| 
           
      
  
           
                
            
              
              
                - Thư Viện Chùa Dược Sư
 
                - PHẬT HỌC CƠ BẢN
 
                  
               
              
              
                
                   
                  - 
                  TINH THẦN CỞI MỞ
 
                  
                
                
                   
                  - KHOAN 
                  DUNG CỦA ĐẠO PHẬT
 
                  
                
                
                   
                  - Thích 
                  Phước Sơn
 
                  
                
                
                   
                  - --o0o--
 
                  
                
                - 
                 
 
                - 
                Đạo Phật từ Ấn Độ du 
                nhập vào Việt Nam và hiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 
                năm. Trong thời gian ấy, có lúc Phật giáo đưọc các vua chúa ủng 
                hộ, mà cũng có lúc bị một số người bài xích. Nhưng chung cục, 
                Phật giáo vẫn chịu đựng được những thử thách ấy để mà tồn tại. 
                Như thế, chứng tỏ Phật giáo phải tiềm tàng nhiều khả tính, mà 
                một trong những khả tính có sức cảm hóa con người mạnh mẽ nhất, 
                đó là đức tính từ bi bao dung của đạo Phật.
 
                
                - 
                Trong kinh Pháp Hoa, 
                phẩm Đề Bà Đạt Đa, đức Phật kể lại tiền thân của Ngài từng có 
                mối liên hệ với Đề Bà Đạt Đa. Chính Đề Bà đã là yếu tố trợ duyên 
                để Ngài tinh tấn tu hành, chóng thành chánh quả. Do thế, đối với 
                Đề Bà, đức Phật xem như một ân nhân, một thiện hữu trí thức, nên 
                dù triết hiện tại có ác tâm làm hại Phật, sau khi chết phải đọa 
                vào địa ngục trong một kiếp, Phật vẫn thọ ký cho ông trong tương 
                lai sẽ thành Phật hiệu là Thiên Vương Như Lai.
 
                
                - 
                Đọc qua đoạn này, 
                chúng ta cảm thấy vô cùng thống khoái, bởi lẽ, những gì uẩn khúc 
                giữa đức Phật và Đề Bà Đạt Đa được hóa giải hoàn toàn và khai 
                thông một cách triệt để.
 
                
                - 
                Tấm gương của đức 
                Phật thường được các đệ tử noi theo. Vào đời Đường ở Trung Quốc, 
                Hàn Dũ (768-824) vốn là một nhà Nho bảo thủ, từng có thành kiến 
                với Phật giáo nên đã phản đối việc rước Xá lợi Phật của vua 
                Đường Hiến Tông, và bị Hiến Tông đày đến Triều Châu. Trong lúc ở 
                đây, có thì giờ nhàn rỗi, ông bắt đầu tìm hiểu Phật giáo, rồi 
                thọ giáo với Hòa thượng Đại Điền, được Đại Điền tận tình hướng 
                dẫn và cuối cùng ông đã hướng về chánh pháp, lấy đạo giải thoát 
                làm chỗ nương thân cho đến chung cục cuộc đời.
 
                
                - 
                Tương tự như Hàn Dũ 
                là trường hợp Trương Hán Siêu (?-1314) đời Trần ở Việt Nam. Khi 
                soạn bài Kỳ Tháp Linh Tế ở núi Dục Thùy và bài bia chùa Khai 
                Ngiêm, ông chỉ trích Phật giáo và đề cao Nho giáo, đại ý nói: 
                "Những cảnh u nhã thanh kỳ trong nước, chùa chiền chiếm mất một 
                nữa "...." vả lại ngày nay thánh triều muốn mở mang giáo hóa để 
                sửa đổi phong tục suy đồi thì dị đoan phải trút bỏ, chánh đạo 
                phải được phục hưng v.v..". Thế nhưng, khi cuối đời, ông lại về 
                cất nhà ở núi Dục Thúy và sống nếp sống thanh tịnh u nhàn mà 
                trước kia ông cho là mối dị đoan cần phải trút bỏ. Ông còn làm 
                một bài thơ tả cảnh núi Dục Thúy rất nổi tiếng, và được học giả 
                Trần Văn Giáp dịch như sau:
 
                
                - 
                "Non xanh xanh vẫn 
                như xưa
 
                - 
                Du nhân đi mãi vẫn 
                chưa thấy về
 
                - 
                Sóng in bóng tháp Bồ 
                Đề
 
                - 
                Mở toang cửa động 
                liền kề chân mây
 
                - 
                Đời lênh đênh trước 
                khác nay
 
                - 
                Thân nhàn mới biết 
                trước ngày lầm to
 
                - 
                Mênh mông trời đất 
                năm hồ
 
                - 
                Vòm râu cũ, kiếp thăm 
                dò nơi đâu".
 
