| 
           
      
  
           
                
            
              
              
                - Thư Viện Chùa Dược Sư
 
                - PHẬT HỌC CƠ BẢN
 
                  
               
              
              
                
                   
                  - Thương 
                  Yêu
 
                  
                
                
                   
                  - Thích 
                  Nhất Hạnh
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  
                  ---o0o---
 
                  
                
                - 
                 
 
                - 
                Thưa đại chúng, hôm 
                nay là ngày Chủ Nhật 16 tháng 11 năm 1997. Đây là buổi nói pháp 
                thứ nhì tại Tu Viện Rừng Phong. Hôm nay chúng ta học về thương 
                yêu. 
 
                - 
                Chúng ta ai cũng đã 
                có thương, nhưng có lẽ ít người có cơ hội tính sổ lại tình 
                thương của mình, xem thử ta đã khổ đau như thế nào trong khi 
                thương, đã hạnh phúc như thế nào trong khi thương, và đã học 
                được gì trong quá trình thương yêu, khổ đau, và hạnh phúc đó. 
                Thật ra phần lớn trong chúng ta bận rộn rất nhiều và chưa có cơ 
                hội để ngồi lại và làm việc tính sổ ấy. Khi tính sổ như vậy, 
                chúng ta có thể học được rất nhiều từ những kinh nghiệm thương 
                yêu, khổ đau, và hạnh phúc của chúng ta. Chúng ta thương cha, 
                thương mẹ, thương con, thương cháu, thương trời, thương đất. 
                Chúng ta thương nhiều thứ lắm. Mỗi người trong chúng ta nên để 
                ra chừng bẩy ngày để suy nghĩ, take a vacation, không làm gì 
                hết, suốt ngày chỉ tính sổ thương yêu mà thôi. Và ta phải nhìn 
                cho sâu, phải thành thật, để có thể bắt đầu thấy được bản chất 
                của tình thương cũng như của những khổ đau, khó khăn, và hạnh 
                phúc mà tình thương ấy đã đem tới. Từ đó chúng ta sẽ rút ra 
                những kinh nghiệm và sẽ chuyển hóa được tình thương để tình 
                thương ấy bớt gây đau khổ cho mình và cho người, và cũng để bắt 
                đầu tạo thêm hạnh phúc cho mình và cho người mình thương. 
                
 
                - 
                Chúng ta thương, 
                nhưng thực sự ít ai biết được bản chất của tình thương. Nếu 
                chúng ta biết thực tập chánh niệm và quán chiếu thì chúng ta sẽ 
                có cơ hội nhiều hơn để hiểu biết và chuyển hóa bản chất của tình 
                thương trong ta. 
 
                - 
                Nhà văn Pháp Antoine 
                de St. Exupéry, tác giả quyển "Hoàng Tử Bé" (Le Petit Prince), 
                có nói: "Thương nhau không phải là nhìn nhau, mà là cùng nhìn về 
                một hướng" ("Aimer, ce n'est pas se regarder l'un l'autre, c'est 
                regarder ensemble dans la même direction.").
 
                - 
                Chúng ta thử xét xem 
                lời tuyên bố của ông có đúng không? 
 
                - 
                Tôi nghĩ là thương 
                nhau mình có thể ngồi nhìn nhau được chứ, miễn là đừng ngồi suốt 
                ngày mà thôi! Lâu lâu phải nhìn nhau, phải nhận diện rằng người 
                thương của mình có mặt. Nhìn nhau ở đây có nghĩa là công nhận sự 
                có mặt của người kia. Nếu thương mà không công nhận sự có mặt 
                của người kia thì người kia sẽ tủi chết, và sẽ nghĩ là mình 
                không thực sự được thương. Người kia sẽ nói: "Anh ấy không bao 
                giờ để ý đến tôi, ảnh không bao giờ nhìn mặt tôi, ảnh không bao 
                giờ ý thức là tôi đang có mặt!" Như vậy không được. Cho nên 
                chúng ta đừng nghe cái ông nhà văn đó xúi dại. Chúng ta phải 
                biết nhìn nhau và phải tập nhìn có chánh niệm. Nhìn như thế nào 
                và nói như thế nào để người kia biết mình thực sự có mặt cho 
                người đó và người đó thấy sự có mặt của mình đang được công nhận 
                và trân quý. Nếu người mình thương làm như mình không có mặt 
                trên cõi đời này, thì mình sẽ có cảm tưởng là mình không thực sự 
                được thương, là mình đang bị bỏ quên (ignored) bởi người ấy. 
                Nhìn nhau, vì vậy rất quan trọng. Nhưng mà vấn đề là khi nhìn 
                nhau mình sẽ thấy gì? 
 
