| 
           
      
  
           
                
            
              
              
                - Thư Viện Chùa Dược Sư
 
                - PHẬT HỌC CƠ BẢN
 
                  
               
              
              
                
                   
                  - 
                  
                  Mười Hai Nhân Duyên
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  
                  (Thập Nhị Nhân Duyên)
 
                  
                
                
                   
                  - Thích 
                  Tâm Hải
 
                  
                
                
                   
                  - --o0o--
 
                  
                
                - 
                A) DẪN NHẬP 
                
 
                
                - 
                Mười hai nhân duyên 
                (Thập nhị nhân duyên) là cách trình bày đặc biệt của giáo lý 
                Duyên khởi (Paticcasamuppada) (1). Giáo lý này do chính Bổ tát 
                Tất Đạt Đa (Siddhartha) thể chứng dưới cội bổ đề sau 49 ngày tư 
                duy thiền định, từ đó Ngài trở thành một bậc Giác ngộ hoàn toàn.
                
 
                
                - 
                Mười hai nhân duyên, 
                hay Duyên khởi, là một giáo lý rất đặc thù, là điểm xác định sự 
                khác biệt giữa Phật giáo với các tôn giáo khác. Nó là cốt lõi 
                của nhân sinh quan Phật giáo, được đề cập nhất quán trong tất cả 
                các kinh điển. Nhận thức rõ về giáo lý mười hai nhân duyên sẽ 
                giúp người học Phật hiểu cặn kẽ hơn về các vấn đề khác như 
                nghiệp, luân hổi tái sinh, nhân quả... đổng thời gợi mở một 
                hướng sống tích cực cho mổi cá nhân trong hiện tại. 
 
                
                - 
                B) NỘI DUNG : 
                
 
                
                - 
                I/ 
                Định nghĩa : 
                
                
 
                - 
                1- Thế 
                nào là nhân duyên ? 
 
                
                - 
                Nhân là yếu tố quyết 
                định, điều kiện chính làm sinh khởi, có mặt của một hiện hữu. 
                Duyên là điều kiện hôrợ, 
                tác động làm cho nhân sinh khởi. Ví dụ : hạt lúa là nhân của cây 
                lúa ; các yếu tố như đất, độ ẩm, ánh sáng mặt trời, người 
                gieo... là duyên để hạt lúa (nhân) nảy mầm phát triển thành cây 
                lúa. Mối quan hệ nhân - duyên thực ra phức tạp và vi tế hơn 
                nhiều, đặc biệt là trong thế giới tâm thức ; và, nhân duyên nói 
                cho đủ là nhân - duyên - quả. 
 
                
                - 
                "Nhân duyên" trong 
                "mười hai nhân duyên" hàm ý nghĩa "nhân duyên khởi" : sự nương 
                tựa vào nhau mà sinh khởi, sự tùy thuộc phát sinh, nói chính xác 
                là "do cái này có mặt, cái kia có mặt ; do cái này không có mặt, 
                cái kia không có mặt ; do cái này sinh, cái kia sinh ; do cái 
                này diệt, cái kia diệt". 
 
                
                - 
                2- Mười 
                hai nhân duyên là gì ? 
 
                
                - 
                Trong kinh Tương Ưng 
                Bộ II (Samyutta Nikàya), Đức Phật đã thuyết minh về mười hai 
                nhân duyên (Duyên khởi) như sau : "Do vô minh, có hành sinh ; do 
                hành, có thức sinh ; do thức, có danh sắc sinh ; do danh sắc, có 
                lục nhập sinh ; do lục nhập, có xúc sinh ; do xúc, có ái sinh ; 
                do ái, có thủ sinh ; do thủ, có hữu sinh ; do hữu, có sinh sinh 
                ; do sinh sinh, có lão tử, sầu, bi, khỗ, ưu, não sinh, hay toàn 
                bộ khỗ uẩn sinh. Đây gọi là Duyên khởi". 
 
                
                - 
                "Do đoạn diệt (2) 
                tham ái, vô minh một cách hoàn toàn, hành diệt ; do hành diệt 
                nên thức diệt ; do thức diệt nên danh sắc diệt ; ... ; do sinh 
                diệt nên lão tử, sầu bi, khỗ, ưu, não diệt. Như vậy là toàn bộ 
                khỗ uẩn đoạn diệt. Này các Tỷ kheo, như vậy gọi là đoạn diệt". 
                (tr 1-2) 
 
