| 
           
      
  
           
                
            
              
              
                - Thư Viện Chùa Dược Sư
 
                - PHẬT HỌC CƠ BẢN
 
                  
               
              
              
                
                   
                  - 
                  
                  KHÁI LUẬN 
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  
                  TƯ TƯỞNG PHẬT HỌC ẤN ĐỘ
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  Tác giả: Lữ Trưng
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  Thích Hạnh Bình dịch
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  --o0o--
 
                  
                
                - 
                 
 
                - 
                Lời 
                người dịch: 
                " Khái luận tư tưởng Phật học Ấn độ" là một tác phẩm nghiên cứu 
                Phật học của học giả người Trung Hoa Lữ Trưng . Quan điểm của 
                ông đối với việc nghiên cứu Phật học là chính đáng, vì phương 
                pháp nghiên cứu của ông gắn liền với sử học, nghĩa là tư tưởng 
                và bối cảnh xã hội không thể tách rời nhau. Hiện tại, tuy ông đã 
                qua đời nhưng tác phẩm của ông được xem như là một bó đuốc dẫn 
                đường cho những ai say mê nghiên cứu Phật học, thậm chí người 
                Nhật và người Tây Phương cũng phải kính nể về sự uyên bác Phật 
                học của ông. Tuy ông chỉ để lại một vài tác phẩm , nhưng tư 
                tưởng của ông đã nở rộ ở Đài Loan qua sự khai thác và kế thừa 
                của Pháp sư Ấn Thuận. Có thể nói đây là một hệ thống, phương 
                pháp mới đối với giới học thuật trên thế giới. Do đó, trong thời 
                gian nghiên cứu, tôi nhín chút thời giờ để chuyển ngữ tác phẩm 
                này sang tiếng Việt để mọi người cùng nghiên cứu. 
 
                - 
                 
 
                
                   
                  - 
                  
                  TIẾT THỨ 1
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  
                  NGUYÊN THỦY PHẬT HỌC
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  
                  (530 TCN - 370 TCN )
 
                  
                
                - 
                    
                      Sự phân kỳ của Phật học sử, chúng ta tính từ Phật học xuất 
                hiện vào những thế kỷ trước Công nguyên cho đến thế kỷ thứ XI 
                sau công nguyên, tổng cộng có chừng 1500 năm, chia làm 6 giai 
                đoạn: 1. Phật học Nguyên thủy; 2.Phật học Bộ phái; 3. Phật học 
                Đại thừa sơ kỳ; 4. Phật học Tiểu thừa; 5. Phật học Đại thừa 
                trung kỳ; 6. Phật học Đại thừa văng kỳ. 
 
                - 
                    
                      Thời kỳ Phật học Nguyên thủy, là chỉ cho những học thuyết 
                được truyền thừa tính từ thời gian đức Phật thành đạo và được 
                truyền thừa 3,4 thế hệ cho đến sau khi Ngài nhập diệt, là thời 
                gian nội bộ Phật giáo vẫn chưa phân hóa, tư tưởng vẫn còn thống 
                nhất. Niên đại có thể tính là: Phật nhập diệt vào năm 486 TCN, 
                hưởng thọ 80 tuổi, cho nên năm ngài sanh là năm 565 TCN. Ngài 
                thành đạo năm 30 tuổi, tức năm 530 TCN. Phật học phân thành Bộ 
                phái vào khoảng thời gian hơn 100 năm sau khi đức Phật nhập 
                diệt. Do vậy, chúng ta có thể đi đến xác định niên đại của thời 
                kỳ thứ nhất là năm 530 TCN - 370 TCN. 
 
                - 
                    
                      Những học thuyết chủ yếu của thời kỳ Phật học Nguyên thủy 
                là KINH và LUẬT. Kinh gồm có hai loại, Phật giáo Bắc truyền gọi 
                là A Hàm, Phật giáo Nam truyền gọi là Nikàya. A hàm, ngoài 4 bộ: 
                Trường A hàm, Trung A hàm, Tạp A hàm, Tăng nhứt A hàm còn có [ 
                Tạp Tạng ];  Nikàya, ngoài 4 bộ tương đương A hàm vừa dẫn, còn 
                có [ Tiểu bộ ]. Phật giáo Nam Bắc truyền có 4 Bộ tương đương là 
                Trường Bộ, Trung Bộ, Tăng Nhứt Bộ, và Tạp Bộ. Luật, nội dung cơ 
                bản của Luật là giới điều, về sau thêm phần quảng thích và chú 
                giải duyên khởi của từng sự kiện, như thế luật tổng cộng gồm có 
                3 Bộ. Những kinh và luật mà hiện nay được lưu truyền là đã được 
                tăng thêm hoặc giảm bớt theo từng quan điểm của mỗi Bộ phái, 
                trong đó không sao tránh khỏi mang sắc thái của mỗi Bộ phái, nếu 
                như   chúng ta muốn truy tìm lời dạy nguyên thủy của đức Phật, 
                cần phải tiến hành nghiên cứu và phân tích một cách nghiêm túc. 
                Những học giả Tây phương đã bỏ không ít thời gian nghiên cứu về 
                vấn đề này, nhưng họ không thể sử dụng được những nguồn tư liệu 
                Hán dịch (Tư liệu Phật giáo Bắc truyền phần lớn được bảo lưu 
                trong Hán tạng), lại thiên nặng Pàli, thậm chí cho Kinh tạng 
                Pàli là những lời chính đức Phật nói, quan điểm này không sao 
                tránh khỏi sự thiên kiến. Người Đức, Aó Đăng Bảo, người Anh, Lợi 
                Tư Đại Ve, phương 
                pháp nghiên cứu của hai người này về Thánh điển Pàli là: Từ 
                trong Kinh Luật tìm ra sự sai khác của những gì tân và cựu, sau 
                đó đoán định cái gì gọi là lời dạy của đức Phật. Đây là phương 
                pháp nghiên cứu xa xưa, cách đây 40 năm về trước, nhưng hiện nay 
                vẫn còn ảnh hưởng. Còn phương pháp nghiên cứu của người Nhật là: 
                Trước tiên, đem những Kinh Luật của Nam Bắc truyền đối chiếu so 
                sánh, tìm xem trong ấy những gì giống nhau giữa Nam Bắc truyền, 
                từ đó mới phán đoán cái gì gọi là Phật học Nguyên thủy, như  học 
                giảTỷ Kỳ Chánh Trì đã sử dụng phương pháp này. Về sau, Vũ Thăng 
                Bá Thọ?ngoài phương pháp so sánh đối chiếu, còn sử dụng phương 
                pháp, tiến hành cụ thể phân tích tính logic trong kết cấu và 
                tính logic của sự phát triển trong từng thể hệ của mỗi học 
                thuyết, từ đó đi đến xác định những gì là Phật học Nguyên thủy 
                và những gì là những cái xuất hiện về sau. Phương pháp nghiên 
                cứu của Tỷ Kỳ có phần thuyết phục hơn, nhưng cũng rất khó phục 
                hồi diện mạo Phật học Nguyên thủy. Lý do là Phật giáo Bộ phái đã 
                trải qua mấy lần phân hóa, do vậy, những tư liệu cũng đã mấy 
                phen thay đổi, cùng nhau ảnh hưởng, mô phỏng qua lại, không 
                ngừng bổ sung, tức có những điểm tương đồng, do đó, những gì 
                tương đồng ấy, thật khó đi đến xác định là Phật học nguyên thủy. 
                Hiện nay, nếu muốn tìm ra Phật học Nguyên thủy từ trong những 
                Kinh luật hiện có, vẫn còn là vấn đề nan giải. 
 
                - 
                    
                      Chương này, người viết chỉ lấy đức Phật làm trung tâm mà 
                lưu hành những học thuyết, từ đó truy tìm vấn đề trọng tâm của 
                vấn đề, đồng thời thêm phần tổ chức, cho đó là Phật học Nguyên 
                Thủy, phương pháp này không giống những phương pháp phân tích 
                vừa nêu trên của những học giả Tây phương và Nhật Bản. 
                
 
                - 
                Thời đại 
                của đức Phật Thích Ca 
 
                - 
                    
                      Thời đại đức Phật Thích Ca là vào thế kỷ thứ VI đến thế kỷ 
                thứ V trước công nguyên. Bấy giờ Xã hội Ấn Độ theo chế độ chiếm 
                hữu nô lệ, đã hình thành Quốc gia, thành thị, ngành thương 
                nghiệp khá phát triển. Chẳng qua chế độ nô lệ của Ấn Độ cùng Tây 
                phương có những điểm không giống nhau, Ấn Độ không có quy mô tổ 
                chức chế độ nô lệ, nhựng người nô lệ cũng không bị xâm đoạt nặng 
                nề như Tây phương, do vậy, ở Ấn giai cấp nô lệ không phát sanh 
                hiện tượng phản kháng bạo động giống như Tây phương. Có một số 
                người cho rằng, giai cấp nô lệ ở Aᮠchỉ 
                là hình thức chiếm hữu nô lệ ở giai đoạn đầu, rồi đình trệ ở 
                giai đoạn này, không tiếp tục phát triển. 
 