                - 
                Khi thấy có cái gì dễ 
                thương thì mình thương. Bắt đầu là như vậy. Mình phải thấy người 
                kia đẹp, mình phải thấy người kia thiệt, mình phải thấy người 
                kia hiền. Ai cũng muốn thương, ai cũng cần đến cái Chân, cái 
                Thiện, và cái Mỹ. Thiện là sự hiền từ. Ai lại thương một bà 
                chằng bao giờ! Mỹ là đẹp. Quỷ Dạ Xoa xấu quá, khó thương lắm! 
                Ngoài ra, đối tượng của sự thương yêu còn phải thật (Chân.) Nếu 
                đối tượng đó chỉ là một cái bóng dáng, một cái mặt nạ, hoặc một 
                sự giả trang thì 
 
                - 
                làm sao mình thương 
                được. Nếu đối tượng đó chẳng qua chỉ là phấn sáp, chẳng qua chỉ 
                là cái hào nhoáng bên ngoài thì nó không thật. Không ai lại đi 
                thương cái giả dối. 
 
                - 
                Vì thế đối tượng của 
                sự thương yêu phải là sự thật. Trừ khi mình dại dột, bị đánh 
                lừa, thì mình mới kẹt vào cái giả ngụy mà thôi. Cho nên trong 
                khi thương ta phải sáng suốt lắm. Nếu không ta sẽ mua lầm hàng 
                giả, mà bây giờ thiên hạ bán hàng giả rất nhiều. Thiên hạ chuyên 
                đi mua cosmetic về để sơn phết. Họ dùng những phương tiện kỹ 
                thuật làm ra đủ thứ giả: lỗ mũi cũng giả, ngực cũng giả, mông 
                cũng giả, rồi đạo đức cũng giả. Giả dối nhiều lắm. Nước hoa có 
                nhiều thứ. Nước hoa có công dụng lấp đi những cái không đẹp, 
                không thơm. Cái giả dối rất nhiều, nếu không tỉnh táo mình sẽ bị 
                kẹt. Đối tượng của sự thương yêu như vậy không "chân". Đó là 
                đứng về phương diện hình hài. Còn đứng về phương diện đạo đức 
                cũng vậy. Có đạo đức giả. Nghĩa là mình không thánh thiện, không 
                hiền lành, không có lòng tốt, nhưng mình làm ra cái kiểu là mình 
                có thánh thiện, có sự hiền lành, có sự tốt bụng. 
 
                - 
                Nhiều người bị lừa về 
                chuyện giả trang đạo đức lắm. Do đó khi thương, ta phải tỉnh 
                táo. Nhưng thường thường, thương thì không có tỉnh táo. Thương 
                còn được gọi là cơn mê. Trong tâm trạng thương, vì mình không 
                được tỉnh táo nên mình mới bị kẹt vào những cái không có thật. 
                Đứng về phương diện bóng sắc cũng như đứng về phương diện đạo 
                đức, sự tình đều như vậy. Người đó không hiền mà mình tưởng là 
                hiền. Thấy bề ngoài hiền khô như vậy, nhưng mà hãy coi chừng!
                
 
                - 
                Nếu biết nhìn bằng 
                con mắt của chánh niệm, ta sẽ thấy cả ba cái chân, thiện, và mỹ 
                dính liền với nhau. Đó là tính tương tức của ba cái. Trong chân 
                phải có thiện và mỹ. Trong thiện phải có chân và mỹ. Trong mỹ 
                phải có chân và thiện. Một cái phải có hai cái kia thì mới thực 
                sự là nó được. Nếu chưa có thiện và mỹ thì đó chưa phải là chân. 
                Mình phải thấy ba cái đó tương tức. Thương là một quá trình quán 
                sát, nhưng người thương ít khi chịu quán sát. Mình để mình bị 
                vướng vào đó thôi. Bước đi mình bị té, mình bị sập bẫy. "Fall in 
                love" tức là té. Đi làm sao mà bị té? Không có chánh niệm, không 
                biết cái gì xảy ra, thế là mình bị té, bị kẹt. Có khi mình mơ hồ 
                biết là có hầm hố, có hiểm nguy nhưng mình vẫn đi, mình vẫn muốn 
                bị "té". - đời biết bao nhiêu người trẻ bị kẹt trong tình huống 
                như vậy, làm tan tành cuộc đời của mình. Đó là tại vì họ không 
                cẩn thận, cứ để cho những cái bề ngoài đánh lừa. Mình có quyền 
                thương cái chân, cái thiện, và cái mỹ, với điều kiện đó là chân 
                thật, thiện thật, và mỹ thật. Và đối tượng của sự thương yêu 
                không thể là vọng tưởng, không thể là một tri giác sai lầm. 
                Không chân mà tưởng là chân, không thiện mà tưởng là thiện, 
                không mỹ mà tưởng là mỹ, đó gọi là tri giác sai lầm (vọng 
                tưởng). Vì thế tình thương thường thường là một cơn mê, một 
                passion, một cái dream. Và khi tỉnh dậy được rồi thì trong thân 
                và trong tâm đã có biết bao nhiêu thương tích. Đức Thế Tôn dạy 
                là mình phải thương, nhưng cái thương của mình phải dựa trên cái 
                thấy chân thật chứ không nên dựa trên vọng tưởng. Khi đối tượng 
                tình thương của mình là một vọng tưởng mà không phải là sự thật 
                thì mình sẽ đau khổ rất nhiều. Có những cái đẹp thầm kín. Có 
                những cái đẹp mình phải nhìn kỹ lắm mới thấy được. 
 