                
                - 
                Mười hai nhân duyên 
                được Đức Phật định nghĩa gổm hai chiều hướng : chiều hướng sinh 
                khởi (còn gọi là lưu chuyển : do vô minh, hành sinh...) và chiều 
                hướng đoạn diệt (còn gọi là hoàn diệt : do đoạn diệt tham ái, vô 
                minh một cách hoàn toàn nên hành diệt...). Khi mười hai nhân 
                duyên được thành lập (tập khởi), nghĩa là năm uẩn (3) tập khởi, 
                và đây là chiều hướng của khỗ đau, luân hổi. Khi mười hai mắc 
                xích này bị phá vỡ (đoạn diệt) thì cấu trúc năm uẩn cũng tan rã, 
                và đây là con đường của an lạc, giải thoát. Năm uẩn chính là cấu 
                trúc của con người và cuộc đời. Sự hiện hữu của con người tự nó 
                nói lên mười hai nhân duyên đang vận hành theo chiều tập khởi.
                
 
                
                - 
                Theo cách trình bày 
                trên, vô minh được xem như là căn nguyên, nguổn cội, cốt lõi của 
                mười hai nhân duyên. Tuy nhiên, không nên hiểu nhầm vô minh là 
                nguyên nhân đầu tiên của chuổi liên kết đó. Bởi Đức Phật dạy, vô 
                minh cũng do nhân duyên sinh, là duyên khởi. Khi có nhân duyên 
                (tích cực) thì vô minh cũng sẽ chuyển hóa thành trí, tuệ ; đây 
                là ý nghĩa "vô minh diệt, minh sinh". 
 
                
                - 
                Cũng cần lưu ý đôi 
                chút về số mục (12 chi phần) của dạng thức Duyên khởi này. Định 
                nghĩa được nêu trên, trích từ kinh Trung Bộ II, là một cách 
                trình bày tiêu biểu nhất, gổm đầy đủ cả 12 chi phần. Trong một 
                số bản kinh khác, như kinh Đại Duyên (Trường Bộ kinh II), kinh 
                Đại Bỗn Duyên (Trường A Hàm I)... Đức Phật trình bày chỉ gổm 5, 
                8 , 10, 11 và đầy đủ nhất là 12 chi phần. Vấn đề này được các 
                nhà nghiên cứu Phật học có thẩm quyền phân tích rất tỉ mỉ, và 
                tất cả đều thống nhất, số mục 12 chi phần được xác định qua nội 
                dung thiền quán của Đức Phật dưới cội bổ đề. Đây là dạng thức 
                chính xác, đầy đủ và phù hợp nhất với tư duy của con người. Sự 
                sai khác về số mục các chi phần chỉ là thể hiện phương pháp giáo 
                hóa linh động của Đức Phật, Ngài tùy thuộc vào trình độ của 
                người nghe mà nói vắn tắt hoặc đầy đủ. Điều này sẽ được làm sáng 
                tỏ ở phần nói về sự vận hành của mười hai nhân duyên. 
                
 
                
                - 
                Đối tượng nghe giáo 
                lý mười hai nhân duyên là con người, vì nặng về tâm luyến ái và 
                chấp thủ, nên Đức Phật luôn nhấn mạnh đến các chi phần này, đặc 
                biệt là trong chiều hướng, con đường đoạn diệt - giải thoát. Khi 
                ái (hay bất luận một chi phần nào) sinh khởi, lập tức cấu trúc 
                12 nhân duyên hình thành ; và ngược lại, khi chi phần ái hay thủ 
                (hoặc một chi phần bất kỳ) đoạn diệt, lập tức chuổi mắc xích 12 
                nhân duyên tan rã. Đây cũng là ý nghĩa, mà trong luận Đại Tỳ Bà 
                Sa ghi rằng, nói Duyên khởi có một chi phần cũng được, hai, ba, 
                ... cho đến 12 chi phần cũng được. 
 
                
                - 
                II) Ý 
                nghĩa của mười hai chi phần nhân duyên : 
                
                
 
                - 
                1- Vô minh (Avijjà) : 
                sự mê mờ, cuổng si của tâm thức ; hay nói cách khác là sự không 
                hiểu biết như thật về hiện hữu là duyên sinh, vô thường và không 
                có một tự thể độc lập, bất biến. 
 
                
                - 
                2- Hành (Sankhàra) : 
                động lực, ý chí hành động tạo tác (ý hành) của thân, miệng và ý.
                
 
                
                - 
                3- Thức (Vinnana) : 
                tri giác của con người về thế giới thông qua các cơ quan chức 
                năng như mắt (nhãn thức), tai (nhĩ thức), mũi (tỉ thức), lưỡi 
                (thiệt thức), thân (thân thức) và ý (ý thức). 
 