                - 
                    
                      Tình hình phát triển của xã hội Ấn Độ là: Từ Tây bắc Âu 
                phát triển dần đến Đông Âu.
                 Trước 
                tiên là vùng thượng du lưu vực sông Hằng, cửa khẩu giòng sông Ấn 
                Độ và Diêm mâu na là khu vực bình nguyên, nơi đây hình thành cái 
                gọi là Trung quốc của nước Ấn Độ. Vào khoảng thế kỷ thứ VI trước 
                công nguyên phát triển đến vùng hạ lưu sông Hằng, tức miền trung 
                Á ở đây thành lập khá nhiều quốc gia, lấy thành thị làm trung 
                tâm, một số người gọi nó là 16 quốc gia (Kinh tạng Pàli, Tăng 
                nhứt Bộ, kinh thứ 1 và 4, tương đồng Hán dịch, Trung A hàm, 
                quyển 55 " Trì tế kinh " cho đến trong giáo điển của Kỳ na giáo 
                đều có ghi chép 16 quốc gia này.). Đến thời đại đức Phật Thích 
                Ca, hình thế 16 nước này, có sự chuyển biến khá lớn, trong đó 
                những quốc gia cường thạnh là nước Ma Kiệt Đà ở vùng Nam ngạn 
                sông Hằng, Kiều Tát La vùng Tây Bắc, và Bạt Kỳ (" kinh Duy Ma 
                Cật"  lấy nước này làm bối cảnh) vùng Đông Bắc Âu Tình hình 
                chính trị của mỗi quốc gia không giống nhau, có những nước theo 
                chế độ quân chủ, có những nước theo chế độ cộng hòa. Những quốc 
                gia theo chế độ cộng hòa cũng có người lãnh đạo, chẳng qua có 
                chế độ hội nghị, những việc trọng đại thông qua hội nghị đa số 
                thành viên quyết định, đây là tàn dư của chế độ hội nghị nguyên 
                thủy còn lưu lại. Chế độ côﮧ hoà chỉ tồn tại ở vùng Đông bắc 
                Ương Già, Bạt Kỳ, Mạt La và nước Ca Tỳ la Vệ của giòng tộc Thích 
                Ca?hiện nay những nước này hoàn toàn bị tiêu diệt (Trong " Bổn 
                sanh Kinh " và những Phật truyện về sau, đều có phản ánh tình 
                hình xã hội đương thời). Trong các nước, thông thường chế độ 
                chủng tánh ( Chủng tánh tức là " Ngoả nhỉ nạp ", ý nghĩa là nhan 
                sắc. Người Ariyan có màu da trắng, chiếm lãnh địa vị thống trị, 
                dân bản địa có màu da đen, là những người bị trị, đây là sự phân 
                chia đẳng cấp trong xã hội Ấn). Đầu tiên Ấn Độ chỉ có hai chủng 
                tộc, về sau những người Ariyan lại tiếp tục phân thành 4 giai 
                cấp: 1. Bà La môn, 2. Sát đế Lợi, 3. Phệ xá, 4 Thủ đà la. Bà La 
                Môn vốn là giai cấp chuyên giúp cho giai cấp thống trị là Sát Đế 
                lợi, nắm giữ lãnh vực văn hóa, tôn giáo. Đến thời đại Thích Ca, 
                giai cấp Sát Đế lợi đối với giai cấp Bà la môn biểu thị sự bất 
                bình về mặt quyền lực, những người ủng hộ tư tưởng phi Bà la 
                môn, hình thành trận tuyến chống lại giai cấp Bà la môn. Giai 
                cấp Phệ xá bao gồm những người nông nghiệp, công nghiệp và 
                thương nghiệp, chịu sự áp bức của 2 giai cấp trên rất trầm 
                trọng. Đương thời xã hội Ấn Độ ngành thủ công nghiệp phát đạt, 
                thương nghiệp phồn thành (cùng các nước Miến Điện, Ba Tư, Á rập 
                đều có qua lại  buôn bán), những thương nhân trở thành giàu có, 
                do vậy, đối với việc chính trị sinh ra yêu cầu bức thiết. Sự 
                hình thành những lực lượng xã hội này, đã làm suy yếu các mặt 
                chính trị, tư tưởng của giai cấp Bà la môn, điều đó đã dẫn đến 
                xã hội đương thời xuất hiện sáu phái triết học, là những tư 
                tưởng đại diện cho các giai cấp không cùng vị trí trong xã hội 
                (" Kinh Duy Ma. Phẩm Đệ tử ",  " Trường A hàm. Kinh Sa môn quả 
                ". Đơn hành bổn đều có tư liệu liên quan đến tư tưởng của 6 phái 
                này. Trường Bộ kinh của Nam truyền cũng có ghi chép, chẳng qua 
                sự ghi chép của Nam Bắc truyền không đồng nhất ). 
 
                - 
                    
                      Trong sáu phái triết học, Phái thứ nhất, là phái có tư 
                tưởng duy vật, người đại diện cho phái này là A xà Đa - Ajita 
                Kesa Kambala, về sau được gọi là Thuận Thế phái. Phái này cho tứ 
                đại: đất, nước, gió, lửa là những nguyên tố độc lập trường tồn, 
                con người và thế giới do 4 đại này tạo thành; không thừa nhận có 
                linh hồn, con người khi chết đi trả về tứ đại. Mục đích sống của 
                con người là truy cầu và thỏa mãn những khoái lạc. Học thuyết 
                này, là sự phản kháng việc tế tự của Bà la môn giáo, là những 
                người đại diện cho giai cấp nô lệ. Phái thứ hai là Tán Nhã Di - 
                Sanjaya Velatthiputta, là học phái mang chủ nghĩa trực quan, đôí 
                với mọi vấn đề đều không có sự khẳng định, như vấn đề có hay 
                không có đời sau, có hay không có quả báo? Phái này cho rằng, 
                nói có tức có, nói không liền không. Do vậy, người ta cho tư 
                tưởng phái này, là phái trường uốn như con lương, thật khó nắm 
                bắt. Phái này chủ trương thật hành thiền định, để mong cầu chơn 
                chánh trí tuệ. Trong những đệ tử đức Phật, ngài Mục Kiền Liên, 
                Xá lợi Phất đều có theo phái này học tập. Học thuyết của phái 
                này cũng hàm ý phản đối chủ trương cho rằng, thế giới do Phạm 
                ngã chuyển hóa mà thành của Bà la môn giáo. Đến thời đại " Aó 
                nghĩa thư "  vẫn còn thừa nhận thuyết nghiệp báo, luân hồi, Tán 
                Nhã Di biểu hiện thái độ không tín nhiệm bằng cách không khẳng 
                định cũng không phủ định. Phái thứ ba, là Mạt già Lê - Makkhali 
                - Gosala, là người có chủ trương định mệnh luận, tức không thừa 
                nhận có nghiệp báo, không có cha mẹ, tu hành là vô nghĩa, không 
                ích lợi gì cả. Chỉ cần trải qua thời gian 840 vạn đại kiếp, đến 
                thời gian đó không luận là kẻ trí người ngu đều được giải thoát. 
                Phái này cho rằng, con người là do các loại nguyên tố tạo thành, 
                mang chủ nghĩa duy vât. Những người theo phái này tự cho học 
                thuyết mình là chánh kiến, ngoài ra đều là " Tà mạng ngoại đạo " 
                ngay cả Phật giáo. Phái thứ tư, là Bất Lan ca Diếp - Purana - 
                Kassapa. Học thuyết này cùng với học thuyết Mạt già Lê giống 
                nhau, phủ nhận thuyết thiện ác nghiệp báo và những học thuyết Bà 
                la môn giáo, chủ trương phóng túng dục lạc, mang chủ nghĩa hoài 
                nghi. Những người theo học thuyết này đều xuất thân từ giai cấp 
                nô lệ. Phái thứ năm, là Ba Phù Đà - Pakudha - Kaccayana, phủ 
                nhận hành vi của con người không có ảnh hưởng gì trong đời sống 
                tương lai, cho rằng thân người là do 7 yếu tố tạo thành, một 
                trong 7 yếu tố xa lìa, con người liền chết, những yếu tố này 
                vĩnh viễn tồn tại, mang tư tưởng duy vật. 3 học thuyết vừa nêu, 
                học thuyết na ná giống nhau, do đó thường ngộ nhận giữa phái này 
                và phái khác, 3 phái này đều tự xưng " Chánh mạng phái ", ngược 
                lại, Phật giáo gọi họ là " Tà mạng ngoại đạo ". Những người theo 
                phái này, xuất thân từ giai cấp nô lệ, những học thuyết vừa dẫn 
                đại diện cho quyền lợi của giai cấp thứ tư là giai cấp nô lệ. 
                Phái thứ sáu, là Ni Kiền Tử - Nigantha Nata-putta, phái này về 
                sau phát triển thành Kỳ Na giáo, chủ trương thất cú nghĩa: Trước 
                hết, đem thế giới phân thành hai loại, có sanh mạng và không có 
                sinh mạng; Có sanh mạng mà không được giải thoát, do bởi hoặc 
                nghiệp trói buột, do đó cần phải ngăn trừ, tiêu diệt chúng để 
                đạt đến giải thoát. Phái này cho rằng, nghiệp báo của con người 
                quá nặng nề, muốn nghiệp báo mau kết thúc, cần phải trải qua tu 
                tập khổ hạnh, cho nên chủ trương khổ hạnh. Tư tưởng này, trên 
                thật tế duy trì thuyết nghiệp báo của Bà la môn. Ni Kiền Tử xuát 
                thân từ giai cấp Sát Đế lợi, người mẹ là con gái của nhà vua, em 
                gái là vương phi, cho nên có thể nói học thuyết của phái này 
                cũng đại diện cho quyền lợi của giai cấp thống trị. Phái này đối 
                lập với học thuyết đức Phật Thích Ca, đã từng xảy ra sự xung đột 
                giữa hai bên. Phái này tuy duy trì Bà la môn giáo, nhưng trên 
                phương diện giải thoát, cùng Bà la môn giáo chủ trương không 
                giống nhau. 
 
