| 
           
      
  
           
                
            
              
              
                - Thư Viện Chùa Dược Sư
 
                - PHẬT HỌC CƠ BẢN
 
                  
               
              
              
                
                   
                  - NGUYÊN 
                  LÝ SÁNG LẬP ĐẠO PHẬT
 
                  
                
                
                   
                  - Hòa 
                  Thượng Thích Đức Nhuận
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  --o0o--
 
                  
                
                - 
                 
 
                - 
                Đời sống quốc gia dân 
                tộc với hoàn cảnh địa lý và ảnh hướng khí hậu, thiên thiên, đã 
                tạo dựng cho Ấn Độ có một lịch sử khác với các quốc gia, dân tộc 
                trên thế giới. Đó là sự cố đặc biệt của xứ Ấn Độ xưa và nay. Nơi 
                có những rừng núi thâm u, tục gọi là  lục địa xanh (Pays bleus), 
                đã ảnh hưởng nhiều tới luồng tư tưởng nhân  bản, tiến bộ và giải 
                thoát sớm được xuất hiện. Thật vậy, bất cứ tôn giáo, học thuyết, 
                chủ nghĩa nào, khi mới sinh khởi, đều là phán ánh (không nhiều 
                thì ít) của hoàn cảnh, khí hậu, địa dư, xã hội, chủng tộc mà tạo 
                dựng cả. Nếu  người ta xét nó ngoài hoàn cánh thực tại lẽ dĩ 
                nhiên không thể thấu hiểu nổi. Văn hóa đạo Phật cũng do nhân 
                duyên hội ngộ như thế mà nảy mầm và thúc đẩy, tiến hóa.. 
                
 
                - 
                Hình Thể Địa Dư
                
 
                - 
                Địa lý xứ Ấn Độ mang 
                một dấu tích đạc biệt, phía tây có nguyên Béloutchistan và các 
                dày núi thuộc phía bác co rạng núi Himalayas cao vút, gồm hai 
                dây chạy song song nối liền và kéo dài tới tận biên giới Miến 
                Điện với nhiều nhánh tua tủa. Ấn Độ có 3.500 km núi chạy dài từ 
                tây sang đông và 800 km chạy từ bắc xuống nam; đấy là chưa kể 
                phía duyên hải miền tây hoàn toàn là các núi đá lởm chởm. Rằng 
                núi Himalayas sừng sững cao ngất trời phương bắc đả ngan chặn 
                các làn gió từ trung ương A Châu thổi tới và giử lại các làn gió 
                lưu tích sự ẩm ướt của gió mùa. Phần lớn các băng tuyết của núi 
                này đã tạo ra các giòng thủy lưu nuôi sống vùng bình nguyên Ấn 
                Hà. Các đường thông thương với vùng Thượng Huyền đều nằm ở phía 
                tây bắc Ấn Độ. Cả vùng tây và bắc Ấn Độ đều có các núi cao và 
                cao nguyên. Mùa đông cực rét. Mùa hè, băng tuyết tan. Sông ngòi 
                đều có thủy lưu cháy xiết. Về phía nam có gió mùa đem mưa từ Ấn 
                Độ dương vào lục địa. Vì vậy, Ấn Độ như có các biên giới thiên 
                nhiên để được sống yên bình, phát triển văn minh thành thị. Nếu 
                không nhờ có nàm nhánh sông Jhelam, Chenab, Ravi, Béas và 
                Satlédj hợp lại với sông chính Indus thì cả vùng phía tây bắc Ấn 
                Độ chỉ là sa mạc mà thôi. Vùng đất phì nhiêu nhất hiện nay của 
                Ấn Độ là hai trung nguyên Ấn Độ hà và Hằng hà, vì nơi đây dân cư 
                đông đúc, xóm làng trù phú. Mọi sinh hoạt đều bắt rễ từ đấy rồi 
                tỏa ra khắp nơi trong nước. Địa bàn Dèkkan và Kashmir là hai cực 
                nam, bắc đã phân định hình thể địa dư bản xứ. Toàn cõi Ấn Độ có 
                một diện tích rộng lớn là trên ba triệu km2 (Ấn Độ) 935.000km2 
                (Hồi Quốc), bằng hơn 7 lần diện tích nước Pháp hay bằng hơn cả 
                Âu Châu, trừ nước Nga. Và Ấn Độ đứng hàng thứ hai về dân số 
                (1984: 688.600.00 người), bằng 1/5 tổng số nhân loại, bằng 10 
                lần dân số nước Pháp.*  Thủ đô hiện nay là New Dehli. Nói về địa 
                thế Ấn Độ thật hùng vĩ, phía bắc có dãy núi Himalayas bao bọc, 
                phía nam là một đại hải mênh mông bát ngát... như cuốn hút tất 
                cả tinh hoa của trời đất tụ lại. Giòng sông thiêng Gange linh tú 
                trong xanh lững lờ đổ nguồn về vịnh Bengale làm tươi mát cả một 
                vùng đất rộng lớn. Và, hơn nữa; Ấn Độ được coi như là trung điểm 
                của địa cầu. Sở dĩ nền văn hóa, văn minh vĩ đại của Ấn Độ có 
                được vị thế độc tôn là do ảnh hưởng của hoàn cảnh, khí hậu, 
                thiên nhiên mà có. Nền văn hóa, văn minh ấy có một sắc thái khác 
                hẳn các tư trào văn hóa, văn minh hiện hữu trên thế giới (xin sẽ 
                bàn đến trong mục Văn Hóa ở dưới). Một khu vực có những che chở 
                thiên nhiên, có núi cao, biển rộng, sông dài... Đấy cũng là lẽ 
                tất yếu đã giúp Ấn Độ sớm nảy nở một nền văn hóa siêu đẳng: Văn 
                hóa Đạo Phật. 
 
