| 
           
      
  
           
                
            
              
              
                - Thư Viện Chùa Dược Sư
 
                - PHẬT HỌC CƠ BẢN
 
                  
               
              
              
                
                   
                  - Ý 
                  NGHĨA
 
                  
                
                
                   
                  - CHỮ 
                  KHÔNG TRONG TRUNG QUÁN
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  Pháp sư Ấn Thuận
 
                  
                
                
                   
                  - Thích 
                  Hạnh Bình (dịch)
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  --o0o--
 
                  
                
                - 
                1. 
                KHÔNG 
                
 
                
                - 
                Không là điểm cộng 
                thông giữa các bộ phái, nhưng quan niệm của các nhà Trung quán 
                không giống với các học phái khác. Như ?Đại Trí Độ Luận? quyển 
                thứ 12 giải thích chữ không có 3 ý nghĩa: 
 
                
                - 
                1. 
                Phân phá không  2. Quán không  3. Thập bát không 
                
 
                
                - 
                PHÂN PHÁ KHÔNG: Thiên 
                Thai tông gọi là Chiết pháp không. Ví dụ như chúng ta lấy sợi 
                lông chia chẻ thành cực vi, rồi tiếp tục chia chẻ, cho đến khi 
                nào không còn hình thể tướng trạng, biểu hiện không tướng, cái 
                cực vi nầy được gọi là ?lâng hư?. Đây là đứng trên phương diện 
                vật chất trong không gian mà nói, còn về mặt thời gian, đem thời 
                gian phân chiết thành từng sát na, là thời gian ngắn nhất, phân 
                chia cho đến khi nào không còn tướng trước sau, không còn thời 
                gian tính, liền xuất hiện không tướng. Do vậy phương pháp phân 
                phá, là phân chiết sự tồn tại của thời gian và không gian trở 
                thành không. Quán không là từ tác dụng của quán tâm. Như quán 
                sợi lông là màu xanh liền thành lông xanh, quán lông là màu 
                vàng, thành lông vàng v.v... Trong Thập biến xứ quán, ở đây chỉ 
                thuyết minh cụ thể phương pháp Quán không. Vì dùng phương pháp 
                quán không mà biết được ngoại cảnh là cái sở quán là không, ở 
                đây mượn nguời nữ làm ví dụ, để hình dung cụ thể về cảnh tướng 
                không này: nếu là kẻ thù khi nhìn thấy cô ta thì sanh lòng oán 
                hận, là người yêu thì sanh lòng luyến ái, là con cháu thì sanh 
                lòng cung kính, là chim thú thì hoảng sợ xa bay. Do đó sự oán 
                thù thân yêu, tốt xấu, thô tế đều do tâm năng quán không giống 
                nhau mà biểu hiện, cảnh vốn không có thật thể cho nên gọi là 
                quán không. Thập bát không, kinh Bát Nhã chú trọng ở tự tánh 
                không. Tự tánh không là bản thể của tất cả pháp, đều là cái bất 
                khả đắc, đương thể là không. Đại Trí Độ luận tuy đề cập 3 loại 
                không quán, nhưng chưa phân biệt cái triệt để và cái không triệt 
                để của nó. Dựa vào sự giải thích của Ngài Long Thọ, 3 loại không 
                quán này, đều có thể khiến người khác hiểu được ý nghĩa của chữ 
                không, tuy chỗ hiểu cạn sâu của mọi người không giống nhau, 
                nhưng nó không làm mất đi tính chất phương tiện, làm rõ nghĩa 
                chữ không, do đó Luận Trí Độ đề cập đến tam không. Nếu nghiên 
                cứu một cách nghiêm túc về quan điểm Đại Tiểu thừa các bộ phái, 
                Phân phá không là phương pháp thường được các nhà luận sư A Tỳ 
                Đạt Ma sử dụng. Như Hữu bộ dùng quán tuệ, phân tích các sắc 
                thành lâng hư, vượt qua cái lâng hư này là không. Nhưng Hữu Bộ 
                không thừa nhận tất cả pháp là không, ngược lại cho các pháp có 
                tự tánh. Bởi vì, căn cứ trên sự phân tích mà biết được các pháp, 
                do giả hợp mà có, những cái giả có này, lấy nguyên tố làm chỗ sở 
                y, cực vi là đơn vị nhỏ nhất. Đối với tâm pháp cũng dùng phương 