                - 
                    
                      Chủng tộc của Thích Ca vốn không rõ ràng, có người cho là 
                chủng tộc Ariyan, tức là chủng tộc Mông Cổ, nằm phiá nam Nipal, 
                tiếp giáp giòng  sông Rapti thuộc đông bắc Ấn Độ. Truyền thuyết 
                cho rằng, dưới chân Hy mã lạp sơn, có một vùng đất chiều rộng 
                chừng 20 cây số, chiều ngang 16 cây số, tổng diện tích độ khoảng 
                320 cây số vuông, nơi đây có 10 thành thị nhỏ, trong đó thành 
                lớn nhất là Ca tỳ la vệ, nhơn đó lấy thành này làm tên nước. 
                Theo truyền thuyết cho rằng, đương thời Ấn Độ có 16 nước lớn, 
                nhưng trong đó không có tên Ca tỳ la vệ, có thể bấy giờ nước này 
                chưa thể độc lập, vẫn còn thuộc địa nước Kiều tát la. Ngài Huyền 
                Trang đã từng đến nơi này, căn cứ " Tây Vức ký " ghi rằng, sự đổ 
                nát của thành này vẫn còn tồn tại? Nước này có 80 ngàn hộ, tổng 
                cộng có 500 ngàn người, theo chế độ cộng hòa. Đương thời, về mặt 
                chánh trị xã hội Ấn đang ở trong tình trạng mạnh hiếp yếu, Ca tỳ 
                la vệ đang bị nước Kiều tát la uy hiếp là một điển hình cụ thể. 
                Đứng trước tình hình như vậy, Thích Ca đối với đất nước tất 
                nhiên phải có trách nhiệm, làm thế nào để thoát khỏi sự uy hiếp 
                của Kiều tát la ?  Vua Tịnh Phạn đương nhiên mong muốn người con 
                của mình là Thích Ca tiếp tục kế vị, để duy trì lãnh thổ là điều 
                tất yếu. 
 
                - 
                    
                      Nhưng, bản thân Thích Ca không muốn kế vị lãnh đạo quốc 
                gia, ngược lại, ngài rời bỏ hoàng cung theo các nhà tư tưởng học 
                tập, cuối cùng Thích Ca tự mình sáng lập học thuyết, truyền bá 
                khắp nơi, phát triển thành tôn giáo. Từ đó, những huyền thoại về 
                ngài tự nhiên càng lúc càng thần thánh hóa. Đối với những huyền 
                thoại này, đã có nhiều học giả nghiên cứu và hiện nay cũng còn 
                có nhiều người tiếp tục nghiên cứu, cho đến nay, lịch sử về cuộc 
                đời của ngài tương đối rõ ràng. 
 
                - 
                    
                      Những truyền thuyết về đức Phật, một phần được bảo tồn 
                trong Kinh tạng, phần lớn được bảo tồn trong Luật tạng. Luật, 
                mỗi Bộ phái đều có Luật riêng, do đó Phật truyện cũng không 
                giống nhau. Đại chúng bộ lấy Phật truyện gọi là [ Đại sự} , Pháp 
                tạng bộ gọi là [ Bổn hành kinh ] ( Luật của phái này gọi là " Tứ 
                phần luật " ). Trong thánh điển Hán dịch, có một bộ Phật truyện 
                tương đối hoàn chỉnh là " Phật bổn hành tập kinh " bao gồm 16 
                quyển, được dịch vào nhà Tùy, tập họp những Phật truyện khác 
                nhau từ 5 Bộ. Những Phật truyện trong các bộ luật của các Bộ 
                phái chỉ ghi chép về gia thế, sự kiện xuất gia, thành đạo của 
                đức Phật, và ngay cả sau khi thành đạo 6 năm, ngài trở về hoàng 
                cung, nhưng từ đó về sau những hoạt động của ngài không thấy ghi 
                chép, trong " Phật bổn hành kinh " cũng chỉ ghi chép như thế. 
                Ngài Mã Minh viết quyển " Phật sở hành tán " cũng dựa vào những 
                nguồn tư liệu này, rồi viết thêm cho đến khi đức Phật nhập diệt 
                ( Ngoài ra ngài Mã Minh còn viết  phần tụng Quy kính trong " Đại 
                trang nghiêm luận kinh ", quy kính không chỉ một Bộ, trong đó 
                bao gồm Độc tử Bộ?). Thích Ca sau khi thành đạo, những người 
                theo ngài xuất gia tổ chức thành đoàn thể, đặc ra nhiều chế độ, 
                trong đó có chế độ an cư. Căn cứ những tư liệu hiện có, sau khi 
                Phật thành đạo, trong vòng 45 năm, mỗi địa điểm an cư đều có ghi 
                chép, vả lại rất hợp lý, thứ nhất, Phật thường trú tại thành 
                Vương Xá, là thủ đô của nước Ma kiệt đà, thứ hai, hơn 20 năm ở 
                tại thành Xá Vệ, là thủ đô nước Kiều Tát La. Thế thì, dựa trên 
                tư liệu, co thể tường thuật 45 năm đức Phật giáo hóa. Điều này, 
                những truyện ký về đức Phật Thích Ca là có sự thật. 
 
                - 
                    
                      Những việc làm trọng tâm của đức Phật, ngang qua tác phẩm 
                " Ấn độ Phật học 
                sử lược", qua đó chúng ta có thể thấy phần nào về cuộc đời của 
                Ngài. Đại khái như dưới đây: Thuở thiếu thời Ngài được giáo dục 
                một cách nghiêm túc, khi trưởng lập gia đình, sinh con, năm 29 
                tuổi xuất gia, đến nước Ma Kiệt Đà tìm thầy học đạo, nhưng không 
                thoả mãn, trải qua 6 năm khổ hạnh vẫn không hài lòng, cuối cùng 
                tự ngài tư duy sáng lập học thuyết mới vào năm 35 tuổi. Từ đó, 
                đức Phật bắt đầu tuyên dương giáo pháp, trải qua tròn 45 năm. 
                Những nơi mà Ngài thường nói pháp là nước Ma Kiệt Đà, Kiều Tát 
                La và Bạt Sa, đông đến Chiêm Ba (?) Tây đến Ma thâu La, phạm vi 
                khá rộng. 
 