                - 
                Hoàn Cảnh Xã Hội
                
 
                - 
                Khi muốn biết trình 
                độ tiến hóa của một dân tộc, người ta căn cứ vào từng giai đoạn 
                và sự biến thiên của lịch sử dân tộc ấy,  để thẩm định giá trị 
                của nó. Sau thời đại thái cổ, xã hội Ấn Độ tuy đã thoát qua thời 
                kỳ man dã, bán khai, tiến sang thời kỳ văn minh; nhưng... dân 
                chúng nơi đây vẫn luôn luôn sống trong tình trạng đói khổ và bị 
                áp bức, đời sống con người do đấy mà bị chi phối về mọi mặt.
                
 
                - 
                *Về Nhân Chủng: Cách 
                nay khoảng bốn, năm nghìn năm, những người đầu tiên (Adivâsis) ở 
                bình nguyên Indus và ở rải rác trong xứ, gồm có các nhóm nhân 
                chúng (groupes ehtniques)   Négroides và Proto Australoides. Các 
                người Négroides thì sinh tụ ở các rặng núi Cochin và Travancore, 
                có màu da gần như đen, đầu dài hoặc trung bình, tóc quăn thành 
                các xoáy trôn ốc dài. Còn các người Proto-Australoides thì ở 
                miền trung (Ấn Độ) và một số ở rải rác về phía bắc Ấn Độ. Ngày 
                nay nếu nói đến người bản xứ Ấn Độ là nhắc đến loại người đã 
                chiến thắng được các người Négroides, tức là người 
                Proto-Australoides "Dravidiens". Về nguồn gốc người bản xứ Ấn Độ 
                Dravidiens thì chúng ta rất it biết chắc chắn lắm. Có nhiều giả 
                thuyết đã được nêu lên. Rất hữu lý thì chúng ta phải nên chấp 
                nhận nguồn gốc người Dravidien phát tích từ Béloutchistan. Ngày 
                nay người ta còn thấy các người Brahuis ở vùng biên giới 
                Béloutchistan còn nói một thổ ngữ Dravidien. Có thể họ đã ở Ấn 
                Độ rồi sau này bị các người Aryens đẩy xuống phía nam Ấn Độ. 
                Cũng có thể họ đã ở khắp Ấn Độ trước khi người Aryens vào đây. 
                Có nhiều nhà bác học nhân chủng cho rằng các người 
                Paléo-Méditerranéens là những người bản xứ Ấn Độ ngày nay. Nhưng 
                cũng có người cho rằng họ hãy còn ở nam bán đảo Dekkan và là 
                giống người căn bản cho Đông Nam A,  từ quần đảo Andanans tới 
                quần đảo Indonésiens. Người Dravidien vốn sinh trưởng từ trước ở 
                Ấn Độ, có nước da ngăm ngăm, tóc quăn, vóc người tầm thước. 
                Người Aryens thì sáng nước da, cơ người to lớn, mũi thẳng, khôn 
                ngoan hơn đã đột nhập tại lưu vực Ấn Độ hà; mãi về sau từ phía 
                tây bắc vượt qua các thung lũng dõi theo núi Tuyết (Himalaya) 
                vào khai lập ở lưu Ngũ Hà. Có một sự kiện mà chúng ta nên lưu ý 
                là có vài bộ lạc mang huyết tố Dravidien lại nói thổ ngữ gốc 
                Aryen, như trường hợp các người Bhil thuột bộ lạc Mounda, hiện 
                lưu cư tại miền cao nguyên Dekkan. Trước hết, ta nên để ý các 
                giống người Paléo-Méditerranéens có một vị tri địa dư nhân chúng 
                rất lớn cũng như khi ta nói đến nhân chúng Négroide đấy mới chỉ 
                là đứng về phương diện nhân chúng mà xét, như vậy là đả ngoại 
                trừ các yếu tố quốc gia, chính trị... Nói tóm, Ấn Độ gồm có 5 
                nhóm nhân chủng chính: đó là các người da đen Phi châu; như các 
                người Proto-Australoides, thuộc giống Úc Châu. Ngoài hai loại 
                người này còn có giống người Paleo-Méditerranéens, các người 
                Austro-Asiatiques (Nam A), các người Armenoides và Alpins... Về 
                nhân số thì nước Cộng Hòa Ấn Độ hiện nay có khoảng trên sáu trăm 
                triệu người.  
 