                - 
                Và thường thường 
                những cái đẹp chân thật đều như vậy, mình phải nhìn kỹ mới thấy. 
                Khi cái đẹp là cái đẹp chân thật thì cái đẹp đó có khả năng nuôi 
                dưỡng mình, có khả năng làm đẹp cuộc đời mình. Vì thế thương cái 
                đẹp rất quan trọng, với điều kiện cái đẹp đó phải là cái đẹp 
                đích thực. Cái thiện cũng là cái đẹp. Ví dụ như lòng từ bi. Lòng 
                từ bi là một cái gì rất đẹp. Khi thương Đức Thế Tôn, mình thấy 
                một phần quan trọng của tình thương mình là do ở chỗ Đức Thế Tôn 
                có lòng từ bi. Mình thương tình thương của Đức Thế Tôn. Đó là 
                một thứ tình thương rất cần thiết cho cuộc đời. 
 
                - 
                Đức Thế Tôn có khả 
                năng thấy được những đau khổ ở xung quanh Ngài. Và Đức Thế Tôn 
                không quên những đau khổ đó. Đức Thế Tôn tìm những biện pháp để 
                làm vơi đi những khổ đau đó và cả cuộc đời của Thế Tôn là để làm 
                chuyện đó: chuyện nhắm tới làm vơi đi những khổ đau của mọi 
                người. Khi mình thương ai thì mình thương từ trong ra ngoài và 
                cả ngoài lẫn trong. Bên trong Đức Thế Tôn có một tình thương rất 
                lớn, cho nên mình thương cái tình thương ấy của Đức Thế Tôn. Từ 
                tình thương đó, mình muốn hòa nhập làm một với Đức Thế Tôn và 
                mình muốn tham dự vào tình thương đẹp đẽ này, mình muốn học 
                thương được như Đức Thế Tôn. Và từ từ mình khám phá ra rằng ở 
                trong mình cũng có cái đó. Nơi Đức Thế Tôn, tình thương này phát 
                hiện rất rõ. Nhưng như vậy không có nghĩa là mình không có tình 
                thương ấy trong bản thân mình.
 
                - 
                Chính Đức Thế Tôn đã 
                nói với mình là: "Con cũng có cái đó, con cũng có hạt giống từ 
                bi và tuệ giác đó". Ban đầu mình thấy nó ở nơi người khác, và từ 
                từ mình thấy nó ở ngay chính mình. Và mình trở thành đối tượng 
                thương yêu của chính mình. Mình thương tình thương đó nơi chính 
                mình. Thường thường, mình cứ nghĩ là thương tức là thương những 
                thứ ở ngoài mình, nhưng thực sự ở trong bản thân mình cũng có 
                những thứ rất dễ thương. Ttrong mình có Chân, có Thiện, và có Mỹ 
                mà mình chưa nhận diện được. Và đôi khi mình chỉ tiếp xúc được 
                với những thứ không phải là Chân, không phải là Thiện, không 
                phải là Mỹ ở nơi mình, và vì thế mình cứ tự đánh gía trị rất 
                thấp về mình. Mình có mặc cảm là mình giả dối, không có lòng từ 
                bi, không đẹp, và vì vậy mình có khuynh hướng giả trang. Mình 
                giả dối với mình, mình giả dối với người khác, mình khoác vào 
                cho mình những bóng dáng của Chân, của Thiện, của Mỹ để mình có 
                thể 'impress' được người khác. Và sở dĩ mình giả dối như vậy là 
                vì mình chưa có khả năng thấy được cái đẹp, cái thực, và cái 
                lành ở nơi mình. Chứ nếu mà mình có khả năng tiếp xúc được với 
                cái chân, Thiện, và Mỹ ở tự thân thì mình không cần giả dối nữa. 
                Mình có đức tin là: "I am something". Và lúc đó mình bắt đầu 
                sống thật với mình. Nếu mình không sống thật với mình được thì 
                mình không sống thật được với người khác. 
 