                - 
                    
                      Tại sao Thích Ca muốn xuất gia ? Qua sự phản ánh trong học 
                thuyết của Ngài, biểu hiện nội dung xã hội như thế nào ? Ấn độ 
                xã hội đương thời tự do tư tưởng rất phát triển, những nhà tư 
                tưởng này xuất thân từ giai cấp Sát Đế Lợi không phải là ít. 
                Trên thực tế, có nhiều vấn đề mà giai cấp Bà La Môn không hiểu 
                phải học tập ở giai cấp Sát Đế Lợi (Trong " A?hĩa thư " có đề 
                cập đến vấn đề này). Như liên quan đến vấn đề Thần ngã, khái 
                niệm này vốn là lý luận của Bà La Môn,  thế nhưng về sau bản 
                thân họ giải thích không rõ ràng, phải học tập ở Sát Đế Lợi. Lại 
                như học thuyết luân hồi, do nhà vua Bát phược ha na thuộc giai 
                cấp Sát Đế Lợi sáng lập, sau đó những người Ba la môn giữ phần 
                tế tư, đối với học thuyết này phát triển thành thuyết nghiệp 
                lực, và được xem như là sự bí mật để phụng thờ. Trước tình hình 
                như thế, Thích Ca cho là, nếu như không thể đề cao được địa vị 
                chính trị nước Ca tỳ la vệ, thì tốt nhất cá nhân cần tranh thủ 
                với mọi người trong lãnh vực tư tưởng học thuật. Theo truyền 
                thuyết, sau khi ngài sinh ra, tướng sư dự đoán, nếu như Ngài 
                không làm vua chuyển luân thì làm nhà tư tưởng, điều tiên đoán 
                này, phản ánh cục diện đương thời mà Ngài phải đối phó, chỉ có 
                hai con đường là chọn học thuật hay chính trị. Đó là nguyên nhân 
                dẫn đến Thích Ca xuất gia, ngoài ra còn có nhiều thuyết khác 
                nhau. Như cho rằng, Ngài thấy sự khổ đau của người già, người 
                bịnh và người chết, đồng thời thấy đời sống tự do tự tại của vị 
                Sa môn, dẫn đến sự xuất gia của Ngài; ngoài ra còn có thuyết cho 
                rằng, khi Ngài trông thấy người nông phu cày ruộng, những loài 
                trùng bị chim ăn, nhưng người nông phu vẫn thản nhiên, không tỏ 
                sự thương tâm trước sự chết của một sinh mạng. cảnh tượng này, 
                khiến Ngài động lòng bi mãn trước cái chết của kẻ khác, đồng 
                thời hiểu rõ ý nghĩa vô thường? Phải chăng sự xuất gia của Ngài 
                là do thấy sự khổ nhọc của người nông phu và sự khổ đau của sinh 
                mạng vô thường ? Trung quốc, có một số tư liệu ghi rằng, Thích 
                Ca sống rong hoàng cung không cảm nhận được sự đau khổ, phải ra 
                khỏi hoàng cung, tiếp xúc những hiện tượng sinh hoạt của xã hội, 
                khiến ngài sinh ý niệm thế giới là khổ đau. Tư liệu này, tuy 
                không rõ ràng và xác thực, nhưng cho rằng nông phu là khổ, khái 
                niệm này cùng học thuyết của Ngài có sự tương đồng. Đối với việc 
                duy trì và hưởng ứng học thuyết của Thích Ca, một số tư liệu 
                ghi, nhà vua Tần Bà Sa La nứơc Ma kiệt đà rất kính phục, và đem 
                Trúc Lâm tinh xá cúng dường Thế Tôn để làm nơi tuyên dương chánh 
                Pháp. Về sau, Ngài cũng được chủng tộc của Ngài hưởng ứng, và 
                cuối cùng được vua Ba Tư Nặc nước Kiều Tát La tín nhiệm. Ngoài 
                ra, Thế Tôn còn được những người thương nhân như Tu Đạt Đa, Cấp 
                Cô Độc.v.v. là những vị thí chủ nổi danh đương thời ủng hộ. Còn 
                có thuyết cho rằng, Đông viên Lộc mẫu giảng đường là do một cô 
                dâu giàu có đem đồ trang sức quí giá của mình bán đi, lấy tiền 
                kiến thiết Giảng đường này. Về sau, Thế Tôn đi đến thành Phệ Xá 
                Ly, ở đây vốn là khu vực của Kỳ Na giáo, hoạt động rất khó khăn, 
                nhưng Ngài cũng được vị trưởng giả A? La Vệ cúng dường một Tinh 
                xá (Trong kinh " Duy Ma Cật " có đề cập đến Tinh xá này. Có 
                thuyết cho rằng, A? La Vệ là một vị trưởng giả, có thuyết cho 
                rằng là một kỷ nữ, bất luận như thế nào, sự ủng hộ về mặt vật 
                chất vốn từ những giai cấp quí tộc. Trong hàng đệ tử của đức 
                Phật, mở đầu là 5 vị Tỳ kheo, thứ đến là thương nhân Da Xá, ông 
                cùng 60 môn đồ của mình đến qui y đức Phật. Qua đó, chúng ta 
                thấy, những người ủng hộ đức Phật là những người thuộc giòng dõi 
                Sát đế lợi, giàu có?, do vậy  học thuyết của Ngài là đại diện 
                cho giới quần chúng, và ở đây không đủ lời để dẫn chứng những ví 
                dụ cụ thể. 
 
                - 
                SÁCH 
                THAM KHẢO: 
 
                - 
                1. Bách 
                Duy dịch: " Phật tại thế thời Ấn Độ 
                thập lục quốc đích chính trị hình thế ", đăng trên [ Hiện đại 
                Phật học ], 1960, số 6,7. 
 
                - 
                2. Dục 
                Hưởng: " Phật Đà thời đại Ấn Độ chư quốc đích xã hội tư tưởng 
                khái huống ", đăng trên [ Hiện đại Phật học ], 1956. Số 5.
 
                - 
                3. Đáng 
                Dụng Đồng: " Ấn Độ triết học sử lược", chương 3,4. 
 
                - 
                4. Lữ 
                Trưng: " Aᮠđộ 
                Phật giáo sử lược ", chương 1. 
 
                - 
                 
 
                - 
                 
 
                
                   
                  - 
                  
                  TIẾT 2:
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  SỰ 
                  KẾT CẤU & HÌNH THÀNH 
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  
                  PHẬT HỌC NGUYÊN THỦY.
 
                  
                
                - 
                    
                      Sự kết cấu Phật học nguyên thủy, gồm hai phương diện hình 
                thức và nội dung. Sau đó, những đệ tử của Ngài Phật tin tưởng và 
                duy trì hai tạng Kinh và Luật này. Thế thì, phương thức duy trì 
                như thế nào ? Suốt 45 năm, Thế Tôn tuyên dương chánh pháp, những 
                nơi mà Ngài thuyết giảng tương đối khá rộng, không những chỉ có 
                thế, Ngài còn cho phép những đệ tử dùng tiếng địa phương truyền 
                bá, khi tuyên dương chắc chắn có một phương thức cố định. Căn cứ 
                tập quán đương thời, phương thức duy trì những Kinh Luật này là 
                [ khẩu truyền ], nương vào ký ức truyền trao cho nhau, thích 
                nghi nhất cho ký ức là dùng hình thức [ Kệ tụng ], vì hình thức 
                kệ tụng vừa ngắn gọn, lại vừa có âm vận, thuận tiện cho việc 
                tụng đọc và ghi nhớ. Trong Luật tạng của các Bộ phái, còn bảo 
                tồn một số tư liệu những đệ tử Phật tụng kinh ( Tham khảo Lai 
                Duy " Phật kinh nguyên thủy tụng dọc pháp ", những kinh đề cập 
                đến vấn đề này như " Nghĩa túc kinh " ( Hán dịch có đơn hành 
                bản, Pàli văn, được chép trong Kinh tập ), " Ba la diên kinh " ( 
                Hán dịch trong " Đại trí độ luận " " Du già sư địa luận " đều có 
                dẫn dụng, Pàli văn được chép trong Kinh tập ), " Pháp cú kinh " 
                ( Hán, Pàli đều có đơn hành bản ).v.v. những kinh vừa nêu trên 
                toàn bộ đều dùng hình thức kệ tụng. Những kệ tụng này, có một số 
                thuộc loại không có câu hỏi mà tự trả lời ( vô vấn tự thuyết ), 
                có một số thuộc loại vấn đáp. Ngoài ra, còn có một số vấn đề như 
                Phật nói kinh lúc nào, ở đâu và đối tượng là ai.v.v., cũng đều 
                được ghi chép, gọi đó là [ Duyên khởi ]. 
 
