| 
           
      
  
           
                
            
              
              
                - Thư Viện Chùa Dược Sư
 
                - PHẬT HỌC CƠ BẢN
 
                  
               
              
              
                
                   
                  - 
                  
                  BẢY PHƯƠNG PHÁP
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  
                  ĐI ĐẾN GIÁC NGỘ
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  (Thất Giác Chi)
 
                  
                
                
                   
                  - THÍCH 
                  THIỆN BẢO
 
                  
                
                
                   
                  - --o0o--
 
                  
                
                - 
                 
 
                - 
                A. DẪN NHẬP
 
                
                - 
                Giáo lý đạo Phật được 
                xem là một nền giáo lý thực nghiệm, nhằm giải quyết những vấn đề 
                về con người, đưa con người thoát khỏi những khổ đau trói buộc 
                do chính con người tạo nên, và nó đã trở nên một phương tiện, 
                hay một phương pháp giúp cho mọi người vượt khỏi những bế tắc 
                trong đời sống mà con người gặp phải, hay nói cách khác, giáo lý 
                đạo Phật là những phương thuốc trị những căn bệnh cho mọi người, 
                chính vì thế mà chúng ta thường nghe : "Chúng sanh đa bệnh, Phật 
                pháp đa phương" (chúng sanh có nhiều bệnh, Phật pháp cũng có 
                nhiều phương thuốc trị cho nhiều căn bệnh khác nhau). Thất giác 
                chi là bảy phương pháp nhằm giúp cho chúng sanh thoát khỏi những 
                vọng niệm mê lầm để đạt sự tỉnh giác trong đời sống.
 
                
                - 
                B. NỘI DUNG
 
                
                - 
                I- Định nghĩa
 
                
                - 
                Thất giác chi (Satta 
                sambojjhanga) = The Seven factors of Enlightenment, còn gọi là 
                Thất bồ đề phần, Trung Hoa dịch là Giác đạo (con đường đưa đến 
                giác ngộ), một trong những thắng pháp (paramattha dhamma) của 37 
                phẩm trợ đạo được Đức Phật đề cập ở phần Đạo đế. Thất giác chi 
                là bảy phương pháp tu tập nhằm giúp cho hành giả đạt được giác 
                ngộ, thành tựu đạo quả giải thoát.
 
                
                - 
                II- Nội dung của Thất 
                giác chi
 
                
                - 
                1)- Trạch pháp giác 
                chi (Dhammavicaya sambojjhanga) :
 
                
                - 
                Trạch là sự chọn lựa, 
                pháp là pháp môn, trạch pháp là sự chọn lựa pháp môn tu tập sao 
                cho phù hợp với trình độ căn cơ của chính mình. Nó còn giúp cho 
                mọi người nhận thức một cách sáng suốt để phân biệt, lựa chọn 
                một cách chính xác những phương thức khế hợp với chính mình, vì 
                thế cho nên các vị Tổ sư thường dạy : "Thuốc không có quý-tiện, 
                lành bệnh là thuốc hay, Pháp không có đốn-tiệm (mau, chậm), hợp 
                cơ là pháp diệu". Chọn được hướng để đi đúng với chánh pháp là 
                chúng ta đã thực hiện tinh thần trạch pháp giác chi. Trong kinh 
                Sa Di Thập Giới nói : "Cái khổ ở địa ngục, của con lừa, con lạc 
                đà chở nặng chưa phải là khổ, không tìm thấy được hướng đi mới 
                thực sự là khổ". Người muốn có một chánh tư duy (suy tư một cách 
                chân chánh) phải thực hành trạch pháp, vì chính đây là một 
                phương pháp phân tích, suy luận nhận chân các giá trị hiện thực. 
                Đạo Phật xem sự tự giác trong niềm tin phải được qua gạn lọc của 
                trí tuệ được gọi là chánh kiến (sự thấy biết một cách chân 
                chánh), điều này Đức Phật nói : "Tin ta mà không hiểu ta là phỉ 
                báng ta". Trong kinh Kamala (Tăng Chi I), Đức Phật nói : "Đừng 
                vội tin tưởng một điều gì dù điều đó thường nghe nhắc nhở đến 
                luôn. Đừng tin tưởng điều gì mà điều đó là một tập tục đã qua cả 
                ngàn xưa để lại. Đừng tin tưởng những điều sáo ngữ hay bất cứ 
                một điều gì mà người ta thường nói đến nhiều quá. Đừng tin tưởng 
                bất cứ điều gì, dù cho điều đó là bút tích của thánh nhân xưa để 
                lại bảo ta phải tin. Đừng tin một điều gì dù điều đó ở dưới mãnh 
                lực của ông thầy hay nhà truyền giáo. Tất cả những sự thật, theo 
                suy nghiệm riêng của mình và sau khi xác nhận rõ ràng, phù hợp 
                với lẽ phải, tạo thành hạnh phúc riêng cho mình và hạnh phúc cho 
                tất cả mọi người thì chính đó là sự thật và ta cố gắng sống theo 
                sự thật ấy". Người xưa cũng thường dạy : "Thà ngàn năm không 
                ngộ, còn hơn một phút sai lầm". Tổ Lâm Tế nói : "Nhất niệm hào 
                ly, thiên địa huyền cách" (Một niệm lìa xa, đất trời xa cách). 
                Nếu chúng ta chọn sai con đường đi không đúng chánh pháp thì 
                muôn kiếp khó tìm lại được. Cho nên trạch pháp giác chi là yếu 
                tố để giúp người học Phật nhận thức một cách sáng suốt tỉnh táo 
                trên con đường chọn lựa pháp môn tu tập.
 