                - 
                Chúng ta có mặc cảm 
                là chúng ta không có cái đẹp, cái thật, và cái hiền. Chúng ta 
                phải nhổ gốc cho được cái mặc cảm đó. Đức Thế Tôn đã xác nhận 
                điều đó: "Con có cái Chân, Thiện, Mỹ nơi con". Chúng ta đôi khi 
                gọi Chân Thiện Mỹ này là Phật tánh. Và: "Con phải tiếp xúc được 
                với những cái đó để con đừng có mặc cảm và từ lúc đó con sẽ 
                không giả dối nữa, và con sẽ không đi kiếm, đi tìm ở bên ngoài 
                nữa, vì trong con đã có đầy đủ những cái này". Nhìn Đức Thế Tôn, 
                mình thấy Chân Thiện Mỹ rõ ràng, và khi mình soi gương vào Đức 
                Thế Tôn để thực tập, mình cũng thấy trong mình có Chân Thiện Mỹ. 
                Vì vậy thương Đức Thế Tôn là mình tạo một cơ hội để trở về 
                thương lấy chính mình. Trong giáo lý đạo Phật, trước khi mình có 
                thể thương ai mình phải thương được mình trước. Điều này rất 
                quan trọng. Self-love is the foundation for the love of others. 
                Điều này quan trọng nhưng ít người nói tới, là vì ai cũng nghĩ 
                là 'cái đó' không có trong mình cho nên mình mới đi tìm ở ngoài. 
                Và khi mình đi tìm như vậy, ít khi mình tìm ra được đối tượng 
                chân thật mà lại bị vướng mắc vào những hình tướng ngụy trang 
                bên ngoài. Vì thế đã khổ rồi mình lại khổ thêm nhiều tầng nữa.
                
 
                - 
                Mình thương Đức Thế 
                Tôn vì Đức Thế Tôn có sự vững chãi, thảnh thơi, và hạnh phúc, 
                không có gì lay chuyển nổi. Còn mình thì thiếu cái vững chãi đó. 
                Mình có cảm tưởng là mình rất dễ bị tan vỡ, rất dễ bị lung lay. 
                Cho nên mình mới đi kiếm sự vững chãi ở một chỗ khác, đi kiếm ở 
                Đức Thế Tôn. Thương là vì thiếu cho nên đi tìm. Cái 'vững chãi' 
                ấy trong Kinh gọi là bất động. 'Diệu trạm tổng trì bất động 
                tôn'. Lúc đầu mình nghĩ là mình không có, nhưng sau khi mình tin 
                vào Đức Thế Tôn và nhận Đức Thế Tôn làm Thầy thì mình được nghe 
                Ngài nói: "Con cũng có cái đó. Con phải về tìm cho được cái đó'. 
                Đức Thế Tôn có sự giải thoát, có sự tự do, có sự thảnh thơi.
                