                - 
                    
                      Qua đó, có thể nói rằng, hình thức bảo tồn kinh luật lấy [ 
                kệ tụng ] làm trung tâm, nghĩa lý của nó, hẳn nhiên phải thông 
                qua sự giải thích, tức là tiếp tục có sự phát triển. Sự giải 
                thích này được gọi là A tỳ đạt ma ( Abhidhrma ), ý nghĩa là [ 
                đối pháp ]; Kinh là phạm vi của [ pháp ], những gì giải thích về 
                [ pháp ] được gọi là [ đối pháp ]. Hình thức của đối pháp có mấy 
                loại như dưới đây: 1. Ưu ba đề xá ( nghị luận ), đơn thuần đem 
                lời Phật dạy giải thích, vừa đơn giản vừa rõ ràng, dễ dàng tìm 
                hiểu nghĩa lý. Phương pháp này, chính bản thân đức phật cũng đã 
                sử dụng, như kinh " Đại duyên phương tiện "  trong Trường A hàm, 
                là sự giải thích của đức Phật đối với pháp duyên khởi. 2. Màtrka 
                ( Bổn mẫu ), đây là phương thức giải thích những điểm chính yếu 
                của toàn văn, gọi đó là [ bổn mẫu ], nghĩa là từ trọng điểm đơn 
                giản này, phát sinh nhiều đạo lý, như người mẹ sinh con. Phương 
                pháp này, có một số do chính Phật nói, có một số do đệ tử nói.3. 
                Quyết trạch, nghĩa là trong những loại nói pháp không giống nhau 
                chọn ra một loại, đây chủ yếu là đề xuất phương thức chọn lựa 
                danh tướng. Vì có rất nhiều ỳ nghĩa danh tướng giống nhau, để 
                xát định ý nghĩa của nó, cho nên phân chia chủng loại khác nhau. 
                Phương pháp này phần lớn căn cứ vào số chữ nhiều ít mà phân 
                loại, nghĩa là từ pháp thứ nhất cho đến pháp thứ mười, do đó gọi 
                là pháp [ thập thượng ] hay pháp [ Tăng nhất ]. Pháp thứ mười 
                trở lên cũng có như [ Mười hai nhân duyên ].v.v. nhưng rất ít. 
                Như thế, phương pháp phân loại này, vừa thuận tiện cho việc 
                hoằng dương chánh pháp, vừa dễ dàng ghi nhớ. 
 
                - 
                    
                      Do vì tình hình như thế, có thể nói phương pháp lưu trữ 
                những lời Phật dạy là sử dụng hình thức [ kệ tụng ], kế đến là [ 
                duyên khởi ], từ đó phát triển thành [ A tỳ đạt ma ]. Sau khi 
                Phật diệt độ, những hình thức này trở thành cố định. Theo truyền 
                thuyết cho rằng, sau khi Phật diệt độ không bao lâu, tại động 
                Thất diệp thuộc thành Vương xá, có cuộc kết tập thánh điển gồm 
                500 vị Tỳ kheo. Lần kết tạp này, được ghi chép trong luật tạng 
                của các Bộ phái, nội dung cơ bản giống nhau, nhưng có một số bộ 
                phận nhỏ không giống nhau, vì mỗi Bộ tự thêm vào hoặc giảm đi. 
                Lần kết tập này, những người tham gia là đệ tử của Phật, do ngài 
                Ca Diếp chủ trì đại hội, phương thức hội nghị là [ tụng đọc ], 
                tức trong hội nghị đề cử một người đọc lại những lời Phật dạy 
                cho mọi hội nghị nghe, sau đó do các thành viên trong đại hội 
                thẩm định. Những gì được đại hội thông qua, cái ấy được xem là 
                Phật nói. Phương thức kết tập kinh điển này cũng là hình thức 
                kết tập của những làn sau. Nội dung Kết tập lần này, theo truyền 
                thuyết, gồm có kinh và luật, thậm chí có cả luận ( Abhidharma ). 
                Lần kết tập thứ nhất là sự kết tập kinh và luật là điều có tin 
                được, nhưng kết tập luận là điều không thể xảy ra. Ngay cả việc 
                sau khi đức Phật nhập diệt liền có kết tập này cũng là vấn đề 
                khó đi đến xác định, huống hồ là việc kết tập luận tạng, nhưng 
                cũng có thể xảy ra việc này, đặc biệt là vấn đề giới luật, vì 
                cần phải xác định những giới điều. Căn cứ vào những bộ luật mà 
                các Bộ phái truyền thừa, chúng ta có thể tìm ra cái gọi là [ 
                nguyên thủy ]; hoặc là cái được sản sinh từ làn kết tập đầu 
                tiên. Kinh điển mà được kết tập ở lần thứ nhất này phải chăng là 
                A hàm ? Dường như là không phải. Vì trong A hàm có đề cập đến 
                hình thức [ Cửu phần giáo ] ( 1. Kinh; 2. Ứng tụng; 3. Ký biệt; 
                4. Kệ tụng; 5. Tự thuyết; 6. Như thị ngữ; 7. Bổn sanh; 8. Vì 
                tằng hữu; 9. Phương quảng ), Theo ngài Giác An giải thích, hiện 
                còn lưu trữ một bộ phận trong 9 phần giáo là Kinh ( Pàli văn xếp 
                vào Tiểu Bộ, Hán dịch là Tạp tạng ). Do đó, chúng ta có thể suy 
                đoán, rất có khả năng kinh điển mà được kết tập ở lần thứ nhất 
                là hình thức cửu phần giáo, về sau mới biên tập thành A hàm.
                
 
                - 
                    
                      Tiêu chuẩn biên tập A hàm. Thứ nhất là căn cứ vào sự dài 
                ngắn của kinh mà phân loại: Như những kinh có nội dung dài được 
                xếp vào Trường A hàm; nội dung ngắn xếp vào Tạp A hàm ( Tương 
                ưng ); nội dung trung bình xếp vào Trung A hàm; ngoài ra, có một 
                loại y cứ vào số mục lớn nhỏ mà phân định, loại này được xếp vào 
                Tăng nhất A hàm. Thứ hai là căn cứ vào nội dung của kinh mà phân 
                loại: Như kinh Trường A hàm, phần lớn nội dung của kinh này là 
                đề cập đến những vấn đề của ngoại đạo, như kinh " Sa môn quả " 
                là bài kinh có nội dung bài xích 6 phái ngoại đạo; Những kinh 
                chuyên giải thích vấn đề học tập, được biên tập vào Trung A hàm; 
                Những kinh trình bày đạo lý tu tập Thiền định, biên tập vào Tạp 
                A hàm; Những kinh, nội dung mang khuynh hướng tuyên truyền rộng 
                rãi, biên tập vào Tăng nhứt A hàm. Sự biên tập và hình thành 
                kinh A hàm vào khoảng 100 năm sau khi Phật nhập diệt. Từ đó về 
                sau có khá nhiều quan điểm khác nhau về sự biên tập A hàm và 
                luật bộ, có thể nói sở dĩ có sự bất đồng này, do liên quan đến 
                sự truyền thừa. Theo truyền thuyết cho rằng, Kinh là do A Nan 
                tụng, luật là do Ưu Ba Li đọc, đương nhiên mỗi bên đều có hệ 
                thống riêng, đồng thời theo truyền thuyết cũng đề cập rằng, Ngài 
                Phú lâu Na đối với việc kết tập phát sanh ý kiến bất đồng, điều 
                đó nói lên rằng, Ngài cũng có hệ thống riêng. Kết tập kinh điển 
                lần thứ 2, Ngài A Na Luật tự mình lại có hệ thống riêng. Những 
                sự dị biệt này, chắc chắn có ảnh hưởng đến sự phân phái trong 
                Phật giáo. 
 
                - 
                    
                      Liên quan đến nội dung của vấn đề lời dạy nguyên thủy của 
                đức Phật, trong truyện ký của Thích Ca có đề cập đến một số vấn 
                đề như sau: Thích Ca từ khi xuất gia, thành đạo cho đến tuyên 
                truyền giáo pháp, đều không rời khỏi bối cảnh của giai cấp Sát 
                đế lợi. Ngài muốn thay thế cho giai cấp Sát đế lợi giải quyết 
                những vấn đề nan giải về sự hổn loạn tư tưởng của xã hội đương 
                thời, triết học của ngài là triết học thật tiễn ( nhân sanh 
                triết học ) nhằm phản bát triết học Bà la môn, đây là sự thay 
                thế tổ quốc của ngài là Ca tỳ la vệ để tranh dành địa vị, nhờ 
                vậy mà có được danh hiệu Thích Ca Mâu Ni ( Bậc tánh của giòng 
                tộc Thích Ca ). Điểm này, đối với tiền đồ tổ quốc của Ngài có 
                lợi thế khá lớn. Ví như, vào độ tuổi già yếu Thề Tôn thường 
                tuyên thuyết giáo pháp ở nước Kiều tát la, điều đó đã dẫn đến sự 
                ôn hoà giữa hai nước Kiều Tát La và Ca Tỳ La Vệ thay vì bị uy 
                hiếp. 
 