                pháp này, phân tích cho đến trong một niệm sát na là thời gian 
                ngắn nhất. Phương pháp phân tích này, không thể dẫn đến kết 
                luận, tất cả pháp là không, ngược lại dẫn đến kết luận tất cả 
                pháp là thật có tự tánh. Như đem cực vi phân chiết cho đến tận 
                cùng, có thuyết cho rằng có hình tướng là có thể phân chiết, có 
                thuyết cho rằng, có hình tướng nhưng không thể phân chiết, nhưng 
                bất luận như thế nào, các thuyết đều chứa nhận các pháp thật có 
                tự tánh là cực vi. Như cổ nhân nói rằng, nhứt xích chi mộc, nhựt 
                thủ kỳ bán, chung cổ bất tận. Loại phân tích pháp không này vốn 
                được Kinh A Hàm đề cập ?Tán không?; tuy ý nghĩa không triệt để, 
                nhưng có thể lấy đó làm điểm căn cứ, do đó Ngài Long Thọ đã vận 
                dụng nó. Không quán, là Duy Thức tông v.v...sử dụng. Phương pháp 
                này càng được các nhà Kinh Bộ sử dụng một cách triệt để. Các nhà 
                Kinh Bộ cho rằng, 12 xứ là căn và cảnh chẳng thật có, do đó 
                thành lập cảnh sở quán không thật có. Về sau các nhà Đại Thừa 
                Duy Thức Học sử dụng phương pháp quán không này một cách cực 
                đoan, như cho rằng: ?Quỷ, bàng sanh, nhơn, thiên, mỗi loại tùy 
                theo nghiệp duyên của mỗi loài mà ứng hiện có sai khác, những 
                sai khác này do sự dị biệt của tâm, nhưng khong có nghĩa chân 
                thật?. Như cá cho nước là nhà, Trời cho là lưu ly, quỷ cho là 
                máu huyết, người cho là nước, từ ví dụ này cho ta thấy rằng nhà, 
                thủy tinh lưu ly v.v... đều không thật có, tất cả đều do nghiệp 
                báo khong đồng của mỗi người mà hiện thành. A Tỳ Đạt Ma Đại Thừ 
                a Kinh, các nhà Du già đều y nơi pháp này mà minh chứng ngoại 
                cảnh là không thật có, thành lập trí vô phân biệt, ly ngôn thể 
                chứng tự tánh. Để rõ ràng hơn về phương pháp này xin tham khảo 
                Nhiếp Đại Thừa Luận v.v... Sự không giống nhau phương pháp Không 
                quán và Phân phá không là: Phân phá không, nhơn phân chiết sự 
                giả thật mà thành lập cái giả danh là không; Quán không, là đứng 
                trên quan điểm nhận thức luận, để thấy rõ cảnh sở quán là không 
                thật có. Cũng giống như thế, quán không không thể đạt đến tất cả 
                pháp rốt ráo là không, bởi vì, quán không hạn chế ở chỗ là dùng 
                tâm năng quán, để quán sát ngoại cảnh là bất khả đắc, bản thân 
                của tâm năng quán, không thể dùng phương pháp quán không này, để 
                quán sát tâm năng quán cũng là không, do đó sử dụng kết qủa của 
                quán không một cách tất nhiên, muốn đạt đến tư tưởng ?Hữu tâm vô 
                tướng?. Cảnh không tâm có, cô nhiên cũng có thể cho là vì muốn 
                thấu rõ Không nghĩa. Như trên đã tường thuật, mỗi loại ý nghĩa 
                của chữ không, không những cái gọi là Không không triệt để, mà 
                còn đem khái niệm Không biến thành rỗng không. Như các học giả 
                Phân phá không thừa nhận cực vi, tâm và tâm sở thật có tự tánh, 
                là những hiện tượng do cực vi hình thành, hay là do năm uẩn tạo 
                thành cái gọi là Ngã, do vậy, cho là tất cả đều là pháp không 
                thật có. Các học giả này không chú ý tính duyên khởi của các 
                pháp là giả có, ý cho rằng họ không thừa nhận các pháp là duyên 
                khởi. Do vậy, một mặt họ không thể thấu triệt chữ không, càng 
                thêm chấp trước; mặt khác, pháp duyên khởi mà không nên phá hoại 
                cũng là không, thành ra chấp tổn giảm. Các nhà Duy thức học, đem 
                pháp duyên khởi đặt vào tâm và tâm sở pháp - là y tha khởi tánh, 
                không thể thấu rõ tâm vô tự tánh; đối với sáu trần - tánh duyên 
                khởi của cảnh không có chú ý của tâm, do vậy không thể phù hợp 
                với nghĩa trung đạo. Nghĩa của chữ không mà Bồ Tát Long Thọ phát 
                huy là tự tánh không, không phải chỉ mỗi một bộ phận nào đó là 
                không, cũng không phải là bất không, lại càng không thể cảnh 
                không mà tâm có. 
 
