịch - Ông Đường Tăng Huyền Trang - 
                
                Nam 
                phong số 143, tháng 10/1929).
 
                - 
                
                Trong thời gian đó, ông cũng sai người đi lấy những bản kinh mà 
                vua Kapica sai chép lại cho ông.
 
                - 
                
                Tới địa phận Trung Quốc, ông ngừng lại ở Sa Châu (huyện Đôn 
                Hoàng) để đợi chiếu chỉ của vua Đường. Triều đình mới đầu cũng 
                bất bình vì ông dám vi lệnh, nhưng trên 10 năm đã qua, danh 
                tiếng của ông đã lên, công của ông lớn, làm vẻ vang cho nước nhà 
                ở những nơi xa lạ, nên vua Thái Tông được thư ông rất vui, xá 
                tội và bắt các quan địa phương phải tiếp đón, giúp đỡ ông trên 
                đường về.
 
                - 
                
                Một ngày đầu xuân năm 645, đường phố Trường An tưng bừng già 
                trẻ, trai gái dắt dìu nhau đi đón, hoan hô ông nhiệt liệt. Cờ, 
                phướn, võng lọng phất phới, tiếng chuông tiếng trống vang lừng, 
                hương khói nghi ngút, cảnh náo nhiệt còn hơn ngày Thượng nguyên. 
                Các hòa thượng ở kinh đô họp nhau lại khiêng kinh điển, tượng 
                Phật về chùa Hoàng Phúc.
 
                - 
                
                Ông đã xa quê mười sáu năm, đi gần ba vạn cây số qua 123 nước và 
                đem về được:
 
                - 
                
                150 Xá lợi tử.
 
                - 
                
                7 tượng Phật bằng gỗ quý cao từ thước tới 3 thước 50.
 
                - 
                
                Và 647 bộ kinh. Và dịch xong 75 bộ 1.335 cuốn.
 
                - 
                
                Ít bữa sau, ông đến thành Lạc Dương yết kiến vua ở cung Phụng 
                Lâu, vua Thái Tông hỏi sao ông đi Tây Trúc mà không tâu trước, 
                ông đáp:
 
                - 
                
                Kẻ hạ thần đã có tâu, nhưng việc nhỏ quá cho nên không được đệ 
                lên. Rồi vì quá mộ đạo, nên phải lẻn đi, thực mang tội lớn."
 
                - 
                
                Câu trả lời quá hay, quá khôn, cho nên chúng ta cũng phải bắt 
                chước. Nội một chuyện vi lịnh vua là một tội rất lớn, đến khi 
                Vua hỏi trả lời sao nói cho Vua tha tội đó đi. Ngài trả lời rất 
                khéo. Ngài cho rằng: Kẻ hạ thần đã tâu trình nhưng vì việc quá 
                nhỏ nên không đáng để ý, không đáng đệ lên. Nói như vậy Vua cũng 
                vừa lòng vì nó nhỏ quá, nên cũng không chấp làm gì.
 
                - 
                
                "Vua chỉ mỉm cười, hỏi thăm về những nước Huyền Trang đã qua. 
                Vua lại khuyên ông làm quan, ông từ chối.
 
                - 
                
                Các nhà thám hiểm Tây phương, mười nhà như một, hễ về tới nước 
                rồi thì xin triều đình hoặc chính phủ được đi nữa, mà người ta 
                cũng khuyến khích họ đi, vì lần thứ nhất chỉ là để dò đường, 
                nhưng lần sau mới là để đặt cơ sở và mưu lợi. Huyền Trang rất có 
                thể kể tình muốn giao hiếu với Trung Quốc của các vua Cao Xương, 
                Harsha, Kapica..., và xin Đường Thái Tông cho mình trở lại các 
                nước đó với một bọn thương nhân, rồi sau với một số quân đội để 
                khuếch trương đế quốc Trung Hoa như chính sách của Bồ, Ý, Hòa, 
                Anh, Pháp sau này".
 
                - 
                
                Nhưng không. Lòng ông đâu ti tiểu như vậy!"
 
                - 
                
                Các nhà thám hiểm kia không phải đi thám hiểm không đâu, họ lấy 
                tiền của của nước họ, họ tới chỗ nào thì để ý và sau dẫn quân 
                tới xâm chiếm nước đó. Ngài Huyền Trang thì không. Nếu là người 
                khác thì có thể xúi Vua Trung Hoa tới giao hảo hòa hiếu sau đó 
                đem quân xâm chiếm. Nhưng lòng ông không có ti tiện, ti tiện như 
                những nhà thám hiểm phương Tây.
 