                - 
                * Về 
                Kinh Tế:
 
                - 
                 Ấn Độ là dải đất 
                "phì  nhiêu" rộng lớn rất thuận tiện cho sự trồng trọt, canh tác 
                của người bản xứ. Về Canh Nông là nghề chinh của các dân tộc 
                chịu ảnh hưởng nền văn hóa thảo mộc đông phương, do đó mà người 
                Ấn Độ rất cần củ, nhẩn nại. Nông sán chính là lúa gạo và lúa mì, 
                nhưng theo lối canh tác cô xưa, dụng cụ thô sơ, sự thu hoạch rất 
                kém cói... nên dân Ấn Độ rất nghèo! Để bù vào sự thiếu hụt đó, 
                các sản vật khác củng giúp cho sự mưu sinh đỡ phải chật vật, như 
                bông, đay, gai, mía, chè và các nghệ chăn nuôi súc vật... Về Kỹ 
                Nghệ, Ấn Độ có kỹ nghệ cổ truyền, như làm đồ gốm, luyện kim, 
                thuộc da, đan đồ dùng bằng tơ, dệt vải v.v... Có chì, kẽm, dầu 
                hỏa và có nhiều mỏ than, sắt là những nguồn tài nguyên giàu có 
                của quốc gia này. Về Thương Mại, các đường thông thương tiện lợi 
                vẫn là phía tây bắc Ấn Độ với vùng Thượng Huyền. Ngay từ bán sơ, 
                ta có thê xép Ấn Độ đứng hàng thứ hai thứ ba trên hoàn cầu. Vì 
                hầu hết các đô thị lớn đều tiện đường giao thương, có rất nhiều 
                đường bộ và thủy thuận tiện cho sự xuất,  nhập cảng như 
                Calcutta, Bombay, Karatchi, Madras là nơi có những hải cảng quan 
                trọng... 
 
                - 
                Đáng lý với hoàn cảnh 
                thuận tiện ấy, dân chúng Ấn Độ không đến nổi nghèo khổ suốt đời 
                phải lao lực, bận bịu trong những kẻ mưu sinh vụn vặt, tầm 
                thường mới phải, nhưng, tại sao dân chúng vẩn nghèo khổ, so với 
                các quốc gia khác trên thế giới?  Ta hảy nhìn vào hoàn cảnh xã 
                hội sinh hoạt chính trị từng thời đại để tìm nguyên nhân trả lời 
                cho câu hỏi kia. 
 
                - 
                Về Chính Trị, từ 
                nghìn xưa, xã hội Ấn Độ có truyền thống là một xã hội đẳng cấp, 
                nhất là sau cuộc di dân vĩ đại của nhũng người Aryens thấm nhập 
                và đồng hóa dân tọc này. Với mục đích chia để trị, họ đã phân 
                định xã hội Ấn Độ thành bốn đắng cấp cách biệt hắn nhau. Bốn 
                đẳng cấp ấy là: 1. Brahmanes, những thày tu (giáo sĩ Bà La Môn) 
                giữ việc lễ nghi cúng hiến; 2. Ksatryas (Sát Đế Lị), giòng dòi 
                những người quyền qui, nắm giữ chính quyền, cai trị dân chúng; 
                3. Vaisyas (Phệ xá), những người buôn bán, làm ruộng, suốt đời 
                cày thuê làm mướn; 4. Sudras (Thú Đà La), giống thổ dân ở những 
                nơi rừng núi thâm u và làm tôi mọi suốt đời... Dòng tình cản 
                đồng loại bị chia cắt. Sự tranh chấp giữa các đẳng cấp trong xã 
                hội có khi ngấm ngẫm, có khi bộc phát, làm cho bầu không khí 
                nghẹt thở, khó chịu, mỗi ngày thêm căng thẳng, trầm trọng. Những 
                người thiệt thòi nhất trong xã hội là hai lớp người Vaisyas và 
                Sudras. Họ không có một tia hy vọng nào được giải phóng cả. 
                Ngoài bốn đẳng cấp ấy, còn một hạng người man rợ - hạng người 
                Parias đời sống của họ khó hơn con vật, không bao giờ biết có 
                ánh sáng mặt trời! Thật là cảnh địa ngục ở trần gian. Tại sao 
                cùng là một kiếp người lại sự chênh lệch đến thế?! 
 