                
                - 
                Trí Độ Luận (quyển 
                74) đề cập đến 3 loại không:  
 
                
                - 
                1.    
                Tam muội (tâm) không, 2. Sở duyên (cảnh) không, 3. Tự 
                tánh không.
                
 
                - 
                Tam muội không cùng 
                với Quán không trong tam không vừa trình bày ở trên không giống 
                nhau. Đây là quán không lúc tu tam muội, tâm năng quán hiện ra 
                không tướng. Như Thập biến xứ quán, lúc quán màu xanh tất cả 
                pháp đều xanh, quán màu vàng thì tất cả pháp đều biến thành màu 
                vàng, xanh và vàng là cảnh quán của tâm quán. Thế thì, không là 
                vì quán tưởng không quán mà thành không. Trong kinh nói, tất cả 
                pháp là không, nhưng dựa vào quán tuệ của tâm năng quán mà quán 
                là không, đối với ngoại cảnh không khởi chấp trước, lìa hý luận, 
                do đó gọi là không, nhưng thật ra những pháp nầy không phải là 
                không. Điều này giống như nói: Không là do tâm tưởng tượng mà 
                thành, không phải thật tướng của các pháp là không. Thế thì rơi 
                vào chấp ?bất không?, cũng không thừa nhận học thuyết các pháp 
                là không. ?Sở duyên không? là tương phản với học thuyết vừa nêu 
                trên, cảnh giới sở duyên vốn là không, tâm năng quán y cứ cảnh 
                sở duyên này mà quán là không. Cái sở duyên là không, thì tất 
                nhiên tâm năng quán là bất không, quan điểm này giống với quán 
                không trong tam không vừa nêu. Chẳng qua, quán không là cảnh tùy 
                theo tâm quán mà dời đổi, còn sở duyên không là cảnh sở duyên 
                vốn không thật. Ngài Long Thọ bình luận: ?có người nói, Tam tam 
                muội vô tướng vô tác tâm số pháp gọi là không, không cho nên có 
                thể quán các pháp là không. Có ngươi nói rằng: Cảnh sở duyên bên 
                ngoài là sắc ... tất cả các pháp này là không, do ngoại cảnh là 
                không, cho nên gọi là không tam muội. Phật nói: không lấy cái 
                không tam muội cho là không , cũng không lấy cảnh sở duyên cho 
                là không. Rời xa hai kiến chấp này gọi là Trung đạo, do đó gọi 
                các pháp do nhân duyên hòa hợp mà sanh. là pháp hòa hợp, không 
                có pháp nhất định, cho nên gọi là không?.  
 
                
                - 
                Long Thọ Minh chứng 
                điểm này, là căn cứ kinh Bát Nhã nói: không có pháp nhất định 
                cho nên gọi   là không, có nghĩa là tất cả pháp do duyên hòa hợp 
                mà thành, do duyên hòa hợp, tức là không có tánh nhất định, 
                không có tánh nhất định đồng nghĩa không, chữ không này, chỉ cho 
                không có tự tánh, tức không thuyết. Do đó rõ biết, chữ không của 
                Trung quán là thuyết nhân qủa của pháp duyên khởi, từ duyên khởi 
                mà biết được các pháp không có tự tán, do không có tự tánh mà 
                biết được các pháp vốn không. Nếu thiên về Tam muội không hoặc 
                sở duyên không, là pháp chuyên y vào nhận thức luận, không thể 
                rời duyên khởi mà biết không, cũng không thể đạt đến kết luận 
                tất cả pháp là không. 
 