                - 
                
                "Từ chối hết tất cả danh vọng, ông chỉ nghĩ đến việc dịch những 
                kinh ông đã thỉnh ở Ấn Độ về phổ biến trong quần chúng. Ta quí 
                ông ở chỗ đó, ông được ngồi riêng một chiếu trong hàng vĩ nhân 
                thế giới cũng ở chỗ đó. Mà công việc dịch kinh của ông cũng vĩ 
                đại như chuyến thỉnh kinh đã làm cho đạo Phật truyền bá rất mau, 
                rất rộng trong cõi Đông Á, đã làm cho tiếng tăm đời Đường chói 
                lọi trong lịch sử nhân loại.
 
                - 
                
                Mới về nước được hơn một tháng, ông bắt đầu ngay công việc dịch 
                kinh đại qui mô và mãi miết làm luôn 19 năm cho tới khi chết.
 
                - 
                
                Ta đã phục óc khoa học của ông khi đọc những trang du ký, trong 
                đó ông ghi chép rất đúng và rất tỉ mỉ từ địa thế, khí hậu tới 
                dân tình, phong tục..., các miền ông đi qua; ta lại càng thán 
                phục hơn nữa khi thấy ông tổ chức công cuộc dịch thuật rất có 
                phương pháp, rất chu đáo, tưởng như ngày nay, trong thời đại 
                khoa học này cũng chưa chắc có cơ quan văn hóa làm hơn được. Ông 
                về chùa Hoàng Phúc ở Trường An, mời các vị cao tăng thông cả Hoa 
                ngữ lẫn Phạn ngữ lại hợp tác với ông.
 
                - 
                
                Bắt đầu là phiên âm những từ ngữ Phạn về triết lý ra tiếng Hán, 
                ghi nghĩa từ ngữ, rồi tìm trong Hoa ngữ những từ ngữ để dịch cho 
                đúng, nếu không có thì tạo ra.
 
                - 
                
                Sau đó là chia nhau ra dịch, nếu ai gặp một chỗ nghi vấn thì hỏi 
                những vị "dịch chủ", tức ai gặp một chỗ nghi chủ yếu, học thức 
                uyên thâm.
 
                - 
                
                Dịch xong cuốn nào thì một người đọc bản chữ Phạn, một người dò 
                trong bản Hoa xem có chỗ nào dịch chưa sát không; nếu có thể thì 
                bàn bạc lại với dịch chủ để sửa chữa.
 
                - 
                
                Rồi còn lại một lần nữa về cách chia tiết, chương, đoạn và cách 
                chấm câu xem có đúng không. Công việc này có thể làm ngay sau 
                công việc dịch, trước công việc dò nghĩa.
 
                - 
                
                Tiếp tới việc đẽo gọt lại câu văn.
 
                - 
                
                Sau cùng lại so sánh cả hai bản nguyên văn và dịch văn lại một 
                lần nữa, xem thật đúng và điêu luyện chưa.
 
                - 
                
                Huyền Trang lãnh việc dịch những kinh khó nhất và chỉ huy công 
                việc dịch những kinh khác. Trong ba năm đầu, ông dịch được chín 
                loại kinh (trong số đó có hai bộ Đại Bồ tát Tạng kinh và Phật 
                Địa kinh); năm 648, ông đem dâng vua Thái Tông ở Ngọc Hoa cung.
 
                - 
                
                Nhà vua ngự chế bài tựa "Đại Đường Tam Tạng Thỉnh Giáo Tự", rồi 
                sai một vị Hòa thượng dùng lối chữ Vương Hy Chi chép lại để khắc 
                lên bia. Một nhà đại thư pháp Chữ Toại Lương cũng sao lại hai 
                bản, một bản khắc lên Nhạn Tháp của chùa Từ Ân, một bản tại Đồng 
                Châu, hiện hai bia đá có vẫn còn (theo Trần Hà).
 
                - 
                
                Đây là một đoạn trong bài tự:
 
                - 
                
                "Nay có thầy Huyền Trang pháp sư là kẻ lãnh tụ chốn pháp môn. 
                Nhỏ đã linh mẫn, tâm tam không, sớm tỉnh ngộ từ xưa, lớn lên lại 
                thần tình, hạnh tứ nhẫn trước bao hàm đủ cả (...), lưu tâm cõi 
                Nội từng thương chính pháp suy tư, để ý cửa huyền, lại khái thâm 
                văn sai huyễn. Nghĩa muốn chia điều tách lẽ, thêm rộng riền văn; 
                diệt ngụy tục chân, khai cho hậu học. Vậy nên ngóng đất Tỉnh qua 
                chơi cõi Tây, mạo hiểm xa đi, một mình vò võ (...). Chu du Tây 
                vực, mười lẻ bảy năm, duyệt lịch nước người, hỏi tìm chánh giáo 
                (...). Những nước kinh lịch đã qua, tóm thu được tam tạng kinh 
                văn, phàm sáu trăm năm mươi bảy bộ, đem về dịch ra truyền bá nơi 
                Trung Quốc, để tuyên dương thắng nghiệp. Thánh giáo khuyết mà 
                lại tròn, thương sinh tội mà lại phúc. Tưới tắt ngọn lửa nồng 
                Hỏa trạch, tót ra khỏi đường mê; lắng trong luồng sóng đục 
                Ái-hà, cùng bước lên bờ giác. Thế mới biết ác nhân nghiệp trụy, 
                thiện bởi duyên thăng, cái cớ thăng hay trụy đều bởi tại người 
                cả (...). Những mong kinh này thì khắp, trải bao nhật nguyệt vô 
                cùng phúc nợ nhuần xa, cùng với kiền khôn rộng khắp, ĐÔNG CHÂU 
                dịch. (Tài liệu dẫn trên).
 