                
                - 
                2)- Niệm giác chi 
                (Sati sambojjhanga) :
 
                
                - 
                Niệm là nhớ nghĩ, 
                giác là sự tỉnh giác. Niệm giác chi là luôn luôn nhớ đến sự tỉnh 
                giác. Đây là phương pháp được Đức Phật đề cập nhằm giúp cho con 
                người phát triển tuệ giác, đồng thời có công năng làm cho các 
                vọng niệm không dấy khởi. Như chúng ta biết, tạp niệm là nguyên 
                nhân làm cho con người kinh nghi và thoái hóa, nó là bước trở 
                ngại đáng kể cho tuệ giác phát triển, làm phân tán sức mạnh của 
                tâm thức.
 
                
                - 
                Trái lại, chánh niệm 
                giúp cho chúng ta nhận thức một cách rõ sự vật hiện tượng qua 
                các pháp vô thường, khổ, vô ngã trong đời sống, những đổi thay 
                của những dục niệm, cho chúng ta cái nhìn xét đoán chuyển biến 
                của tâm thức trong từng sát na sanh diệt, thấy rõ các tà niệm, 
                có nhận thức đúng đắn (chánh kiến) và nhờ đó chúng ta nhận thức 
                rõ sự thật của các pháp. Niệm giác chi giúp cho chúng ta luôn 
                tỉnh táo trong mọi hoàn cảnh khi đối diện với thực tế của đời 
                sống.
 
                
                - 
                3)- Tinh tấn giác chi 
                (Virya sambojjhanga) :
 
                
                - 
                Tinh tấn giác chi là 
                nỗ lực chuyên ròng hướng đến tỉnh giác để loại trừ các tư hoặc, 
                thực hành chánh pháp làm cho tuệ giác được phát triển, dù chúng 
                ta có một lý tưởng cao đẹp nhưng thiếu chuyên chú, nỗ lực và bền 
                bỉ (tinh tấn) thì khó thành tựu được chí nguyện. Nhà triết gia 
                Huxley đã nói : "Mục đích tối cao trong đời người là sự hành 
                động, không phải là sự hiểu biết suông". Vì thế cho nên tinh tấn 
                là yếu tố tối quan trọng trong việc thực hiện lý tưởng giải 
                thoát giác ngộ ; thiếu sự tinh tấn, nỗ lực của tự thân để tạo 
                thành sức mạnh nội tại thì không thể chiến đấu chống giặc phiền 
                não. Hình ảnh đầy sinh động dưới cội cây bồ đề khi Đức Bổn Sư 
                Thích Ca dùng bát sữa của Sujàta, xong Ngài quăng bát đựng sữa 
                xuống dòng sông Ni Liên Thuyền và phát đại nguyện : "Dù thân ta 
                có khô, máu ta có cạn, nếu không thành đạo, ta nguyện không rời 
                khỏi chỗ ngồi này".
 