                
                - 
                Tự không và tha 
                không, là hai loại không quán không giống nhau. Thí như quán đóa 
                hoa là không, đối với tự không mà nói, đương thể của hoa là 
                không. Đối tha không, trong hoa không có những yếu tố này, do đó 
                nói là không, nhưng không có nghĩa là bản thân của hoa là không. 
                Như trong Luận Du Già phẩm chơn thật nghĩa nói rằng: ?Do bỉ cố 
                không, bỉ thật thị vô; ư thử nhi không, thỉ thật thị hữu, do thử 
                đạo lý, khả thuyết vi không?. Có nghĩa là, pháp này do vì hủy 
                diệt pháp kia, vì không có pháp kia, cho nên gọi là không, nhưng 
                đôi pháp này là có. Các nhà học giả Duy thức cho là không, cho 
                dù sự lý giải xảo diệu như thế nào cũng không tránh khỏi phạm vi 
                tha không. Tha không luận này, cũng không phải là cái độc đặc 
                sáng tạo của các nhà Duy thức, nguồn gốc sáng tạo của nó là phát 
                xuất từ bộ phái Tát Bà Đa. Vị luận sư nổi tiếng Thế Hữu cho 
                rằng: Không và vô ngã không giống nhau, vô ngã là cứu cánh liễu 
                nghĩa, không, không phải là cứu cánh liễu nghĩa. Như nói ngũ uẩn 
                là vô ngã, là triệt để, chính là vô ngã; nếu nói ngũ uẩn là 
                không, thì không triệt để. Do vì ngũ uẩn là vô ngã, cho nên Phật 
                nói không nhưng đố với sắc, thọv.v...không phải là không. Như 
                giải kinh nói: Chư hành không, cũng nói trong các hành không có 
                ngã và ngã sở, do đó gọi là không, không phải là không hành của 
                các hành. Các nhà học giả Duy thức kế thừa tư tưởng này, do đó 
                cho rằng: Do y tha khởi mà xa lìa tướng biến kế sở chấp, cho nên 
                gọi là không; nhưng tự tướng của y tha khởi là có, không thể nói 
                là không. Nói xa một tí, tư tưởng tha không sớm đã xuất hiện 
                trong Trung A Hàm kinh, như Kinh Tiểu Không trong Trung A Hàm, 
                chuyên thảo luân về tha không. Tư tưởng này cùng với Phật Giáo 
                tây Bắc Ấn Độ có sự quan hệ mật thiết. Tha không trong Tiểu 
                Không Kinh tức là bỏ những pháp nào, bảo tồn những pháp nào, vốn 
                là pháp thứ đệ của thiền định, gọi cái này là không nhưng không 
                thể gọi tất cả pháp không. Bài kinh này lấy Lộc tử mẫu giảng 
                đường làm ví dụ, như nói Lộc tử mẫu giảng đường là không, ý nói 
                trong giảng đường này không có trâu, dêv.v...cho nên nói là 
                không, chẳng phải giảng đường là không, cũng chẳng phải trong 
                giảng đường không có các vị Tỳ kheo, lại không phải là nơi khác 
                không có trâu dê, cho nên gọi là không. Đây là không quán còn 
                nông cạn, kinh Lăng Già gọi đó là bỉ bỉ không. Loại khong quán 
                này (Do bỉ cố không, bỉ thật thị vô; ư thử nhi không, thử thật 
                thị hữu), có rất nhiều loại, nhưng puhơng pháp cơ bản vẫn không 
                thay đổi. Do đó, nghĩa của chữ không theo các nhà Duy thức học, 
                lấy tha không luận của vùng Tây Bắc Ấn làm căn bản, tuy có ảnh 
                hưởng thuyết, nhứt thiết pháp giai không của đại thừa, nhưng vẫn 
                không đồng nhất. Tư tưởng Tự không, nguồn gốc của tư tưởng này 
                cũng phát xuất từ A Hàm. Như Tạp A Hàm Kinh nói: thường không 
                .... ngã ngã sở không, tánh tự nhĩ cố. Đây có nghĩa là: Đương 
                thể của thường, ngã, ngã sở là không; không phải là ngoài không 
                riêng có cái gọi là thường, ngã, ngã sở là bất không. Thường, 
                ngã, ngã sở v.v...là không, bởi vì thường, ngã, ngã sở là như 
                vậy. Lại như Thắng Nghĩa Kinh trong Tạp A Hàm nói rằng: không có 
                ngã và ngã sở chỉ có sự lưu chuyển của nhơn quả nghiệp báo, 
                nhưng không phải là trong thắng nghĩa đế có sự lưu chuyển nhơn 
                quả nghiệp báo này, do đó nói rằng: Thế tục cho rằng, do đây có 
                cho nên kia có, do đây sanh cho nên kia sanh, nghĩa là vô minh 
                duyên hành....Sự tương tục của nhơn quả duyên khởi là thế tục, 
                trong thắng nghĩa đế là vô ngã, ngã sở tức không. Cái có của thế 
                tục, cùng cái không của thắng nghĩa là xuất hiện từ kinh này. 
                Tóm lại tự không là dựa vào đương thể của pháp mà hiểu rõ không, 
                tha không là trong pháp này hủy bỏ pháp kia nhờ vậy mà rõ được 
                không. Do đó, Trung quán cho là thế tục do giả danh mà có, thắng 
                nghĩa rốt ráo không, các nhà tha không luận thì không chấp nhận 
                quan điểm này. Họ căn cứ ý kiến của mình mà sửa đổi là: Tất cả 
                pháp giai không là pháp không liễu nghĩa, quan điểm này cùng với 
                các nhà có lập trường, tự tánh không thì không đồng nhất. Về sau 
                các học giả không luận duy thức, bèn bỏ đi thuyết biến kế sở 
                chấp; không nhưng không thể nói duên khởi là do không biểu hiện, 
                cũng không thể xác nhận các pháp là không, do đó tự không và tha 
                không căn bản không giống nhau. Thành Duy thức luận cho là nếu 
                chấp duy thức là thật có, đây cũng là pháp chấp, cho là duy thức 
                cũng đề cập duyên khởi tâm tâm sở pháp đều không, ắt hẳn điều 
                này không sao tránh khỏi sự thêm thắt. 
 