                
                - 
                Có lẽ về già, Trương 
                Hán Siêu đã thắm thía những nỗi thăng trầm trong chốn hoạn 
                trường như Nguyễn Công Trứ đã phàn nàn:
 
                
                - 
                "Ra trường danh lợi 
                vinh liền nhục,
 
                - 
                Vào cuộc trần ai khóc 
                lộn cuời".
 
                
                - 
                Nhờ vậy, ông mới ý 
                thức được kiếp sống thực mỏng manh, thân phận con người vô cùng 
                bé bỏng. Do đó, đứng trước hình ảnh từ bi của đức Phật, qua cuộc 
                sống ung dung bình dị của các Thiền sư, dường như đó là chỗ 
                nương tựa cần thiết cho những ai từng gặp nhiều phong ba bão tố 
                của cuộc đời. Vả lại, bản chất của người trí thức là luôn luôn 
                khát khao tìm đến những giá trị siêu việt. Thế nhưng, trong cuộc 
                sống đời thường, ông và Nguyễn Công Trứ đều là những người tích 
                cực phụng sự đất nước, và chưa ai dám bảo họ là những kẻ trốn 
                đời tiêu cực bao giờ.
 
                
                - 
                Vào khoảng đầu thế kỷ 
                19, ở miền Nam, có một nhà khoa bản nổi tiếng là thủ khoa Bùi 
                Hữu Nghĩa (1807-1972), khi soạn bốn tuồng Kim Thạch Kỳ Duyên, có 
                đôi chỗ ông bỡn cợt các nhà sư. Thế nhưng, lúc ông qua đời, bài 
                vị của ông lại được mang về thờ ở chùa, và chính các nhà sư là 
                người lo việc hương khói cho ông. Chứng kiến cảnh tượng ấy, hẳn 
                có người sẽ bảo, các nhà sư kia thật là mù mờ lẩn thẩn, không 
                phân biệt được ai là tà chánh, bạn thù. Nhưng họ có biết đâu 
                chính các ngài đã thể hiện đức độ bao dung mở rộng tấm lòng Bồ 
                tát, xử sự theo tinh thần từ bi hỷ xả mà đức Phật đã truyền dạy. 
                Vả lại, nếu như đạo Phật không biểu lộ được tấm lòng bao dung, 
                thì đạo Phật cũng chẳng còn là đạo Phật nữa.
 
                
                - 
                Đến đầu thế kỷ 20, 
                trong lúc dân tộc ta đang tìm đủ mọi cách đánh đuổi thực dân 
                Pháp để giành lại độc lập, các chùa cũng tích cực góp phần vào 
                sự nghiệp chung giải phóng đất nước, xem đó như những bổn phận 
                thiêng liêng của mọi người công dân yêu nước. Tuy vậy, khi bác 
                sĩ Yersin từ trần tại Nha Trang năm 1943,thì chính hai chùa Long 
                Sơn và Long Tuyền đã đem linh vị của bác sĩ về thờ tại chùa, rồi 
                làm lễ giỗ kho 
                ông rất long trọng. Bởi lẽ, họ hiểu rằng Yersin là một nhà nhân 
                bản, một tâm hồn chỉ biết xả thân phụng sự nhân loại, ông từng 
                giúp ích cho dân chúng Nha Trang rất nhiều, và hoàn toàn khác xa 
                với một tên thực dân. Việc làm đó nói lên tinh thần trí tuệ sáng 
                suốt của đạo Phật, cân nhắc chính xác, phân biệt đâu là tà chánh 
                một cách rõ ràng, chứ không có thái độ cực đoan mù quáng, hễ 
                thấy bất cứ thứ gì liên quan đến người Pháp thì liền xóa sổ sạch 
                trơn.
 
                
                - 
                Năm 1963, chính quyền 
                Ngô Đình Diệm kỳ thị tôn giáo, Phật giáo lâm vào cơn pháp nạn. 
                Các nhà lãnh đạo Phật giáo yêu cầu Chính phủ tôn trọng tự do tín 
                ngưỡng, đối xử công bằng với các tôn giáo, nhưng hoàn toàn vô 
                hiệu. Không có cách nào khác, Bồ tát Quảng Đức đã dùng nhục thân 
                làm đuốc để soi sáng lòng người, thức tỉnh lương tâm những người 
                có trách nhiệm. Nhưng lương tâm đã không đuợc đánh thức mà bóng 
                tối lại bùng lên bằng lời tuyên bố mỉa mai của bà Ngô Đình Nhu: 
                "Họ đã nướng thịt người, và nếu như có thiếu xăng thì tôi sẽ cho 
                thêm". Lời phát biểu ấy đã làm chấn động dư luận trong và ngoài 
                nước. Thế mà,hàng giáo phẩm Phật giáo không ai treo giá tính 
                mạng của bà Nhu một đồng nào như một số giáo chủ khác đã làm khi 
                có kẻ xúc phạm đến tôn giáo mình. Có chăng thì chỉ là lời từ con 
                rất cảm động của Đại sứ Trần Văn Chương đối với đứa con ngỗ 
                ngược của mình: "Nó đã dùng những lời lẽ vô lễ xúc phạm đến các 
                bậc tôn túc giáo phẩm Phật giáo, tôi không nhìn nhận nó là con 
                tôi nữa". Thế rồi, việc gì đến phải đến. Và mọi sự đều chuyển 
                biến theo luật nhân quả "thiện ác đáo đầu chung hữu báo" (lành 
                dữ rồi cũng đều có trả).
 