                - 
                Và... còn biết bao sự 
                đao khổ dày vò thể xác lẫn tâm hồn, họ đành phải nhận chịu một 
                phần do ảnh hưởng xã hội đế chế phong kiến cổ thời và một phần 
                chính do tư tưởng Bà La Môn giáo gây ra... Điều này to không lấy 
                làm lạ. Khi dòng Bà La Môn đã tạo được lực lượng tôn giáo, lẽ 
                tất nhiên họ sẽ tìm đủ mọi cách giữ gìn địa vị của mình, và muốn 
                mãi mãi duy trì chế độ đắng cấp, nên đã vin vào những thần 
                thuyết mơ hồ, thiếu căn cứ, đặt ra một bộ luật có tính cách nữa 
                chính trị, nửa tôn giáo, bộ luật Manou, có những đều: cấm chỉ sự 
                hôn phối giũa những người thuộc đăng cấp khác nhau. Đạo đức, tôn 
                giáo lúc này chỉ còn là hình thức, đời sống hỗn độn, con người 
                không có tự do, thiếu sinh khí, không biết gì là hứng thú sống 
                còn!  Suốt đời họ phải nại lưng ra làm việc để kiếm miếng ăn 
                manh áo mặc cũng không đủ, lại còn phải đóng góp đủ thứ sưu cao 
                thuế nặng để cung phụng cho bọn cai trị mình thụ hưởng một cách 
                phi lý. Cuộc sống của họ thật cơ cực, vất vả, thiếu thốn... Một 
                chế độ đẳng cấp (système des castes) bất bình đẳng đương nhiên 
                không thể đứng vững được. Chỉ có những hạng người bạc nhược, thụ 
                động, ích kỷ mới chịu thu hình trong một hoàn cảnh đã rồi. Những 
                người có tâm hồn thức giác, biết nhìn xa, trông rộng, có chí khí 
                sắt đá, chỉ chờ cơ hội là cuộc cách mạng tương lai bộc phát. 
                Phong trào "phản kháng" mỗi ngây thêm tỏ rõ, mãnh liệt...!!
                
 
                - 
                * Về Văn 
                Hóa: 
                Ngay từ buổi rạng đông, Ấn Độ đã sớm có một nền văn minh, những 
                ngôn ngữ, văn tự (Phạm văn = Sanskrit và Pali) riêng, đại biểu 
                xứng đáng cho nền Văn Hóa Nhân Bản Toàn Diện: đó là sự ưa sống 
                trầm hùng, đượm sắc thái Tự do, giải thoát. Người Ấn Độ rất 
                thông minh và giàu tình cảm. Đứng về phương diện quốc gia thì, 
                văn minh Ấn Độ có rất nhiều nhân chủng tạo dựng. Đại loại người 
                ta chia ra làm hai. Đó là văn minh bắc Ấn, thuộc nền văn minh 
                nam Ấn, thuộc người da màu. Văn minh da màu có trước văn minh da 
                trắng. Nền văn minh này còn gọi là văn minh tiền Aryenne 
                (Civilisation pré-Aryenne). Nhưng đứng về thời gian mà nói, nền 
                văn minh tiền Aryenne được gọi là nền văn minh bán xứ. 
                
 
                - 
                Để tránh ngộ nhận ta 
                gọi là văn minh Dravidienne (Civilisation Dravidienne). Văn minh 
                Dravidienne chịu ảnh hưởng của các nền văn minh khác. Nói thế 
                tức có nghĩa nền văn minh nhân chúng Dravidienne là một sự tổng 
                hợp khá bền chặt giữa các mối liên lạc của các vùng Địa Trung 
                Hải và Cận Động. Văn minh bản xứ Ấn Độ cũng rất huy hoàng không 
                kém các vùng khác, trái lại còn có nhiều điểm ưu thắng hơn. 
                Người Aryens đã không đóng góp gì vào nền văn minh thành thị 
                nguyên thủy Ấn Độ, hay nói khác là nền văn minh tiền Aryenne, 
                tức là nền văn minh tây bắc Ấn Độ, vùng sông Indus. Văn minh này 
                có các biên giới thiên nhiên che chở. Phía bắc có rặng núi 
                Himalayas; tây nam có biển Oman; đông nam có vịnh Bengale.
                