                - 
                    
                      Dưới chế độ xã hội giai cấp, học thuyết của Thích Ca mang 
                khuynh hướng chống lại chủ nghĩa duy vật là điều tự nhiên. Ngài 
                cực lực phản đối 6 phái triết học đương thời, tư tưởng của Ngài 
                không đi vào con đường cực đoan, ngược lại mang sắc thái ôn hoà. 
                Điều đó đã dẫn Ngài đến thành công, vì được các giai cấp trong 
                xã hội ủng hộ, thậm chí có một số tư tưởng gia của Bà La Môn 
                theo Ngài. Một mặt, Ngài không tán thành chế độ chủng tánh của 
                Bà la môn, nhưng mặt khác, Ngài gần như đồng ý chế độ chủng 
                tánh. Chúng ta có thể lấy "Ngũ giới" là căn bản đạo đức của xã 
                hội đương thời làm thí dụ điển hình. 5 giới vốn là của Bà la môn 
                và Kỳ na giáo, Thích Ca cũng lấy 5 giới này làm tiêu chuẩn đạo 
                đức, nhưng không phải hoàn toàn đồng ý, Ngài lấy giới "ly dục" 
                là một trong 5 giới của Bà la môn đổi thành giời "không uống 
                rượu". Lại, như Ngài chủ trương xuất thế, cho rằng tất cả sự vật 
                trong thế gian vốn không thật có - không, tuyên dương Niết bàn, 
                nhưng ở phương diện khác, Thích Ca đối với mọi người lại đề cao 
                bố thí và trì giới, cho rằng, chính sự ưa thích giúp đỡ người 
                khác là niềm hạnh phúc. Có thể nói, phương pháp tu tập của Thích 
                Ca so với cách tu tập khổ hạnh hà khắc, tế tự phiền phức của Bà 
                la môn giáo có phần đơn giản đi nhiều, do đó được mọi người hoan 
                nghênh tiếp nhận, nhất là giai cấp thương nhân. 
 
                - 
                    
                      Thích Ca đã từng tham vấn và học tập qua những học giả nổi 
                danh đương thời, do đó, học thuyết của Ngài có phần hoàn chỉnh, 
                vì Ngài biết kế thừa và chọn lọc cái hay của những học thuyết 
                khác. Do vậy, học thuyết của Ngài có liên quan mật thiết đến 
                những học thuyết khác của đương thời xã hội Aᮮ 
                Những học thuyết đương thời có hai khuynh hướng: 1. Tư tưởng Bà 
                la môn, cho rằng sự hình thành vũ trụ là từ một nhân căn bản 
                chuyển biến hình thành những cái khác, tư tưởng này được gọi là 
                thuyết trong nhân có quả. Dùng nó để chỉ đạo thật tiễn, những 
                người theo tư tưởng này lấy tu tập thiền định làm trung tâm, 
                thông qua tu thiền định để nhận thức cái gọi là "nhân căn bản", 
                từ đó có thể đạt đến cảnh giới giải thoát. 2. Tư tưởng phi Bà la 
                môn, cho là sự vật do nhiều nhân kết họp mà thành, phái này được 
                gọi là thuyết " trong nhân không qua "?#7885;c thuyết này dùng 
                để chỉ đạo cuộc sống, sau đó phái này lại chia thành hai phái 
                khác nhau, một phái đề cao tu tập khổ hạnh, và phái khác đề cao 
                thỏa mãn dục vọng. Đối với những lý thuyết trên Thích Ca đều 
                không chấp nhận, cho nên tự mình đưa ra thuyết " Duyên khởi ", 
                Ngài cho rằng, các pháp cùng nhau nương tựa, cùng làm điều kiện 
                sanh diệt cho nhau, chẳng phải do một nhân sanh nhiều quả, cũng 
                chẳng phải nhiều nhân sanh một quả mà là cùng nhau làm nhân làm 
                quả. Mục đích của lý thuyết này nhằm đả phá lý thuyết " nhứt 
                nhân luận " của Bà la môn, có khuynh hướng vô thần luận, nhưng 
                học thuyết của Ngài không triệt để đả phá toàn bộ học thuyết Bà 
                la môn nhưng Ngài lại tin tưởng sử dụng thuyết " nghiệp lực ", 
                cho rằng, tác dụng của nghiệp có tầm mức quan trọng trong cuộc 
                sống. 
 
                - 
                    
                      Hai hệ thống học thuyết vừa tường thuật trên đều lấy bản 
                thể luận làm điểm căn cứ, nhưng học thuyết của Thích Ca trên căn 
                bản không đề cập thảo luận những vấn đề liên quan bản thể luận, 
                như  " 14 vấn đề vô ký " ( Ký là phân biệt, nghĩa là 14 vấn đề 
                không giải thích ) mà Ngài đề cập: Vũ trụ là thường hay vô 
                thường ? vũ trụ là hữu biên hay vô biên ? sanh mạng sau khi chết 
                còn hay mất ? Sanh mạng và thân là một hay khác ? .v.v. (3 loại 
                đầu, mỗi loại phân thành 4 vấn đề, như thường, vô thường, hữu 
                thường vô thường, phi hữu thường phi vô thường.v.v., loại sau 
                lại phân thành hai vấn đề, tổng cộng có 14 vấn đề), những vấn đề 
                này, đối với giới học thuật đương thời, là đề tài được đưa ra 
                cùng nhau thảo luận, nhưng riêng Thích Ca thì ngược lại, không 
                chịu thảo luận, với lý do là những vấn đề này cùng với đời sống 
                thật tế con người không một tí gì quan hệ, giả như nếu đem chúng 
                thảo luận, cũng không giải quyết giúp ích được gì cho con người. 
                Do đó, trong nhân quả, Ngài không thừa nhận cái gọi là " nhân 
                thứ nhất ". 
 
                - 
                    
                      Học thuyết của Thích Ca có những đặc điểm riêng của nó, 
                như chúng ta thấy học thuyết của Thích Ca từ đầu đến cuối luôn 
                luôn sử dụng thái độ phân tích, so sánh của từng vấn đề. Như 
                ngay từ lúc đầu giữa hai khuynh hướng hưởng thọ dục vọng và khắc 
                khổ của khổ hạnh, Ngài nên lựa chọn con đường nào trong hai cực 
                đoan ấy, cuối cùng Ngài chọn con đường " trung đạo ". Con đường 
                trung đạo của Ngài là chú trọng phương diện hành động thật tế, 
                như Ngài cho rằng, quan điểm của những nhà duy vật đương thời, 
                chủ trương thỏa mãn dục vọng là mục đích của nhân sinh là không 
                hợp lý, ngay cả việc Ni kiền tử chủ trương hà khắc trong việc tu 
                khổ hạnh cũng không đúng, ngược lại Ngài cho rằng, chỉ có con 
                đường " Trung đạo ", là con đường không khổ cũng không vui mới 
                là con đường chân chính. Về sau, Thích Ca phát huy tư tưởng này 
                thành hệ thống lý luận, không chấp trước ở một bên. Ngài tự cho 
                rằng, ta là " người phân tích, phận biệt " chẳng phải là người 
                luận bàn thiên về một bên. Tư liệu đề cập đến quan điểm này, một 
                cách sớm nhất là " Kinh Pháp Cú. Phẩm Nê hoàn ", nói rằng, " 
                Pháp qui phân biệt, chân nhân qui diệt ". Đây là sự chứng minh 
                nội dung mà Phật nói trong nguyên thủy là " phân biệt luận giả 
                ". 
 
                - 
                    
                      Học thuyết của Thích Ca có hay không có người thừa kế ? có 
                người cho rằng, trước Phật Thích Ca vẫn còn có Phật, như Phật Ca 
                Diếp, " Kinh Pháp Cú" là do Phật Ca Diếp truyền thừa. Cũng có 
                người cho rằng, không phải chỉ có một vị Phật mà có tất cả là 4 
                vị Phật. Vua A Dục đã lấy 4 vị Phật này làm đối tượng tôn thờ.
                
 
                - 
                 
 
                - 
                SÁCH 
                THAM KHẢO: 
 
                - 
                1. Lại 
                Duy: " Phật kinh nguyên thủy đọc tụng pháp ", " Phật học nghiên 
                cứu " thiên  thứ 2. 
 
                - 
                2. " Tứ 
                phần luật " Quyển 54. 
 
                - 
                3. Lữ 
                Trưng: " Ấn độ Phật giáo sử lược ", chương 1, tiết 1. 
                
 
                - 
                4. Vô 
                bách Duy: " Nguyên thủy Phật giáo đích nhược can vấn đề ", " 
                Hiện đại Phật học " năm 1956, kỳ 10, 1957 kỳ 1. 
 