 
                - 
                Mình cũng cần có cái 
                đó. Mình thấy là mình hệ lụy, mình thấy là mình vướng mắc, mình 
                không có tự do gì cả. Đối với các phiền não, mình trở thành con 
                mồi. Mình không có tự do đối với các phiền não tham, sân, si, 
                mạn, nghi, và kiến, thành thử mình đi tìm tự do ở chỗ khác, và 
                cố nhiên là mình đi tìm ở các bậc đạo sư. May mắn mình gặp một 
                người như Đức Thế Tôn, một người có chất liệu đích thực của sự 
                vững chãi và thảnh thơi. Và như thế mình có cơ hội trở về với 
                chính mình và tìm ra các chất liệu đó trong mình. Mình không có 
                hạnh phúc. Những cái mà mình gọi là hạnh phúc chưa phải là hạnh 
                phúc chân thật. Đó chỉ là những vui nhộn nhất thời, những ồn ào, 
                những bóng dáng giả tạo bên ngoài, để che lấp những niềm đau, 
                nỗi khổ bên trong. Mình vui nhộn như vậy nhưng đến giây phút 
                ngồi yên lại, mình thấy những cái vui đó rất giả tạo. Và niềm 
                đau nỗi khổ của mình ở dưới tiềm thức quá lớn, bắt đầu trồi lên. 
                Rồi mình lại phải đi ra, đi nhảy disco, đi nghe nhạc, mở Ti-vi 
                ... để che lấp nó. Những cái mình gọi là hạnh phúc đó không thật 
                sự là hạnh phúc. Khi mình thấy một người có hạnh phúc chân thật, 
                mình rất ham. Mình thất Đức Thế Tôn ngồi rất vững chãi, rất 
                thảnh thơi, rất an lạc. Tại sao ở đời hạnh phúc lại có thể có 
                được như thế? Mình không tin là hạnh phúc có thật. Khi gặp được 
                một người có hạnh phúc thật sự mình mừng quá. Và lúc đó mình bắt 
                đầu nghĩ là hạnh phúc có thể có được. Đức Thế Tôn dạy: "Hạnh 
                phúc đó có ở trong con.
 
                - 
                Con phải trở về tìm 
                cho được ra nó". Cuộc gặp gỡ giữa mình và Đức Thế Tôn bắt đầu từ 
                sự đi tìm những cái mình tưởng mình không có. Đến khi thật sự 
                được gặp Đức Thế Tôn, mình có cơ hội để trở về với mình và nhận 
                diện ra cái mà ngày xưa mình tưởng là không có. Thường thường 
                chúng ta có cái cảm giác thiếu vắng, không có self-sufficient. 
                Mình nghĩ mình là một cái nồi chưa có vung. Và mình đi khắp tam 
                thiên đại thiên thế giới để tìm một cái vung đậy lên cái nồi của 
                mình. 
 
                - 
                Cái vung đó có thể là 
                một người con trai hoặc một người con gái nào đó mà mình hy vọng 
                sẽ gặp được. Gặp được người yêu lý tưởng là tìm được cái vung 
                đậy lên cái nồi. Và người nào cũng có cảm tưởng mình là một cái 
                nồi không có vung. Cái nồi không có vung đó nghĩa là gì? Nhìn 
                cho kỹ thì đó là sự trống vắng. Vì những cái mình cho là mình 
                không có, tức là Chân Thiện Mỹ, nên mình đi lý tưởng hóa người 
                yêu, biến người yêu đó thành Chân Thiện Mỹ. Nhưng ác hại thay, 
                sau vài tháng hay là một năm, mình khám pha rằng người yêu của 
                mình cũng không phải là Chân, Thiện, Mỹ. 
 
                - 
                Người yêu mình cũng 
                như mình thôi, cũng là 'một cái nồi không có vung'. Hầu hết 
                chúng ta đều đi tìm trong thế giới cái nửa mà chúng ta thiếu 
                (the other hald of yourself). Và biết bao nhiêu người trong 
                chúng ta đã thất vọng bởi vì 'cái nửa kia' mới tìm ra đó, mình 
                tưởng là cái đích thực mà mình cần. Chỉ sau một thời gian, mình 
                lại khám phá ra rằng nó không phải là cái đích thực mà chúng ta 
                cần. 'Cái nửa kia', cũng như mình, đang đi tìm một cái nửa của 
                nó! 
 
                - 
                Khi Đức Thế Tôn thành 
                đạo dưới cây Bồ Đề, Ngài đã thốt lên một câu để tỏ lộ sự ngạc 
                nhiên: "Lạ thay, tất cả mọi chúng sanh đều có cái đó mà không hề 
                biết là mình có cái đó!" Cái đó là khả năng vững chãi, thảnh 
                thơi, và bản chất của giác ngộ. Chúng ta cứ trôi lăn từ đời này 
                sang đời khác trong đại dương của khổ não. Trôi lăn đi thế là để 
                đi tìm cái nửa kia. Mà đi tìm cái nửa kia là vì mình không biết 
                cái nửa kia đã nằm trong cái nửa này rồi. Bây giờ nói thì người 
                ta báng bổ, nhưng mà kỳ thực: to love is to love yourself, to 
                recognize that what you lack is within yourself. Và khi mình bắt 
                đầu khám phá và tiếp xúc được với hạt giống của Chân, của Thiện, 
                của Mỹ trong mình, thì mình bắt đầu có sự tự tin và hạnh 
                phúcchân thật chỉ có được khi lòng tự tin đó nứt mầm. 
                