 
                - 
                Do đó Ấn Độ là vùng 
                đặc thù của phần đất thuộc văn minh Âu - Á (Eurasie). Ấ Độ có 
                cửa ngõ gần như duy nhất để tiếp xúc với vùng Âu A ở tại phía 
                bắc. Nơi đây các dân cư Ấn Độ và các vùng lân cận giao tiếp theo 
                hai ngả đường. Ngả thứ nhất bằng con sông Caboul, qua Khaĩber. 
                Ngả thứ hai bằng các thung lũng của hai con sông Kouran và 
                Gounal, qua Waziristàn. Khaĩber là cửa ngõ đưa vào bắc Pendjab. 
                Waziristàn là đại lộ vào vùng trung Pendjab. Ta có thể nói được 
                là vùng tây bắc, vùng sông Indus, chính là cuống họng đưa chất 
                dinh dưỡng hay độc tố vào nội địa Ấn Độ; người Aryens vào khoảng 
                giữa đô thị thiên niên kỷ, người Macédoniens do đại đế Alexandre 
                le Grand năm 326 và năm 180 TTL; người Grecs Bactriane; người 
                Indo - Scythes vào khoảng thời đại Jésus. - Christ; người Hung 
                Nô (Huns) vào khoảng 450 TTL; người Turca - Afghans từ năm 1.000 
                TL, người Grands Moghols từ 1526 TL, đều qua ngả tây bắc để vào 
                Ấn Độ. Bất luận vào thời đại nào, dù văn minh phế hưng ra sao, 
                Ấn Độ vẫn mang đặc tinh thế giới sứ là nhờ vào các cửa ngõ ở 
                phía tây bắc Ấn. Các cửa ngõ này đã quyết định cường độ văn minh 
                bình nguyên Ấn Hằng nhiều nhất và có tính cách trực tiếp, rồi từ 
                đó ảnh hưởng lan dần xuống cao nguyên Dekkan ở phía nam Ấn Độ.
                
 
                - 
                Nền văn minh Ấn Độ có 
                vẻ trầm lặng nhưng oai hùng hơn các vùng khác; tuy cùng mang một 
                đặc tính "định cư, nông nghiệp, thành thị". Cái đặc tính trầm 
                lặng này của Ấn Độ ngày nay vẫn còn. 
 
                - 
                Nền văn minh cổ nhất 
                và có tính cách ngoạn mục mới được khai quật gần đây, nằm trong 
                vùng tây bắc Ấn Độ, thuộc Khaipur ở Pendjab. 
 
                - 
                Địa danh này mang tên 
                Kot Diji. Kot Diji hợp với Mohenjo-daro và Harappa, thành địa 
                danh văn minh tối cố của Ấn Độ. Kot Diji đứng vào hàng cổ nhất.
                
 
                - 
                Ta có thể nói là từ 
                năm nghìn năm nay, bình nguyên sông Indus là nơi đắc địa cho các 
                nền văn minh đầu tiên của Ấn Độ khai mở. Nghệ thuật, thủ công 
                nghệ và cả hệ thống chữ viết nữa đã đạt tới mức vô cùng sáng 
                sủa. Tiếng Hindia thuộc dòng những tiếng Indo Européenne, cùng 
                một nguồn gốc ngữ tộc với tiếng Phạm, nghĩa là của những dân tộc 
                có tổ tiên là người Ấn Âu. Người Ấn Độ bản xứ là hậu duệ của 
                giống dân da sậm có liên lạc huyết thống (xa hay gần) với nhân 
                chủng Négroĩdes và Proto-Australoĩdes... Như vậy ta có thể kết 
                luận tiếng Phạm đứng hàng đầu trong loại Indo-Européenne. 
                
 
                - 
                Ba khu vực có giống 
                người gây thành xã hội trên thế giới: 
 
                - 
                1. Lưu vực giữa hai 
                con sông Dương Tử và Hoàng Hà. 
 
                - 
                2. Đồng bằng sông 
                Nil. 
 
                - 
                3. Đồng bằng sông 
                Hằng. 
 
                - 
                Ba khu vực có ba 
                luồng từ tưởng khác nhau và là căn bản của nhân loại 
                
 
                - 
                Từ đồng bằng sông 
                dương tứ thuộc một thứ tiếng khác hẳn, loại tiếng liên âm của 
                những người phi châu, còn hâù hết loại đa âm đều thuộc dòng 
                Indo-Européene, trừ những dụng ngữ hằng ngày để sống, từ khu vực 
                có khác nhau, còn những ngữ thuật [termes savants] để biểu lộ tư 
                tưởng lúc đầu [tời thượng cổ] phần lớn lọai đa âm đều mượn ở 
                phạm văn. 
 
                - 
                Các học giả chia làm 
                tám nghành của Indo-Européenne 
 
                - 
                1. Nghành Aryenne hay 
                indo - iranienne gồm cáctiếng ấn, ba tưvà phạm, Arabe v.v…
                
 
                - 
                2. Nghành Arménien, 
                một phần nước nga 
 
                - 
                3. Hi lạp [cổ và 
                kim],Ionien, Altique, Dorien v. .v.. 
 
                - 
                4. Albanie,  giáp 
                giới nga và trung đông.  
 
                - 
                5. Nghành Italique, 
                gồm  Y, LA Mã, LA tinh  v.v.. 
 
                - 
                6. Nghành Celtique, 
                phần nhiều là từ - ngữ. gồm pháp, một phần Anh,bồ. 
 
                - 
                7. Nghành Germanique. 
                gồm Aí Nhĩ  Lan. Scandinave, các tiếng Đức,  Phổ, Anh và Anglo- 
                Saxon. 
 