                - 
                
                Tháng 10 năm đó, Hoàng thái tử cho xây chùa Từ Ân ở Trường An và 
                một viện dịch kinh trong sân chùa, mới Huyền Trang dời ban phiên 
                dịch về đó.
 
                - 
                
                Năm sau ông dịch mười bộ nữa. Năm 660, ông bắt đầu dịch bộ kinh 
                lớn nhất và khó nhất, bộ Đại bát nhã kinh. Môn đệ thấy sức ông 
                đã yếu mà kinh lại dài, đề nghị dịch tóm lại, ông không chịu, 
                cho như vậy là cẩu thả, làm hại đến nguyên ý. Ông quyết tâm dịch 
                sát, không thêm bớt. Tốn công nhất là phải tham khảo trước khi 
                dịch. Vì có ba bản Đại bát nhã kinh khác nhau, đều mang ở Ấn Độ 
                về. Gặp mỗi chỗ đáng nghi ông suy nghĩ, so sánh rồi mới dám hạ 
                bút. Tới cuối năm 663, ông đã dịch được sáu trăm quyển.
 
                - 
                
                Ngoài ra ông có để lại cho hậu thế được ba công trình này nữa:
 
                - 
                
                Bản dịch Đạo Đức kinh ra chữ Phạn để giới thiệu triết học Trung 
                Quốc với Ấn Độ.
 
                - 
                
                Viết bộ Đại Đường Tây Vực ký, gồm 12 quyển chép hết những điều 
                mắt thấy tai nghe trong chuyến thỉnh kinh qua 128 nước. Bộ này 
                chứa những tài liệu rất quí cho các nhà khảo cổ Ấn Độ và Trung Á 
                sau này, được dịch ra nhiều thứ tiếng: Anh, Pháp, Nga, Nhật, 
                Đức... và đã giúp các học giả Ấn Độ sửa lại nhiều điều sai lầm 
                trong lịch sử của họ về thế kỷ thứ 7.
 
                - 
                
                Đặc biệt nhất là bản dịch Đại thừa Khởi Tín luận từ Hoa ngữ 
                ngược về Phạn ngữ. Nguyên bản chữ Phạn của Ấn Độ đã thất lạc từ 
                lâu, nhưng ở Trung Hoa còn giữ được bản dịch ra chữ Hán; bây giờ 
                ông dịch ngược lại để đền ơn những tôn sư và bạn thân Ấn đã niềm 
                nở dạy bảo hoặc tiếp đón ông (theo Trần Hà).
 
                - 
                
                Để thực hành sự nghiệp vĩ đại đó, ông tổ chức đời sống một cách 
                nghiêm khắc. Mỗi buổi sáng ông lập chương trình phải dịch bao 
                nhiêu tờ, nếu ngày làm không xong thì đêm phải thức để làm nốt, 
                không được chậm trễ. Thường canh ba ông mới đi nghỉ, canh năm đã 
                dậy, thuyết pháp cho trên 100 môn đệ, rồi lại dịch; ngày nào như 
                ngày nấy, năm này qua năm khác, luôn 19 năm. Nghị lực cùng sức 
                làm việc của ông thực kinh thiên.
 
                - 
                
                Như tôi đã nói, trước Huyền Trang đã có vài người như 
                Cưu-ma-la-thập dịch kinh Phật. Sau ông, Nghĩa Tịnh qua Ấn thỉnh 
                thêm được bốn trăm bộ kinh nữa, nhưng dịch không được mấy. Ta có 
                thể nói trước sau, hai phần ba công dịch kinh Phật là về ông.
 
                - 
                
                Theo Lương Khải Siêu công việc đó chẳng những làm cho đạo Phật 
                phát triển mạnh ở khắp Đông Á mà còn ảnh hưởng lớn đến ngôn ngữ 
                và văn học Trung Hoa.
 