                - 
                 
 
                
                   
                  - 
                  
                  TIẾT THỨ 3:
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  
                  NHỮNG ĐIỂM TRỌNG YẾU
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  
                  CỦA PHẬT HỌC NGUYÊN THỦY
 
                  
                
                - 
                    
                      Những tín đồ Phật giáo cho rằng, sau khi Thích Ca thành 
                đạo, lần đầu tiên tuyên thuyết giáo pháp tại vườn Lộc Uyển, gọi 
                đó là sơ chuyển pháp luân. Pháp luân là tỷ dụ, truyền thuyết 
                Aᮠđộ cho rằng, ai có khả năng thống trị toàn cõi Aᮠđộ, tự nhiên 
                có [ luân bảo ] xuất hiện. Luân bảo này không gì lay chuyển 
                được, vô địch không gì bằng. Nếu ai được luân bảo này, xưng là 
                chuyển luân thánh vương. Khi Thích Ca chưa xuất gia, chính Ngài 
                phải chọn một trong hai con đường, một là làm vua Chuyển luân 
                thánh vương ( nhà lãnh đạo quốc gia ), hai là làm Pháp luân 
                vương (nhà tư tưởng ). Những lời dạy của Phật gọi là chuyển pháp 
                luân, đồng thời biểu hiện chơn lý cao tuyệt của Phật đã giác 
                ngộ. 
 
                - 
                    
                      Tương truyền, lần đầu tiên Thế Tôn chuyển pháp luân, cho 5 
                anh em Kiều Trần Như tại vườn Lộc Uyển, thuộc thành Ba la nại. 
                Nghiên cứu từ trong kinh luật cho thấy, lần đầu Thích Ca nói 
                Pháp, không phải là pháp Tứ đế, mà chính là pháp Trung đạo, điều 
                này phù hợp với sự thật, vì 5 người này vốn là những người cùng 
                ngài tu hành khổ hạnh trước kia, sau đó Thích Ca từ bỏ đời sống 
                khổ hạnh, để lại trong lòng họ suy nghĩ không hay về Ngài. Dĩ 
                nhiên giáo pháp mà Thế Tôn nói với họ đầu tiên phải là phê bình 
                đời sống khổ hạnh, cùng những học thuyết mà họ chủ trương, sau 
                đó cùng họ giới thiệu học thuyết trung đạo, là con đường không 
                khổ không lạc, đồng thời chứng minh khổ hạnh vốn không phải là 
                phương pháp tu tập chơn chánh, chỉ có trung đạo mới là hợp lý. 
                Sau đó nói giáo lý [ Bát chánh đạo ] ( Chánh kiến, chánh tư duy, 
                chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, 
                chánh định ), sau khi thuyết phục xong mới tuyên thuyết giáo lý 
                Tứ đế. 
 
                - 
                    
                      Trọng tâm của giáo lý Tứ đế là trình bày sự thật về những 
                hiện tượng trong cuộc sống con người. Toàn bộ đời sống con người 
                không ra ngoài hai phương diện, một là nhiễm ( khổ, tập ), hai 
                là tịnh ( diệt đạo ). Phương pháp tổ chức pháp Tứ đế, lấy khổ đế 
                làm căn bản, [ tập ] là sự tích tâp của khổ, [ diệt ] là diệt 
                trừ khổ đau, [ đạo ] là phương pháp diệt trừ khổ đau. Thế Tôn 
                nói pháp Tứ đế, nói đi nói lại pháp này cho đến 3 lần, 3 lần này 
                được gọi là [ Tam chuyển pháp luân ]. Chuyển lần đầulà khẳng 
                định pháp tứ đế (nhân sanh là khổ, già chết là khổ.v.v. ); 
                Chuyển lần hai, chỉ rõ tứ đế là ý nghĩa sự thật của cuộc sống 
                con người ( khổ nên biết, tập nên đoạn, diệt nên chứng, đạo nên 
                tu ); chuyển lần thứ ba, là chứng minh Thích Ca đã chứng ngộ 
                thành đạt được những gì mà tứ đế yêu cầu ( Khổ đã rõ, tập đã 
                đoạn, diệt đã chứng, đạo đã tu. ). Trong 3 lần chuyển pháp luân, 
                mỗi một lần đối với một đế đều có 4 loại nhận thức không giống 
                nhau, gọi đó là [ Tứ hành tướng ] __ Nhẫn, trí, minh, giác, do 
                đó Tứ đế có 12 hành tướng, gọi là [ Tứ đế 12 hành tướng ]. Quan 
                điểm này, là sự khẳng định những điểm cơ bản của nguyên thủy 
                Phật học. Những tư liệu trong kinh luật được ghi chép như vừa 
                trình bày, vào khoảng 200 năm, sau khi Thế Tôn nhập diệt, những 
                sắc lệnh mà nhà vua A Dục còn lưu lại, đề cập đến việc này cũng 
                như thế ( Trong [ pháp lệnh] yêu cầu những tín đồ Phật giáo 
                thường niệm một trong 7 kinh là: " Tỳ nại da tối thắng kinh ", 
                căn cứ vào những tư liệu khảo cổ chứng minh, tức là đề cập đến 
                tam pháp luân. ); Về sau, Phật học phát triển đến giai đoạn Đại 
                thừa, có thể nói sớm nhất là " kinh Duy Ma Cật ", " Kinh Pháp 
                Hoa ".v.v. phần mở đầu của những kinh này, đều đề cập đến pháp 
                Tứ đế, những kinh điển thuộc giai đoạn hậu kỳ đại thừa như " 
                Kinh Giải thâm mật ", phân chia lời Phật nói thành 3 thời, Thời 
                thứ nhất cho rằng, Phật nói Tứ đế. Từ đó có thể nói, Tứ đế là 
                trung tâm tư tưởng của Phật giáo nguyên thủy, đều này cũng được 
                mọi người công nhận. 
 
                - 
                    
                      Khổ đế trong giáo lý tứ đế, về sau phát triển thành 8 khổ: 
                Sanh, lão, bịnh, tử, oán tắng hội, aí biệt ly, cầu bất đắc, ngũ 
                thủ uẩn. Bốn loại khổ đầu là những loại khổ thuộc về tự nhiên, 
                không ai tránh khỏi, những mong cầu của con người, thường ngược 
                lại những qui luật này, như mong cầu không già, được trường 
                sanh.v.v. do đó mà sanh khổ. 3 chi kế tiếp, là những nỗi khổ do 
                mối quan hệ không hợp lý giữa người và người trong xã hội tạo 
                thành, như chế độ phân biệt đẳng cấp của xã hội đương thời. 
                Những người không hợp ý mà luôn luôn phải sống với nhau, những 
                người thương yêu mà phải phân tán chia lìa, những yêu cầu vật 
                chất thường không được như ý? những loại này đều được gọi là khổ 
                ( Từ góc độ này, chúng ta có thể thấy, Thích Ca phản ánh những 
                hiện tượng xã hội đương thời ). Nhưng thử hỏi nguồn gốc cái khổ 
                của con người là gì ? Thích Ca cho là { cầu bất đắc ]. Tại sao 
                mong cầu mà không được là nguyên nhân của khổ ? Thích Ca lại cho 
                rằng, do bởi { 5 thủ uẩn ], tức là Ngài phân tích sự cấu thành 
                con người do 5 loại: Sắc ___ Vật chất, thọ ___ cảm tình cảm giác 
                ( gọi là tình ), tưởng ___ sự hoạt động của lý tánh khái niệm ( 
                gọi là trí ), hành ___ là hoạt động của ý chí ( gọi là ý ), thức 
                ___ thống nhất mấy loại trước. Nội dung của những loại này rất 
                là phức tạp, sự tích tập của những thứ này gọi là [ uẩn ], 5 uẩn 
                cùng với [ thủ ] ( chỉ loại dục vọng cùng chấp trước ) liên kết 
                với nhau, từ đó sinh ra một loại tham dục, do đó cho nên gọi là 
                [ ngũ thủ uẩn ]. Căn cứ quan điểm của Thích Ca, con người   sinh 
                ra liền có 5 uẩn, có 5 uẩn tức là có khổ, do đó cho nên gọi 5 
                uẩn là khổ. Nguồn gốc của khổ này do tham dục ( tập đế ) mà 
                sanh, đoạn trừ tham dục, tức đoạn trừ khổ( diệt đế ), liền được 
                giải thoát. 
 