                
                - 
                Qua đó, chúng ta nhận 
                thấy trong tu tập hay đời sống thường nhật của con người, bao 
                giờ sự thành công cũng dành cho những con người siêng năng và 
                chăm chỉ (tinh tấn), thiếu chuyên cần thì dù có thông minh đến 
                đâu cũng khó thành tựu được sự nghiệp. Đức Phật dạy : "Hết ngày 
                này qua tháng khác, hết giờ nọ sang giờ kia, người thợ vàng phải 
                nỗ lực công phu mới lọc được vàng ròng. Con người muốn cho thân 
                tâm trong sạch cũng phải cố gắng rèn luyện như thế" (Pháp Cú).
 
                
                - 
                4)- Hỷ giác chi (Piti 
                sambojjhanga) :
 
                
                - 
                Hỷ giác chi là sự vui 
                có tỉnh giác, khi tu tập, chúng ta luôn luôn cảm nhận niềm an lạ 
                trong đời sống hàng ngày, không bị phiền não trói buộc, tùy hỷ 
                với những thiện pháp mà mọi người xung quanh đã đạt được. Vì thế 
                cho nên người tu tập phải biết khởi tâm hoan hỷ trong mọi hoàn 
                cảnh để vượt qua mọi chướng duyên, trở ngại trên bước đường tìm 
                cầu sự an lạc giải thoát. Nếu như trong đời sống không có sự vui 
                tỉnh giác thì việc tu tập của hành giả khó mà đạt được cứu cánh 
                của sự giác ngộ. Trong nền giáo lý của đạo Phật, tâm hỷ là yếu 
                tố cơ bản, có công năng chuyển hóa và hóa giải các cấu uế phiền 
                não, nó là nhân tố giúp cho người thực hành pháp cảm nhận phấn 
                khởi trên bước đường tu tập, giúp cho hành giả có một niềm tin 
                mãnh liệt để đi đến thành tựu đạo quả Bồ đề. Mục đích chính của 
                đạo Phật là "chuyển mê khai ngộ, ly khổ đắc lạc" (chuyển sự mê 
                mờ làm cho chúng sanh giác ngộ, lìa khổ được vui).
 
                
                - 
                5)- Khinh an giác chi 
                (Passaddhi sambojjhanga) :
 
                
                - 
                Khinh có nghĩa nhẹ 
                nhàng, an là an ổn, khinh an giác chi là trạng thái nhẹ nhàng an 
                lạc tỉnh giác trong đời sống, luôn luôn thư thái do đạt được 
                niềm hỷ lạc thanh tịnh của các pháp thiện. Nó có công năng làm 
                cho các phiền não trói buộc bị tiêu trừ và đối trị những bất 
                thiện tâm sở làm dao động bất an. Khi người tu tập đạt được 
                khinh an sẽ cảm nhận một trạng thái nhẹ nhàng, ví như người bị 
                bệnh qua được cơn đau lâu ngày hành hạ cơ thể. Do đó, họ có thể 
                vững bước trên con đường đi tới đích vì đã đạt được sự nhẹ nhàng 
                của tâm.
 
                
                - 
                Trong kinh A Hàm kể 
                một pháp thoại : Có một vị Tỳ kheo đang ngồi tĩnh tọa trong rừng 
                bỗng nhiên tâm hoan hỷ phát sanh thốt lớn lên : "Ôi, hạnh phúc 
                quá. Ôi, hạnh phúc quá...". Những người bạn đồng tu ngồi bên 
                cạnh nghe được liền đem bạch lại với Phật. Đức Phật nhân câu 
                chuyện đó giảng cho mọi người nghe và hỏi vị Tỳ kheo kia nguyên 
                nhân vì sao khi tĩnh tọa lại phát ra những lời như thế ?
 