                
                - 
                Tôi cho rằng tất cả 
                pháp giai không của Trung quán, chủ yếu tư tưởng này xuất phát 
                từ nhơn quả duyên khởi, nhưng Duy thức tông thì xuất phát từ 
                nhận thức. Những nhà Duy thức học cho rằng, dựa trên nhơn quả 
                duyên khởi mà rõ không, tư tưởng nầy cùng với tiểu thừa đều 
                không triệt để, đại thừa từ nhận thức mà nói như Nhiếp Đại thừa 
                luận: ?Tự nhiên tự thể vô, tự tánh bất kiên trụ, như chấp thủ 
                bất hữu, cố hứa vô tự tánh? Vô tự tánh không có nghĩa là tự tánh 
                hoàn toàn không có. Như pháp vị lai, sanh ở vị lai, chắc chắn 
                phải có nhơn duyên không thể tự nhiên mà sanh, do vậy gọi đó là 
                vô tự nhiên tánh. Quá khứ đã diệt không thật thể đồng nghĩa 
                trong bài tụng gọi là tự nhiên vô. Hiện tại sanh diệt không 
                ngừng, đồng trong tụng gọi là tự tánh bất kiên trụ. Đây đại khái 
                là sự lưu động của tam thế nhơn quả, là thuyết vô tự tánh. Trong 
                A Hàm kinh cũng có tư tưởng này, do đó nhiếp luận cho tư tưởng 
                này là tiểu thừa. ?Như chấp thủ bất hữu cố hứa vô tự tánh?. Đây 
                là đại khái đối với biến kế vô tự tánh mà nói, đối với tất cả 
                pháp chấp là tự tướng, công tướng, pháp tướng, ngã tướng 
                v.v...đều dựa vào danh mà sanh nghĩa, y vào nghĩa mà sanh danh, 
                hiển lộ giả danh 
 