                
                - 
                Năm 1988, giáo sư 
                Nguyễn Tài Thư viết về lịch sử Phật giáo Việt Nam với một ý niệm 
                dễ dãi, có đôi chỗ lệch lạc tinh thần đạo Phật. Vậy mà các bậc 
                tôn túc giáo phẩm Phật giáo không ai than phiền lời nào. Tuy 
                nhiên, cuộc đời cũng không phải hoàn toàn đơn giản, bởi lẽ, hễ 
                điều gì trái với sự thật, xúc phạm đến lương tâm con người thì 
                sẽ có người lên tiếng để bảo vệ sự công bằng và bênh vực lẽ 
                phải. Đó là giáo sư Vũ Ngọc Khánh. Ông chỉ nhân danh lương tri 
                của một người trí thức chính trực mà lên tiếng, chứ không phải 
                lên tiếng với tư cách là một người Phật tử.
 
                
                - 
                Thái độ viết lịch sử 
                Phật giáo của giáo sư Nguyễn Tài Thư thật khác xa với thái độ 
                khiêm tốn của thi hào Nguyễn Du (1765-1820) khi ông nói về lòng 
                ngưỡng mộ kinh Kim Cương của mình đến nỗi đọc hơn nghìn lần mà 
                vẫn chưa hiểu nổi ý kinh:
 
                
                - 
                "Ngã độc Kim Cương 
                thiên biến linh,
 
                - 
                Kỳ trung áo chỉ đa 
                bất minh,
 
                - 
                Cập đáo phân kinh 
                thạch đài hạ,
 
                - 
                Tài tri vô tự thị 
                chân kinh"
 
                - 
                (Ta từ nghìn bận đọc 
                Kim Cương
 
                - 
                Yếu chỉ đa phần chẳng 
                tỏ tường
 
                - 
                Đến lúc sắp kề bên mộ 
                huyệt.
 
                - 
                Biết kinh không chữ 
                mới chơn thường)
 
                
                - 
                Tinh thần khiêm tốn 
                ấy cũng được thể hiện nơi bậc tiền bối khác là nhà bác học Lê 
                Quí Đôn (1726-1784) khi ông bàn về đạo Phật: "Đạo Phật thanh 
                tịnh vô vi, cao siêu tịch diệt, không hệ lụy đến sự vật, đấy 
                cũng là đạo giáo của bậc cao minh dùng để tu dưỡng bản thân. Đến 
                những lời bàn luận sâu rộng về đạo đức, về tinh thần, không có 
                điều gì là không có ý nghĩa mầu nhiệm. Nhà Nho chúng ta cứ giữ 
                thành kiến nọ kia, thường hay bắt bẻ, như thế có nên 
                chăng?...Không gian bao la, sự vật biến hiện, dù có tài ngang 
                dọc cũng không thể biết hết, huống gì kiến văn còn có nhiều chỗ 
                chưa thấu đáo, thế mà hễ thấy sách có chép về những sự việc ly 
                kỳ, đều nhất thiết không tin, thậm chí chê bai cả Tiên Phật, sao 
                mà hẹp hòi thế? Than ôi! Ngựa trắng chở kinh sang Đông độ, có lẽ 
                đã hơn ngàn năm nay rồi mà giáo hóa huyền vi, pháp thuật mầu 
                nhiệm, thực là cùng trời đất bất hủ. Cho nên đã từng trải qua 
                các vua chúa anh minh, khanh tướng danh vọng không biết bao 
                nhiêu lần bài bác, dẹp trừ, nhưng chung cục vẫn không hủy bỏ 
                được. Thế thì sao chúng ta lại lắm lời chê bai để phải rước lấy 
                vạ miệng?" (Kiến Văn Tiểu Lục, q.9.tr.I)
 
                
                - 
                Qua hai tấm gương của 
                Lê Quí Đôn và Nguyễn Du trên đây, chúng ta có thể học được một 
                bài học về đức khiêm tốn và sự cẩn trọng để ứng dụng mỗi khi 
                phải trình bày về lịch sử của tiền nhân.
 
                
                - 
                Tóm lại, kinh nghiệm 
                cho chúng ta thấy, chỉ có những kẻ đạt nhân, túc học mới biểu lộ 
                tấm lòng khiêm hạ một cách chân thành, cũng như chỉ có những bậc 
                bi trí viên dung mới mở rộng cõi lòng bao dung tất cả.
 
                
                   -  
 
                
               
              
             
             | 
   
           
               
       
       |