                - 
                
                Từ ngữ Trung Hoa đã giàu thêm được ba vạn rưỡi tiếng, căn cứ vào 
                bộ Phật giáo đại từ điển. Có những tiếng dịch ôm tiếng Phạn như 
                Niết-bàn, Sát-na (một thời gian rất ngắn), phù hộ (chùa Phật); 
                có tiếng dịch nghĩa tiếng Phạn như: Vô minh, chúng sinh, nhân 
                duyên, chân như... Mà thêm được 35.000 tiếng là thêm được 35.000 
                ý niệm.
 
                - 
                
                Văn bạch thoại phát đạt vì lẽ khi dịch người ta lựa những tiếng 
                bình dị cho dễ hiểu, do đó, bỏ cổ văn, dùng bạch thoại.
 
                - 
                
                Văn thể thay đổi. Phạn ngữ và Hoa ngữ khác nhau. Nhờ công việc 
                dịch mà có sự tiếp xúc, dung hòa giữa hai ngôn ngữ. Chẳng hạn 
                như kinh Phật, không dùng hư từ, đối ngẫu mà rất hay đổi 
                trang..., đặc điểm đó ảnh hưởng một phần đến văn học đời Đường, 
                nhất là về phương diện âm vận.
 
                - 
                
                - Văn nhân Trung Hoa vốn ít tưởng tượng mà hay đọc thuyết lý, 
                nhờ đọc những truyện tân kỳ trong kinh Phật mà bắt chước viết 
                những tiểu thuyết thần quái. Như bộ Sưu Thần Ký, và những truyện 
                Thủy Hử, Hồng Lâu Mộng sau này đều chịu ảnh hưởng của các kinh 
                Đại Trang Nghiêm, Niết-bàn.
 
                - 
                
                Có văn nhân thi sĩ nào ở đời Đường và cả những đời sau mà ảnh 
                hưởng lớn đến bực đó không?
 
                - 
                
                Nhưng đã đến lúc Huyền Trang thấy sức suy lần, tự biết không còn 
                sống được bao lâu nữa. Ông nhớ họ hàng, làng mạc. Các ông anh đã 
                qui tiên cả, chỉ còn một bà em. Ông về quê, mừng mừng tủi tủi 
                cùng với em đi tảo mộ tổ tiên. Vẫn còn cái tinh thần của một nhà 
                nho, mặc dù đã trên bốn mươi năm hy sinh cho đạo Phật. Tâm hồn 
                ấy đẹp quá.
 
                - 
                
                Một hôm, ông dặn dò đệ tử: "Đời này sắp hết. Thầy nằm xuống thì 
                đừng bày vẽ gì cả đấy nhé. Quấn thây trong một chiếc chiếu rồi 
                chôn trong một thung lũng, chỗ nào vắng vẻ, tịch mịch nhé?". 
                Trước khi tịch ông như bừng tỉnh, nói: "Ta thấy một bông sen lớn 
                ở trước mắt, tươi đẹp lạ lùng!". Ba mươi lăm năm trước ông thấy 
                một bông sen đưa ông từ biển cả đến ngọn núi Phật, bông sen lần 
                này sẽ đưa ông lên cõi Phật.
 
                - 
                
                Ông tịch ngày mùng 5 tháng 2 năm Lân Đức nguyên niên (644). Ngày 
                14 tháng 4, một triệu người ở Trường An và tứ xứ lại đưa linh 
                cửu ông tới an táng ở Bạch Lộc Nguyên [*]. Vua Thái Tông lúc đó 
                đã băng; Vua Cao Tông khóc ông và ra lệnh cho đám táng cử hành 
                rất long trọng. Sau đó, ba vạn người đến cất nhà cư tang ở bên 
                mộ. Trong lịch sử nhân loại, từ xưa đến nay, chưa ai được cái 
                vinh dự ấy".
 
                - 
                
                [*] Theo Roné Grosset thì ở chùa Từ Ân. Có sách nói là ở chùa 
                tây Minh. Bạch Lộc Nguyên là một khu đất ở gần chùa Từ Ân chăng?
 
                - 
                
                Trước khi chết, ngài Huyền Trang dặn, khi chết chỉ cuốn trong 
                chiếu mà chôn. Đây là điều ta cần học. Mình đâu có vĩ nhân thông 
                minh bằng ngài, đâu có khí tiết bằng ngài. Cái gì cũng thua hết. 
                Thậm chí ngài còn dặn, đừng chôn gần, chôn ở chỗ vắng vẻ để khỏi 
                ô uế.
 
                - 
                
                Trước khi đi thỉnh Kinh cũng thấy bông sen. Bây giờ nhập diệt 
                cũng thấy bông sen.
 
                - --o0o--
 
               
              
             
             | 
   
           
               
       
       |