                - 
                    
                      Trong học thuyết Tứ đế của Thích Ca, duyên khởi là đặc 
                tính xuyên suốt biểu hiện sự bất đồng quan điểm với những hệ 
                thống triết học khác về vũ trụ. Khi Thích Ca còn tại thế, trong 
                xã hội Aᮠđã có hai loại tư tưởng chỉ đạo cuộc sống nhơn sanh: 
                1.Bà la môn, họ cho rằng, con người do Phạm thiên sanh, là sự 
                chuyển hóa của thần ngã gọi đó là thuyết [ chuyển hóa ]. 2. Sáu 
                phái triết học, họ cho rằng, con người là do nhiều yếu tố kết 
                họp mà thành ( chủ trương của Thuận thế phái ), gọi đó là thuyết 
                [ Tích tụ ]. Thích Ca phản đối 2 học thuyết này,  chủ tương [ 
                duyên khởi ]. Ngài cho rằng, thế giới hiện tượng đều là sự quan 
                hệ mật thiết về nhân quả, cùng làm điều kiện cho nhau trong sự 
                tồn tại. Trong kinh Phật thường lấy bó trúc làm ví dụ để trình 
                bày sự quan hệ của mọi sự vật. Nếu như lấy quan điểm này, giải 
                thích những hiện tượng vũ trụ, thuyết minh quy luật tồn tại của 
                vũ trụ là duyên khởi, như thế rất cụ thể và biện chứng. Nhưng lý 
                thuyết duyên khởi này, không phải xuất phát từ sự quan sát vũ 
                trụ, mà được phát hiện ngang qua đời sống con người, đồng thời 
                cũng lấy nó làm điểm tựa căn bản để giải quyết những vấn đề của 
                nhân sanh. Thích Ca đem con người phân chia thành nhiều chi 
                phần. Theo sự ghi chép trong kinh gồm có 5 phần, 9 phần,10 phần, 
                12 phần.v.v. đặc biệt Bắc phương phân chia nhiều nhất là 12 
                phần, gọi đó là 12 nhân duyên, về sau đại thừa Phật giáo cố định 
                thành 12 nhân duyên, tức là vô minh, hành, thức, danh sắc, lục 
                nhập, xúc, thọ, aí, thủ, hữu, sanh, lão tử. Kết cấu này là vô 
                minh làm duyên dẫn khởi hành. Do đó mà có công thức : Thử hữu cố 
                bỉ hữu, thử sanh cố bỉ sanh.   Dựa vào thứ tự này, cấu thành mối 
                quan hệ nhân quả. Người sau lấy 12 nhân duyên và luân hồi dung 
                họp thành tam thế lưỡng trùng nhân quả của Tiểu thừa : Quá khứ 
                thế [ nhân ] --- Hiện tại thế [ quả, nhân ] --- Vị lai thế [ quả 
                ]. Thuyết [ lưỡng thế nhất trùng ] của Đại thừa : Quá khứ thế [ 
                nhân ] --- Hiện tại thế [ quả ], hoặc là Hiện tại thế [nhân]  
                --- Vị lai thế [ quả ]. Lý thuyết này, có phần hợp lý, vì trong 
                hiện tượng, vốn là sự liên hệ 2 đời, trên nguyên tắc này, chúng 
                ta có thể tìm ra mối quan hệ nhân quả của nó. Thí như, lão tử là 
                quả, căn bản nguyên nhân của nó là [ sanh ]. Theo sự ghi chép 
                của kinh điển, Thích Ca quán sát nhân sanh, bắt đầu từ { lão, tử 
                ] rồi suy diễn quán 12 nhân duyên. Trong Tứ đế lấy tham dục của 
                tập đế làm trọng tâm, 12 nhân duyên lấy aí dục làm căn bản, nếu 
                như muốn được giải thoát trước phải đoạn trừ aí dục. Thích Ca 
                cho là, ái dục là vô cùng, không bao giờ biế đủ, ngược lại, lòng 
                mong muốn của con người thì vô cùng, chính lòng ham muốn này là 
                nguyên nhân sanh ra khổ đau. 
 
                - 
                    
                      Thích Ca cho là, hành vi và nghiệp lực của con người có sự 
                liên quan mật thiết. [ Hành ] là ý chí hành động có mục đích của 
                con người, bản chất của nó là nghiệp. [ Nghiệp có 3 loại : Thân, 
                khẩu và ý, nếu như chúng ta thử đặt vấn đề, cái gì quyết định 
                thành nghiệp ? Lời giải đáp hẳn nhiên là do [ vô minh vô tri ]. 
                Chúng sanh vô tri cái gì ? Thích Ca cho là, nhân sanh vốn là vô 
                thường, nhưng chúng sanh yêu cầu [ thường ], đây chính là [ vô 
                minh vô tri ]. Nhân sanh  là vô ngã, vì nó vốn không thể tự 
                sanh, do đó không có tự thể, giống như nhà do từ gạch, ngoái, 
                cây, đá kết hợp mà thành, cũng vậy, con người do ngũ uẩn kết họp 
                mà thành, nhưng ngược lại chúng sanh chấp trước có thật ngã, đây 
                gọi là [ vô minh ]. Chúng sanh do bởi những loại vô tri này mà 
                dẫn khởi hành động, là nguồn gốc của khổ đau. 
 
                - 
                    
                      Thích Ca luận chứng, nhân sanh là [ vô thường ] [ vô ngã 
                ], từ đó đề xuất 3 mệnh đề : Chư hành ( chỉ hữu vi pháp ) vô 
                thường, các pháp vô ngã, tất cả đều là khổ. 3 mệnh đề này gọi là 
                [ tam tướng ], lại cũng gọi là [ Tam pháp ấn ]. Ngoài tam tướng 
                này, thêm một chi nữa là [ Niết bàn tĩch tịnh ], gọi là [ Tứ 
                pháp ấn ]. Cho rằng, trong vô thường, vô ngã đã bao gồm khổ, cho 
                nên [ khổ ] bỏ đi, vẫn còn lại Tam pháp ấn. [Tam pháp ấn] lấy 
                duyên khởi làm cơ sở phát triển. Duyên khởi bao gồm hai phương 
                diện [ thuận ] và [ nghịch ]. Thuận là chỉ cho sự sản sinh đau 
                khổ, nghịch là chỉ cho sự hướng đến Niết bàn. Thích Ca nói, ai 
                hiểu duyên khởi, người ấy hiểu [ pháp ]. Có thể nói, thuyết 
                duyên khởi là điểm đặc trưng của Phật giáo. 
 
                - 
                    
                      Tuy nhiên, có một số vấn đề Thích Ca vẫn chưa giải thích 
                rõ ràng, Ví như, Lý thuyết Duyên khởi của Thích Ca chỉ nhằm mục 
                đích thuyết minh về những hiện tượng trong đời sống con người, 
                không chú trọng vào những mục đích khác, nhưng nó cũng có thể 
                giải thích những hiện tượng khác, chẳng qua đem nguyên lý này 
                phổ biến hóa mà thôi, như thế ắt hẳn sẽ có sự cải biến kết cấu 
                của nó và lý tưởng Niết bàn. Thí dụ như, Thích Ca một mặt phủ 
                nhận sự tồn tại tự ngã, đồng thời lại thừa nhận tác dụng của 
                nghiệp lực. Thuyết nghiệp lực của Bà la môn là sự kết hợp thuyết 
                luân hồi, nhưng Thích Ca đã phủ nhận chủ thể luân hồi, thế thì 
                lấy gì để luân hồi ? Đây là vấn đề mâu thuẩn nội tại của học 
                thuyết Thích Ca. Vì lý do đó, về sau, những người kế thừa tư 
                tưởng của Ngài đã phát sinh sự phát triển không đồng nhất về tư 
                tưởng. Thích Ca là người đôn hậu, thuyết nghiệp lực của Ngài 
                cũng được biểu hiện rất cụ thể. Cuộc đời của Ngài phần nhiều 
                thời gian ở tại nước Kiều Tát La, đã 2 lần ngăn cản sự tấn công 
                vua Tỳ Lưu Ly đi với giòng tộc Thích Ca, cuối cùng cũng không 
                sao tránh khỏi Thích Ca tộc bị diệt vong. Ngoài ra, Ngài đối với 
                Bà la môn giáo, chề độ chủng tộc, biểu hiện sự không đồng lòng 
                trong thái độ ôn hòa, điều đó biểu hiện tính từ mãn của Ngài. 
                Nguyên nhân là, Thích Ca chỉ là một nhà tôn giáo vĩ đại, không 
                phải là một nhà cải cách xã hội. 
 
                - 
                SÁCH 
                THAM KHẢO: 
 
                - 
                1. " 
                Tạp A hàm kinh " quyển 15 : " Đế tụng ". 
 
                - 
                2. " 
                Trung A hàm kinh " quyển 7 : " Phân biệt thánh đế kinh ". 
                
 
                - 
                3. " 
                Tạp A hàm kinh " quyển 12 : " Duyên khởi tụng ". 
 
                - 
                4. " 
                Trường A hàm kinh " quyển 10 : " Đại duyên phương tiện kinh ".
 
                - 
                5. Lữ 
                Trung: " Ấn Độ 
                Phật giáo sử lược ", thiên thứ nhất, chương 2. 
 
                - 
                 
 
               
              
             
             | 
   
           
               
       
       |