                - 
                8. Nghành 
                Balto-Slave. Lithuanie. NGA. BA Lan. Tiệp. Bulgarie,   các dân 
                tộc Nam tư [sevbo- croate]. 
 
                - 
                Văn minh phạm còn có 
                một công trình lớn là đầu tiên dùng chữ số như chữ số ngày nay 
                ta viết, nhớ lại con số cuả người trung hoa hay la mã không thể 
                naò đặt con tính được, chữ ai cập cũng vậy, phạm văn đầu tiên đã 
                dùng số hệ [syetème numérique] nhân muời như ngày nay,và nghĩ ra 
                con số "không"(zézo),trong chữ số, ta có thể nhờ đó mơí có toán 
                học. Tiếng phạm thuộc trong những loại đa âm hiện có trên thế 
                giới nhưng tiếng phổ thông mà ngày nay dân chúng Ấn độ bắt buộc 
                phải dùng để thống nhất ngôn ngữ là tiếng hindi, có gốc từ chữ 
                phạm và ngôn ngữ Ấn âu hơn là những tiếng địa phưong có gốc từ 
                tiếng moundari và dravidien, còn vềlối chữ cổ Ấn độ như ta biết 
                theo lối tượng hình, giống lối chắp A.B.C... Ngày nay đại đa số 
                các nước tiên tiến đều dùng lối chữ trên, và cả các việc ấn 
                loát, tốc ký và điện tín cũng dựa vào lối viết ấy. một dân tộc 
                có quá trình tiến hóa như ấn độ, lẽ dĩ nhiên những tư tưỡng về 
                tôn giáo, triết học cũng sớm được nảy mầm, giờ đây ta hãy đi 
                vàolĩnh vực ấy để tìm hiểu... 
 
                - 
                * Tư tưởng siêu nhiên 
                thời đại hồng hoang, bất cứ dân tộc nào, xã hội loài người cũng 
                sùng bái thiên nhiên. ngoài tư  trào tôn giáo,  họ chưa có ý 
                thức về triệt học hoặc luân lý nhân đứng trước bầu trời mặt đất 
                rộng lớn, với cảnh tượng kỳ lạ như sắm chớp, trăng sao núi 
                sông... họ sinh lòng tín ngưỡng tôn giáo, triết học và mê tín ở 
                ấn độ cũng như hầu hết các dân tộc khác ở trên thế giới khi ý 
                thức con người vừa chớm nở, đều không vượt ra ngoài  ra công lệ 
                ấy. Những bài ca tán tụng tôn giáo do đó mà làm ra, mục là để 
                cầu phúc, tiêu tai, sau lâu trở thành những lời sám bí truyền, 
                nhằm giải thích sự linh ứng của thần và sự tế tự, cầu đáo cùa 
                người ta, đấy là nguyên nhân chính để tạo lập ra bộ thánh kinh 
                véda. Véda là một bộ thánh kinh cổ nhất của xứ ấn độ. [véda, 
                dịch là "minh trí" "trí sáng" nghĩa là kinh này làm cho sáng 
                suốt, tỏ rỏ sự thật] kinh điển véda gồm có 4 lọai chính  1. Rig 
                -véda chép những bài ca tán tụng tôn giáo. 2. Sama véda, chép 
                những văn tế, giải thích càc lời nghi thức quan hệ. 3. Yajur 
                -véda, chép những chú thực tướng truyền , * Atharva -véda, chép 
                những lời giải đáp về các bì quyết,  ma thuật   v.v.. . kể tử 
                khi người Aryens xâm chiếm dùng bắc ấn độ thì lịch sử  thánh 
                kinh cũng bắt đầu được kiến lập ngay từ buổi ban sơ, người 
                Aryens đã nghĩ đến sự bỏ củ thay mới, và tạo lập một lý thuyết 
                có tính chất kỳ thị và trực lợi làm nền tảng cho các bộ máy hành 
                chính sao này. đó là thứ lý thuyết lãnh đạo chí huy tổng quát 
                tầt cả cơ cấu của xã hội, một thứ hiến pháp bất thành văn. thứ 
                hiến pháp được xây dựng trên căn bản của bộ thánh kinh phệ đà 
                [véda]về sau, thánh cũng được sáng tác thêm các thần cũ chỉ còn 
                là một bóng mờ đối với những vị mới được tân chế các bộ thánh 
                kinh véda nhuờng chỗ cho các bộ mới ra đời. Đó là các bộ; té 
                nghi thư [Brahmana]sâm lâm thư [Aranyaka] và áo nghiã thư [U 
                panishad]vào thời kỳ thế nghi thư thì có tạo vật chú Prajapati, 
                và thời kỳ áo nghiã thư có thần Atman. hệ thống kinh điển  thần 
                học và xã hội học được giải thích mỗi lúc thêm khó hiểu,  và do 
                đó  mới có nhiều nguồn tự do tưởng giải thích thánh kinh. 
                