 
                - 
                Ngày xưa có một thầy 
                tên là Vakhali. Thầy Vakhali thương Bụt vì Bụt đẹp quá về phương 
                diện hình thức. Thấy vị đạo sư đẹp quá, tướng hảo quang minh 
                quá, thành ra thương vậy thôi. Thầy kẹt vào bóng dáng của Bụt. 
                Thầy ngồi đó, tuy nghe pháp thoại, nhưng không nghe nhiều và chỉ 
                để ngắm Bụt. 'Yêu nhau tức là nhìn nhau' đó! Nhìn, nhưng Thầy 
                không nhìn sâu, chỉ nhìn bóng dáng bên ngoài thôi. Sau vài 
                tháng, Đức Thế Tôn biết là Thầy bị kẹt, và đi đâu Bụt cũng không 
                cho Thầy đi theo. Ngày xưa cũng không khác ngày nay. Có nhiều 
                người không tu tập, không thật sự quán chiếu, chỉ muốn hưởng sự 
                có mặt của một người khác, và kẹt vào đó mà thôi. Bữa đó, Thầy 
                Vakhali 'thất tình'. Thất tình vì bị Bụt 'hất hủi', không cho đi 
                theo. Bụt muốn giúp Thầy trị bịnh của Thầy. 
 
                - 
                Thầy đã có lần muốn 
                nhảy từ triền núi xuống để tự tử. Đức Thế Tôn biết trước cái gì 
                sẽ xảy ra. Ngài tìm cách có mặt lúc đó để dạy cho Thầy Vakhali. 
                Sau này Thầy Vakhali thoát khỏi tình trạng vướng mắc và thực tập 
                đàng hoàng. Thầy Vakhali cũng đã đi tìm một cái gì mà Thầy thấy 
                thiếu, tìm cái đẹp. Nhưng sự đi tìm không sâu sắc lắm. Và Bụt đã 
                giúp Thầy tìm đến một cái gì sâu sắc hơn. Thầy Vakhali sau này 
                bị một chứng bệnh nan y và cuối cùng Thầy đã phải tự tử bằng 
                dao. Nhưng 
 
                - 
                Bụt đã làm lơ để Thầy 
                làm như vậy. Thầy chết trong nhà một người thợ gốm. Bụt có tới 
                thăm Thầy hai hôm trước khi Thầy tịch. Quý vị muốn biết chuyện 
                Thầy Vakhali nên đọc trong 'Đường Xưa Mây Trắng'. 
 
                - 
                Thời của Bụt cũng có 
                một cô gái thuộc giai cấp hạ tiện, tên là Matanga. Cô này xinh 
                lắm và cô yêu Thầy A Nan. Chuyện bắt đầu xảy ra khi Thầy A Nan 
                đi khất thực, khát nước, và ghé vào một cái giếng để tìm nước 
                uống. Thầy thấy cô gái kia đang múc nước. Thầy nói: "Cô cho tôi 
                uống một ngụm". Cô trả lời: "Con là con gái giai cấp hạ tiện. 
                Con đâu có quyền đưa nước cho Thầy uống". Thầy A Nan thấy tội 
                nói: "Theo giáo lý của Đức Thế Tôn dạy, tôi không phân biệt giai 
                cấp. Cô cứ đưa cho tôi uống". Cô mừng quá, đưa nước cho Thầy 
                uống, và từ đó cô tương tư Thầy. Cô ngủ không được. Cô bị bệnh. 
                Rồi cuối cùng cô bàn với bà mẹ mời Thầy tới để cô có dịp tỏ 
                tình. Và hai mẹ con đã dùng bùa chú, dùng một thứ lá cây nào đó 
                làm ước trà mà khi uống vào Thầy A Nan mất cả sự tỉnh táo. Thất 
                Thầy A Nan quá giờ mà chưa về, Bụt sai các thầy khác đi tìm và 
                may mắn kiếm được Thầy A Nan trước khi Thầy làm một cái gì sai 
                với uy nghi và hại tới giới phẩm. Thầy A Nan uống xong thứ nước 
                trà kia, biết là bị trúng độc, liền ngồi im vận dụng phép thở 
                khí công. Thầy thở theo chánh niệm và đợi các thầy khác tới giải 
                cứu. Các thầy cũng đem luôn cả cô Matanga về. Tội nghiệp cho cô, 
                cô cũng cảm thấy thiếu một nửa và đi kiếm vậy thôi. 
 