                
                - 
                Không phải là có từ 
                tự tánh, rời khỏi biến kế này không có tự tướng, là thuyết không 
                có tự tánh của Đại thừa, đây là điểm các nhà học giả Duy thức 
                không đồng quan điểm với Tiểu thừa. Nhưng nghiên cứu một cách 
                nghiêm túc, cái gọi là ?chấp thủ tướng bất hữu? này, trong Kinh 
                A Hàm cũng đã có nihều nơi đề cập ?Bất khả thủ bất khả đắc?. 
                ?Như chấp thủ bất hữu?, các bậc Thinh văn cũng không đạt đến, 
                Tạp A Hàm nói: Ngài Ca Chiên Diên khi vào chơn thật thiền định 
                thắng nghĩa, đây có nghĩa là không lấy nhứt thiết tướng mà nhập 
                thiền định. Một bản dịch khác nói rằng: ?Chỉ là giả nhơn duyên 
                hòa hợp ma có tất cả mọi thứ danh tướng, quán tất cả tướng này 
                là không tịch, không còn thấy hữu pháp và phi pháp?. Phẩm Chơn 
                thật nghĩa đã trích dẫn ở đây mà cho là giáo chứng của ly ngôn 
                pháp tánh, thế thì có theể nói Thinh Văn không có pháp này sao? 
                Do đây mà biết, trên nhận thức không chấp lấy không của các 
                tương cũng là Tiểu thừa. Dựa vào pháp nhơn quả duyên khởi mà rõ 
                được vô tự tánh không, cùng với tam thuyết của Nhiếp luận không 
                giống nhau. Duyên sanh là không tự tánh, tự tánh mà bất khả đắc 
                tức là không; bởi vì vô tự tánh không, do đó chấp có tự tánh là 
                điên đảo hý luận, như thật chánh quán là không chấp trước các 
                tướng. Khi và thắng nghĩa thiền định, không chấp tất cả tướng, 
                đương nhiên đây không phải tách rời nah6n quả duyên khởimà thành 
                lập. Kinh Bát Nhã nói: Nếu có một pháp nào khả đắc, chư Phật Bồ 
                Tát có lỗi lầm, nghĩa là tạp nhiễm không phải là pháp thanh 
                tịnh, đây là điểm mà kinh A Hàm đã đề cập đến. Dựa vào pháp 
                duyên khởi nhân quả mà hiểu rõ tất cả pháp đều không, là vô 
                không môn; không chấp lấy tất cả tướng, là vô tướng môn. Không 
                môn, vô tướng môn, vô tác môn, là phương tiện không tổn hại 
                không giống nhau, chính là nhứt ngộ, nhứt thiết ngộ, tam giải 
                thoát môn đồng duyên một thật tướng. Trung quán lấy không môn vô 
                khởi duyên tánh làm nền tảng, chưa từng đề cập vô tướng môn. 
                Nhưng Duy thức lại từ quán không để rõ ?Bất như sở hữu thủ?, 
                không thể từ nhơn quả mà rõ không, đây là sự bất đồng quan điểm 
                giữa hai Tông. Vừa trình bày trên là minh chứng duyên khởi vô tự 
                tánh, mục đích làm rõ nghĩa chữ không. Long Thọ đề cập đến điểm 
                này rất nhiều, nhưng trên căn bản không đồng quan điểm với các 
                học phái khác. Do đó, không nên có thái độ vọng văn sanh nghĩa, 
                thấy từ duyên khởi, tự tánh, không bèn vội vàng cho là giống 
                nhau. 
 