 
                - 
                Sau thời đại véda tư 
                tưởng ấn độ bắt đầu chuyển biến, triết học do đấy được manh nha 
                con người không tinh vào thần thọai nữa muốn hiểu vũ trụ con 
                người đã vận dụng đến trí năng mình để khảo sát nó và, bắt nguồn 
                từ đấy, các phái triết học tiếp nhau ra đời. Trong những phái 
                triết học, hoặc dung hợp nhau nhưng tất cả là hướng tim cái 
                nguồn gốc của vũ trụ,  có phải cho rằng "phạm thiên"[brahma]  là 
                căn bản của vũ trụ, vạn hữu nhưng phái khác laị cho rằng "đất" 
                là gốc của vạn hữu; phái lại cho rằng "nước" là gốc, phái cho 
                rằng "lữa" là gốc phải cho rằng "gió" làgốc  v.v... Tiến bộ một 
                nấc nữa, người ta bó vật chất [đầt, nước, gió, lửa]mà hướng về   
                chổ  trừu tượng, nên có những phái lập ra "thời gian luân" 
                "phương hướng luận" "không gian luận"vv... rồi nào chủ quan, 
                khách quan, trừu tượng cụ thể nhất nguyên, đa nguyên, chủ động 
                chu tỉnh bao nhiêu tư tưởng khởi xướng trở thành một thời đại 
                hết sức hổn độn.  
 
                - 
                Có thể nói thời kỳ 
                này các tư tưởng gia ấn độ sinh hoạt rất náo nhiệt kinh Phật ghi 
                sổ mục có chín mươi hệ phái thần học, triết học khác nhau, nhưng 
                nổi bật nhất, vẫn là sáu triết phái,  đó là.  
 
                - 
                1. Phái AJITA 
                Kesakambali,  chủ trương "duy vật luận" con người là do các yếu 
                tố vật chất kết hợp tạo thành, khôngcó qủa dị thục các nghiệp 
                thiện ác, không có sự kết sinh tương tục trong đời mai sau, con 
                người chết là hết, thuyết này có tính cách chống lại thần cách 
                siêu hình của bà la môn giáo, không nhận có thượng đế [brahma] 
                sáng tạo vũ trụ và loài người, và lấy sự hưởng thụ vật chất làm 
                mục đích cứu cánh cuộc đời  
 
                - 
                2. Phái Pakudha 
                Kaccayana  thì chủ trương thuyết "vạn vật thường tồn" vạn sự vạn 
                vật ở đời chẳng qua là do các yếu tố nhân duyên tạo thành vậy ta 
                không nên quan tâm tới chúng,  vì nếu không, chỉ nhận lấy sự 
                đắng cay phiền não vô ích.  
 
                - 
                3. Phái Purana 
                Kasspa, chủ trương "ngẫu nhiên thuyết", cho rằng vạn vật có ở 
                đời, chỉ là ngẫu nhiên. không tin có luật nhân qủa. phủ nhận đạo 
                đức chẳng phải tôn thời, sùng bái gì cả. nói khác, đạo đức là 
                không tương cần phải phá bỏ, vì mọi liên hệ cuộc đời là ngẫu 
                nhiên. . 
 
                - 
                4. Phái Maakhali 
                Gosala lại chủ trương "tự nhiên thuyết", con người sinh ra đời 
                là bởi tự nhiên mọi sự họa phúc, vui hay khổ cùng là tự nhiên, 
                nó không bị ảnh huởng bất cứ một nguyên nhân nào chi phối cả. 
                
 
                - 
                5. Phái Sajaya  
                Belathiputta chủ trương "hoài nghi thuyết", ngụy biện rằng chân 
                lý không phải là không biến đổi, việc trước mắt ta vừa thấy đó, 
                ví dụ các hoa chẳng hạn, thoạt nhìn tưởng là nó vẫn y nguyên 
                nhưng sự thực thì, nó đã biến đổi từng chớp mắt, từ màu hống 
                thẫm chuyển sang màu hồng lợt đối với sự vật cũng thế, ta không 
                thể không hoài nghi về sự hiện hưũ của chúng.  
 
                - 
                6. Phái Nigantha 
                Nataputta, chủ trương thuyết "tương đối", nghĩa là không có cái 
                gì tuyệt đối cả. mọi con người sinh ra đời, lớn lên, làm việc 
                rồi chết; vậy bất cứ giải quyết vần đề gì, ta cũng nên chú ý đến 
                các yếu tinh tâm lý ngã - tha, để khỏi bị va chạm làm bẩn kiềp 
                sống con người trên cõi đời này, như,  không gây ra các tội 
                lỗi,  phát triển lòng từ, và điều cần yều là biết luyện thân 
                khắc khổ  để cầu giải thoát kiếp sống chẳng ra gì  [vì là tương 
                đối], thôi thì mong để một khi chết yên vui ở kiếp sau... Tiếp 
                sau đó, còn có những học phái khác lần lượt ra đời đó là sáu học 
                phái;  
 