                
                - 
                Vị Tỳ kheo bạch Phật 
                : "Trong lúc ngồi thiền đạt được trạng thái an lạc, cảm nhận 
                thân tâm được nhẹ nhàng, con có thốt ra những lời đó vì trước 
                đây con làm quan trong triều, có đầy đủ cao lương mỹ vị, kẻ hầu 
                người hạ nhưng không ngày nào con cảm thấy yên tâm, luôn luôn lo 
                sợ bị người khác chiếm lấy quyền lực, địa vị của mình, đối với 
                nhà vua thì sợ bị khiển trách do kẻ sàm tấu tâu lên. Trái lại từ 
                khi con vào đây sống với đời sống phạm hạnh, con thấy không bị 
                những bất an sợ hãi lo lắng như ở triều đình, nên khi ngồi tĩnh 
                tọa dưới gốc cây, con cảm nhận có một niềm an lạc khinh an (nhẹ 
                nhàng) hạnh phúc tràn ngập trong lòng nên con thốt lên những lời 
                như thế".
 
                
                - 
                6)- Định giác chi 
                (Samadhi sambojjhanga) :
 
                
                - 
                Định là samadhi, là 
                giữ tâm an trụ vào một điểm, một đối tượng, không cho tâm phan 
                duyên phóng đi nơi khác. Định giác chi là tâm luôn luôn an định 
                tỉnh giác, không bị chi phối bởi phiền não vọng tưởng và các 
                duyên bên ngoài tác động vào tâm thức. Chúng ta biết giáo lý đạo 
                Phật là giáo lý nội quan, cho nên việc thực hành chánh định 
                không thể thiếu trong đời sống của người con Phật. Mục tiêu của 
                đạo Phật là giúp con người quay lại tìm về chính mình, nhận chân 
                giá trị của mọi giá trị không có giá trị nào bằng giá trị nơi 
                từng con người, vì chính hạnh phúc hay khổ đau đều do con người 
                tạo nên. Cho nên Đức Phật từng nói : Con người là tối thượng. 
                Việc tu tập để tâm định không có nghĩa là để biết người khác, 
                tìm tòi "soi căn, soi kiếp của người khác", hay để có thần 
                thông, phép lạ trị bệnh chữa tà, sai khiến quỷ thần, những điều 
                đó trái với tinh thần đạo Phật. Trái lại, định của Phật dạy là 
                để chữa căn bệnh vọng tưởng chạy theo cảnh duyên bên ngoài, 
                không nhận chân được giá trị của nguồn hạnh phúc của chính mình, 
                đây thực sự là điểm khác biệt của đạo Phật với các tôn giáo 
                khác.
 
                
                - 
                7)- Xả giác chi 
                (Upekkhà sambojjhanga) :
 
                
                - 
                Xả là upekkhà, do hai 
                từ gốc upa là đúng đắn, chân chánh, vô tư, và ikkha trông thấy, 
                nhận thức, suy luận. Vậy, upekkhà là trông thấy đúng đắn, nhận 
                định chân chánh, hoặc suy luận vô tư, không luyến ái, không ghét 
                bỏ, không ưa thích cũng không bất mãn. Kinh Jãtaka nói : "Trong 
                hạnh phúc, trong phiền não, lúc thăng, lúc trầm, ta phải giữ tâm 
                như đất. Cũng như thế, trên đất, ta có thể vất bất cứ vật gì, 
                dầu chua, ngọt, sạch, dơ, đất vẫn thản nhiên, một mực trơ trơ. 
                Đất không giận cũng không thương". Dùng tuệ quán đối trị với 
                chấp thủ của tâm, không để cho bóng dáng của vọng tưởng lưu lại 
                nơi tâm thức, luôn luôn để tâm đạt được sự an tịnh, đó là chúng 
                ta thực hành tâm xả. Không một đối tượng nào có thể làm cho 
                người có tâm xả bị lay chuyển. Thuận và nghịch cảnh không làm 
                cho người có tâm xả cảm thấy bất an trước những thuận nghịch của 
                ngoại duyên. Bát phong không làm cho người thực hành pháp xả bị 
                cuốn theo. Người thực hành tâm xả không chấp thủ vào các pháp 
                mình đã tu, đã đạt được. Kinh Kim Cang Sớ nói : "Người tu tập 
                phải như thuyền qua sông, khi thuyền đã cập bến, nếu ta không bỏ 
                để lên bờ thì đừng hòng đi đến đâu và biết được gì".
 
                
                - 
                IV- Một số ý niệm khi 
                thực hành pháp giác chi 
 
                
                - 
                1)- Khi thực hành 
                trạch pháp giúp cho người con Phật nhận thức một cách độc lập, 
                tự do, tự chủ, có tỉnh giác, không bị những tín điều, giáo điều, 
                những xu hướng ỷ lại vào những quyền năng thần lực gia hộ, phù 
                trì, làm đức tin bị mù quáng, thủ tiêu hết mọi ý chí suy tư tự 
                chủ cá nhân của con người.
 