                
                - 
                2. 
                DUYÊN KHỞI TỰ TÁNH KHÔNG
                
 
                
                - 
                Bây giờ đem thuyết 
                duyên khởi, tự tánh, không vừa thảo luận trên, tiếp tục tổng hợp 
                thảo luận: Duyên khởi va tự tánh là tuyệt đối tương phản, duyên 
                khởi là vô tự tánh, tự tánh là phi duyên khởi. Chúng sanh, ngoại 
                đạo thậm chí cho đến một số học phái khác đều cho tự tánh là căn 
                nguyên, là khởi điểm. Đối với điểm này Phật Đà cùng ngoại đạo 
                không giống nhau, Phật cho là duyên khởi, luận nhơn nói nhơn. Do 
                đó dựa vào học thuyết của Trung quán có thể gọi trung quán là 
                Duyên khởi tông, các học phái khác có thể gọi là Tự tánh không, 
                cũng có nghĩa là không có sự phân biệt giữa hai tông. Nếu lấy 
                duyên khởi cùng không hợp lại mà nói, duyên khởi tức là không, 
                không cũng tức là duyên khởi, hai khái niệm này, chẳng quaa l2 
                hai quan điểm khác nhau của cùng một nội dung, trong kinh gọi là 
                Sắc tức thị không, không tức thị sắc. Duyên khởi va không là 
                đồng nhất, vì duyên khởi là duyên khởi của vô tự tánh, duyên 
                khởi là cái để đạt đến rốt ráo không; nếu có tự tánh, thì không 
                những là bất không, cũng không thành duyên khởi. Ngoại đạo cho 
                rằng, không là không có, là không trơn, nay luận duyên khởi là 
                không, lầm tưởng cái gì cũng không có. Bởi vì họ cho rằng, duyên 
                khởi có thể có tự tánh, duyên khởi cùng không không tương thuận. 
                Nhưng các nhà Trung quán cho rằng, vì tất cả pháp rốt ráo không, 
                do đó có pháp duyên khởi, không chướng ngại sanh tử lưu chuyển. 
                Trung quán nói không, không phải là không có, chỉ là vô tự tánh 
                mà thôi. Như ánh trăng trong lòng nước, tuy tánh của trăng vốn 
                không, nhưng ánh trăng chúng ta có thể trông thấy. Do vậy không 
                và duyên khởi tương thuận, nếu như rời duyên khởi mà nói không, 
                nói duyên khởi là bất không, đây gọ là ác không. Nói đến không 
                và tự tánh, một mặt tự tánh vốn là không. Nhưng không thể gọi 
                không là tự tánh, không là bản tánh của tất cả pháp, là chân 
                tướng rốt ráo của tất cả pháp, nhưng chẳng qua tự tánh bị điên 
                đảo vọng chấp. Nhưng điểm rốt ráo của thuyết tự tánh, không là 
                chân thật, là cứu cánh, cũng có thể gọi không là tự tánh. Như 
                kinh Bát Nhã nói: ?Tự tánh của tất cả pháp đều không thể được, 
                tự tánh không thể được tức là tự tánh của tất cả pháp?. Đại khái 
                thuyết cứu cánh không cũng có thể gọi là thật tướng, thật tánh, 
                chân thật. Vì tánh của chư pháp là cứu cánh không, bây giờ trả 
                về bản lai của nó là không, không tăng, không giảm, nhưng không 
                phải là hư ngụy điên đảo, cho nên có thể gọi nó là chơn là thật. 
                Tổng kết như bản đồ dưới đây: 
 
                
                - 
                * Tự tánh và duyên 
                khởi  
 
                - 
                - Tương phản tương 
                đoạt  
 
                - 
                - Tự tánh phi duyên 
                khởi, duyên khởi phi tự tánh. 
 
                
                - 
                * Duyên khởi và không 
                tịch  
 
                - 
                - Tương phản tương 
                thành  
 
                - 
                - Vì duyên khởi dẫn 
                đến không tịch, vì không tịch cho nên duyên khởi. 
 
                
                - 
                * Không tịch và không 
                tánh  
 
                - 
                - Tương thuận tương 
                phản  
 
                - 
                - Tự tánh là không 
                tịch, không tịch là tự tánh. 
 
                - 
                - Tương phản tương 
                thành  
 
                - 
                - Không có tự tánh 
                cho nên gọi là không, không tức là tự tánh.  
 
                   
                
                - 
                Đài 
                Bắc ngày 15 tháng 8 năm 1999
                
 
                - 
                Trích 
                dịch từ Trung Quán Kim Luận của Pháp sư Ấn Thuận
                
 
                
                   -  
 
                
               
              
             
             | 
   
           
               
       
       |