                - 
                Lần này cái nửa cô đi 
                tìm là một ông thầy tu trẻ. Bụt gọi cô vào hỏi: "Con thương Thầy 
                A Nan lắm hả?" Cô trả lời: "Dạ , con thương Thầy A Nan lắm". 
                "Con thương cái gì nơi Thầy A Nan?" Bụt hỏi. Cô trả lời: "Cái gì 
                của Thầy con cũng thương. Con mắt của Thầy con cũng thương, cái 
                mũi của Thầy con cũng thương. Cái gì của Thầy con cũng thương 
                hết." Bụt nói: "Nhưng mà thương như vậy con chỉ mới thương một 
                chút xíu của Thầy A Nan thôi. Con chưa biết gì nhiều về Thầy A 
                Nan. Ví dụ như chú nguyện của Thầy A Nan, con đã thấy gì đâu. 
                Một người trẻ như vậy mà đi xuất gia là vì chí nguyện rất lớn, 
                chí nguyện độ đời, giúp cho bao nhiêu người thoát khổ. Con đâu 
                đã thấy cái đó. Nếu thấy cái đó mà con cũng thương được thì con 
                đã không cho Thầy A Nan uống thứ nước trà kia. Thầy A Nan có một 
                tình thương rất đẹp. Tình thương của Thầy A Nan là Bồ Đề Tâm, là 
                chí hướng muốn làm hạnh phúc cho nhiều người khác. Nếu con thấy 
                được tình thương đó thì con cũng sẽ thương. Và nếu con thương 
                được thì không bao giờ con muốn chiếm Thầy A Nan cho riêng một 
                mình con." Bụt dạy từ từ như vậy để cho cô thấy được cái đẹp 
                trong chiều sâu của nó. Bụt nói tiếp: "Con cũng vậy. Con cũng có 
                cái tình thương ấy trong con. Thương được Bồ Đề Tâm của Thầy A 
                Nan thì con cũng có thể thương được Bồ Đề Tâm trong con." 
                
 
                - 
                Ngạc nhiên, cô 
                Matanga hỏi: "Đức Thế Tôn muốn nói là con cũng xuất gia được? 
                Con cũng sống được một đời có lý tưởng như Thầy A Nan sao?" Bụt 
                cười: "Tại sao không?" Và rốt cuộc cô Matanga cũng được Bụt cho 
                phép xuất gia, làm Tỳ kheo ni. 
 
                - 
                Cho nên cuộc tương 
                phùng giữa ta với Đức Thế Tôn là một cơ hội để ta tìm ra được là 
                ta cũng có tiềm tàng trong ta khả năng vững chãi và thảnh thơi. 
                Và khi mình tiếp xúc được với cái vững chãi, thảnh thơi, và hạnh 
                phúc đó trong mình, mình bắt đầu có đức tin nơi mình và hạnh 
                phúc mới thật sự có được. Còn không thì mình vẫn đầy mặc cảm, 
                mình nghĩ mình không có giá trị gì, và mình vẫn tiếp tục đi tìm 
                cầu nơi một kẻ khác. Ban đầu mình tìm cầu một cái vung để đậy 
                lên cái nồi của mình. Nhưng sau thấy đậy vung rồi mà nồi vẫn còn 
                lạnh, vẫn còn trống trải, mình mới đi tìm tới một vị đạo sư. Và 
                có người đã may mắn gặp được vị đạo sư đích thực - bởi vì đạo sư 
                giả cũng rất nhiều. Vị đạo sư đích thực là vị đạo sư có khả năng 
                chỉ cho mình thấy được cái mà mình đi tìm đang nằm trong bản 
                thân của mình. Cho nên tôi luôn luôn nhắc là: một ông thầy giỏi 
                là một ông thầy giúp cho mình thấy được ông thầy trong bản thân 
                mình. The best teacher is one who can help you find the teacher 
                within yourself. Quý vị nên nhớ lời căn dặn này. Mình không thể 
                làm như Thầy Vakhali, ngày nào cũng tới ngồi kè kè bên Bụt và 
                không bao giờ có thể tự chủ được. Ngồi bên Thầy, ngồi bên vị đạo 
                sư có sự vững chãi thảnh thơi, và tiếp tục tin rằng không bao 
                giờ mình có được chất liệu của sự vững chãi, thảnh thơi trong 
                mình hết. Người thương của mình có thể là Đức Thế Tôn, có thể là 
                Thầy A Nan, cũng có thể là bất cứ ai mà bản thân biểu hiện được 
                cái Chân, cái Thiện, và cái Mỹ chân thật. Khi thương một người 
                mà ta nhận diện được chất liệu vững chãi, bình yên, thảnh thơi, 
                và từ bi nơi người ấy là ta đã có một cơ hội rồi. Ta có quyền 
                thừa hưởng những yếu tố ấy, nhưng ta phải học nhận diện những 
                yếu tố ấy, khen ngợi những yếu tố ấy, học nuôi dưỡng những yếu 
                tố ấy nơi người đó, rồi trở về bản thân mà tìm cách làm phát 
                hiện những yếu tố ấy trong ta, vì ta cũng có những hạt giống tốt 
                tiềm tàng trong tâm thức. Đây là tính Bụt, đây là kho tàng Như 
                Lai, đây là kho tàng bảo sở tự tâm. Thương cũng là giúp người ta 
                thương trở về tìm lại kho tàng ấy, phát hiện kho tàng ấy. 
                