                
                - 
                2)- Con người luôn 
                luôn bị những tà niệm, tạp niệm chi phối không giữ được chánh 
                niệm, phân tán sức mạnh nội tại, làm tiêu tan ý chí với những 
                hoài nghi tìm cầu viển vông không thiết thực. Thực hành niệm 
                giác chi là chúng ta đã điều chỉnh tâm sinh lý về mặt tự thân.
 
                
                - 
                3)- Thực hành pháp 
                tinh tấn giác chi là chúng ta loại trừ tính biếng nhác, do dự và 
                bất nhất trong đời sống khi gặp nhiều chướng duyên trắc trở. Có 
                thể nói tinh tấn là yếu tố phát triển đức tính kiên trì giúp cho 
                con người thành công trên bước đường lập nghiệp.
 
                
                - 
                4)- Những lo âu phiền 
                muộn là nguyên nhân gặm nhấm thiêu đốt con người trở nên héo tàn 
                theo thời gian, cho nên người ta thường nói : "Nụ cười hơn mười 
                thang thuốc bổ". Thật vậy, ứng dụng hỷ giác chi là chúng ta có 
                nụ cười trong tỉnh thức. Ngài Dhammanda nói : "Bí quyết của một 
                đời sống hạnh phúc và thành công là cố gắng làm những điều đáng 
                làm trong hiện tại không lo âu,tương lai không phiền muộn về quá 
                khứ".
 
                
                - 
                5)- Mọi sự chấp trước 
                bất an, sợ sệt đều là những nguyên nhân làm cho thân tâm chúng 
                ta nặng nề không thoải mái trong đời sống, bực dọc trong sinh 
                hoạt. Thực hành khinh an giác chi là chúng ta có một thân tâm 
                nhẹ nhàng, trút bỏ gánh nặng của lo âu, sợ hãi. Thảnh thơi tự 
                tại ung dung trong công việc là chúng ta đã thể hiện người con 
                Phật hưởng được pháp vị của Phật.
 
                
                - 
                6)- Oán thù, chiến 
                tranh, tranh chấp quyền lợi hơn thua, phải quấy làm khổ mình, 
                khổ người. Mọi sự đổ vỡ hạnh phúc, bạn bè thân thuộc, trong gia 
                đình đều bắt nguồn từ nguyên nhân không làm chủ được tâm. Hành 
                pháp định giác chi là người con Phật học pháp làm chủ mình, phát 
                triển sức mạnh tinh thần, không bị những tác duyên bên ngoài sai 
                khiến.
 
                
                - 
                7)- Những đố kỵ ganh 
                ghét, bỏn xẻn đều bắt nguồn từ chỗ thiếu tâm xả mà ra, cho nên 
                phiền não khổ đau cũng từ nơi đất này phát sinh trổ quả. Thực 
                hành xả giác chi là chúng ta đã mở rộng lòng từ, buông xả, tiêu 
                trừ hết mọi tâm lý nhỏ hẹp, ích kỷ, đập tan tường thành cá nhân 
                chủ nghĩa. Vì thế cho nên muốn cho đời sống của mình và người có 
                hạnh phúc an vui, phải thực hành xả giác chi : chỉ có lòng 
                thương yêu chân thật đặt trên tư tưởng bình đẳng mới đem lại ý 
                nghĩa cho cuộc sống.
 
                
                - 
                C. KẾT LUẬN
 
                
                - 
                Qua những yếu tố 
                trên, cho chúng ta một nhận thức : chỉ có con đường thực hành 
                bảy phương pháp đưa đến giác ngộ (Thất giác chi) mới đem lại đời 
                sống an vui hạnh phúc, thoát khỏi khổ đau mà Đức Phật đã tuyên 
                bố : "Nước của bốn biển chỉ có một vị duy nhất, đó là vị mặn của 
                muối ; giáo pháp của Như Lai cũng thế, chỉ có một vị, đó là vị 
                giải thoát".
 
                - 
                
   
                - --o0o--
 
               
              
             
             | 
   
           
               
       
       |