                - 
                1. Nỳaya 
 
                - 
                2. Vaisésika 
 
                - 
                3. Samkhya 
                
 
                - 
                4. Yoga 
 
                - 
                5. Mimansa và
 
                - 
                6. Védanta 
                
 
                - 
                Tư tưởng của sáu học 
                phái này chụi ảnh hưởng, hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp, của ba 
                thời kỳ Rig-Réda, Bràhmana và U pànishad, phần nội dung của nói 
                chỉ là khai triển điều [đã có] trong các thánh thư đôi khi cũng 
                có phát triển những điều mới lạ nhưng là để chứng minh cho những 
                thuyết lý của các thánh thư được sáng tỏ mà thôi.  
 
                - 
                Kiểm điểm lại, ta 
                thấy, tư tưởng ấn độ đã tuần tự phát triển một cách nhiệp nhàng. 
                Thọat đầu, con người còn sùng bái ánh sáng thiên nhiên, về sau,  
                sấm, chớp, gió,   mưa, cũng được coi là có thần linh chi phối, 
                cai quản, đó là từ độc thần giáo [monothéisme]chuyển qua thời kỳ 
                ĐA thần giáo [Polythéisme] rồi từ đa thần giáo đi đến phiếm thần 
                giáo [Panthéisme]về sau tư tưởng càng  ngày thêm sáng đạt, người 
                ta lại nảy ra những nghi ngờ và tự hỏi, căn bản của vũ trụ là 
                gì? -Nhân sinh ra đâu mà có? giá trị cũa thực sống ra sao? Những 
                câu hỏi hóc búa ấy là những roi đòn đánh váo tâm thức con người, 
                bắt phải suy nghĩ, do dó, tư tưởng triết học mỗi ngày khai triển 
                càng rộng, sâu thêm, nhằm giải đáp những mối băn khoăn, thắc mắc 
                của con người, về siêu  hình cũng như về thực tại cuộc sống,  
                [xin xem vấn đề này ở phần luật thuyết ở dưới]   
 
                - 
                Nói tóm, ở ấn độ xưa, 
                trước đời đức Phật ra đồi, về tư tưởng, tôn giáo, triết thuyết 
                cũng như về mặt chính trị, kinh tế và xã hội thật là vô cùng 
                phức tạp, thêm vào đó, nạn kỳ thị tôn giáo cũng trầm trọng không 
                kém. Phía tây ấn độ là địa bàn hoạt động của bà la môn giáo 
                [Bbrahmanisme].phía đông thì thuộc kỳ na giáo [Jahìsme], hai tôn 
                giáo này tranh giành ảnh hưởng với nhau, và chi phối hoàn toàn 
                đời sống con người, không những về mặt tinh thần mà cả về phương 
                diện vật chất nữa, có thể nói đây là một thời đại loạn của sứ ấn 
                độ con người còn biết tinh tưởng, bám viú vào đâu nữa cả? 
                
 
                - 
                Giữa lúc hoàng cảnh 
                bế  tắc ấy. đức phật   xuất hiện như một mặt trời sáng rỡ buổi 
                sờm mai làm mất đi những bóng tối của đêm đen dày đặc, đang che 
                phủ cuộc đời. Ngài là cứu tinh không chỉ  dành riêng cho xứ ấn 
                độ thời ấy, mà là của nhân loại chúng sinh. Thật vậy đức Phật 
                ngày đầu tiên xướng thuyết nhân bản, lấy con người làm cứu cánh 
                để giải quyết hết mọi vất đề bế tắc của thời đại cả về nhân 
                giới, tâm giới và  siêu  giới. giáo lý của đạo phật là như thật 
                [chân lý], là ánh sáng của trì tuệ và là niềm tin cho con người, 
                ở bất cứ thời gian, hoàn cảnh và nơi đâu... đấy là những đặc 
                điểm nguyên lý sáng lập đạo Phật.  
 
                - 
                
                Source: Phật 
                học tinh hoa, một tổng hợp giáo lý, viện triết lý Việt Nam và 
                triết học thế giới, California xuất bản năm 1999-08-25.  
                
 
                - 
                Địa chỉ liên lạc với 
                tác giả: (xin xem tiểu sử của tác giả ở Trang Danh Nhân Phật 
                Giáo VN trên Cùng Trang Web này)   
 
                - 
                Hòa 
                Thượng Đức Nhuận 
 
                - 
                Chùa 
                Giác Minh,  
 
                - 
                716 Điện 
                Biên Phủ,  
 
                - 
                Phường 
                11, Quận 10, T.PH.C.M -Việt 
                Nam.
                
 
                - 
                Tel: 
                84.8. 8322548 
 
                - 
                
   
                - --o0o--
 
               
              
             
             | 
   
           
               
       
       |