 
                - 
                Bây giờ ta hãy tìm 
                tới một khía cạnh khác của tình thương. Mình thường nói tới 
                thương yêu như một vấn đề cá nhân, nhưng không biết thương yêu 
                cũng là một sản phẩm tập thể. Mình có thể thương chung. Love is 
                a collective practice. Khi thương Đức Thế Tôn, mình có cơ hội 
                tìm ra được Phật tánh trong chính mình. Và mình nói: Đức Thế 
                Tôn, xin Ngài cho phép con thương chung với Ngài. Mình muốn tham 
                dự vào sự nghiệp thương yêu của Đức Thế Tôn. Mình muốn làm đệ tử 
                của Đức Thế Tôn, làm con Đức Thế Tôn, tiếp tục công trình của 
                Ngài. Đó gọi là nhìn về một hướng. Ban đầu thì mình nhìn nhau 
                trước. Nhìn nhau để thấy có tôi ở trong anh và có anh ở trong 
                tôi. Sau đó chúng ta cùng thương chung. Khi mình đã có lý tưởng, 
                mình phải giúp cho người thương mình có lý tưởng đó. Đức Thế Tôn 
                thương mình cho nên Ngài chỉ cho mình thấy cái Bồ Đề Tâm trong 
                mình. Thành ra mình không thương đơn độc, cả hai đứa mình đều có 
                cái đó hết, và vì vậy mình có thể thương chung. Khi hai người 
                cùng thương chung thì hai người có hạnh phúc như nhau. Tại sao 
                anh đi một đường mà tôi lại đi một đường khác? Tại sao tôi có lý 
                tưởng của tôi, còn anh có lý tưởng của anh? Mình với Đức Thế Tôn 
                là như vậy đó, là 'associates' của nhau, 'associated lovers'! 
                Người anh, người chị, người mẹ, người cha, người hôn phối của 
                mình cũng có thể cùng đi trên con đường mình đi. Và nếu người 
                kia chưa đi chung với mình thì mình phải làm cho người kia có 
                thể thương được như mình. Và như vậy là không có sự trách móc.
 
                - 
                Trách móc là: anh cứ 
                đi con đường lý tưởng của anh nhiều quá, anh không dành cho tôi 
                thì giờ, anh không 'nhìn tôi', anh cứ nhìn về hướng của anh 
                thôi. 'You don't look at me, you only look at the direction of 
                your love. I am not included.' Cái nhìn đó vẫn là cái nhìn lưỡng 
                nguyên (dualistic view). Khi mình thương và biết cách thương thì 
                người kia cũng thương được như mình và 'chúng ta' luôn luôn có 
                nhau trên bước đường lý tưởng, trên bước đường thương. Tại sao 
                cứ phải trách móc là anh cứ lo cái lý tưởng của anh nhiều quá và 
                anh không để ý tới tôi. Chuyện nhìn nhau và chuyện nhìn về một 
                hướng phải là một. 
 
                - 
                Chúng ta bắt đầu bằng 
                câu của Antoine de St. Exupéry: "Thương nhau không phải là nhìn 
                nhau, mà là cùng nhìn về một hướng". Đến đây ta có thể trả lời 
                rằng: "Ông nhà văn ơi, ông nói lại đi: thương nhau cũng là nhìn 
                nhau để nhận diện rằng chúng ta có trong nhau, để chúng ta cũng 
                có thể cùng nhìn chung về một hướng." Phần chót là để quý vị 
                quán chiếu và phát hiện ... 
 
                - 
                 
 
                - 
                             
                Pháp thoại của thiền sư Nhất Hạnh tại Tu Viện Rừng Phong, 
                Vermont
                
 
                
                   -  
 
                
               
              
             
             | 
   
           
               
       
       |