                
                - 
                4- Danh sắc (Nàma - 
                rùpa) : sắc là phần vật lý và sinh lý, danh là phần tâm lý. Với 
                con người, sắc là cơ thể vật chất, các giác quan và chức năng 
                của chúng ; danh là các tâm phụ thuộc (tâm sở), như xúc, tác ý, 
                thọ, tưởng và tư. 
 
                
                - 
                5- Lục nhập 
                (Chabbithàna) : có nơi gọi là sáu xứ, là sự tương tác giữa 6 căn 
                (= 6 nội xứ : mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý) và đối tượng của 
                chúng là 6 trần (= 6 ngoại xứ : hình thể, âm thanh, hương vị, 
                mùi vị, xúc chạm và ý tưởng - pháp). 
 
                
                - 
                6- Xúc (Phassa) : sự 
                gặp gỡ, tiếp xúc, giao thoa giữa các căn (chủ thể) và trần (đối 
                tượng). Nói rõ hơn, xúc chính là sự tiếp xúc giữa con người và 
                thế giới thông qua 6 cơ quan tri giác. Lưu ý là, khi có thức 
                phát sinh do mắt tiếp xúc với hình thể (sắc trần), thì sự nhận 
                biết đó mới gọi là nhãn thức... Vậy, xúc là sự gặp gỡ, giao thoa 
                giữa căn, trần và thức. 
 
                
                - 
                7- Thọ (Vedanà) : sự 
                cảm thọ. Nói khác đi là các phản ứng tâm lý phát sinh khi mắt 
                tiếp xúc với hình thể, tai tiếp xúc với âm thanh... ý tiếp xúc 
                với ý tưởng (pháp). 
 
                
                - 
                Cảm thọ có ba loại : 
                cảm thọ dễ chịu (lạc thọ), cảm thọ khó chịu (khỗ thọ) và cảm thọ 
                trung tính (phi khỗ phi lạc). Đây là chất liệu mà con người 
                thường lấy để xây dựng những giá trị gọi tên là hạnh phúc và khỗ 
                đau, bất hạnh. Thực ra, chúng là do duyên sinh, luôn thay đỗi, 
                không hề có một tự tính cố định. 
 
                
                - 
                8- Ái (Tanhà) : gọi 
                đủ là ái dục hay khát ái : sự vướng mắc, yêu thích, tham luyến; 
                gồm có dục ái, sắc ái và vô sắc ái. 
 
                
                - 
                9- Thủ (Upadàna) : 
                gọi đủ là chấp thủ : sự kẹt vào, bám víu, đeo chặt của tâm thức 
                vào một đối tượng. 
 
                
                - 
                10- Hữu (Bhava) : 
                tiến trình tương duyên để hình thành, gổm dục hữu, sắc hữu và vô 
                sắc hữu. 
 
                
                - 
                11- Sinh (Jati) : sự 
                ra đời, tạo nên, xuất hiện. Sinh ở đây không phải là sự sinh ra 
                em bé, mà là sự thành tựu các bộ phận cấu thành (năm uẩn), thành 
                tựu các xứ (các cơ quan tri giác và chức năng của chúng). 
                
 
                
                - 
                12- Lão tử 
                (Jaramrana) : sự suy nhược, tàn lụi, tuỗi thọ lớn, tan rã, tiêu 
                mất, tử vong. Với sinh mạng con người, lão tử được biểu hiện 
                dưới các hiện tượng : răng lung, tóc bạc, da nhăn, các cơ quan 
                tri giác suy yếu và chết. 
 
                
                - 
                III) 
                Sự vận hành của mười hai nhân duyên : 
 
                
                - 
                Thông qua ý nghĩa của 
                các chi phần mười hai nhân duyên, đặc biệt là chi phần lục nhập, 
                một lần nữa khẳng định rằng, dạng thức duyên khởi này là giáo lý 
                nói về con người, bởi vì chỉ ở con người mới có đầy đủ 6 cơ quan 
                tri giác. Do vậy, khi nói về sự vận hành của mười hai nhân duyên 
                cũng chính là nói về sự vận hành con người. 
 
                
                - 
                Vì không nhận biết 
                hiện hữu (con người và thế giới) là do nhân duyên hòa hợp mà 
                sinh khởi, luôn biến dịch và không có một tự thể thường hằng, 
                nên con người ảo tưởng về một tự ngã : đây là cái tôi và đây là 
                cái của tôi (Vô minh). Chính ảo tưởng và sự bất giác này quấy 
                động tâm thức, làm sinh khởi lòng tham ái, chấp thủ... Và đó là 
                động cơ cho các hành động của thân, lời và ý (Hành). Mổi khi ý 
                niệm về một tự ngã sinh khởi thì Thức có mặt. Sự hiện hữu của 
                Thức tất yếu đòi hỏi sự có mặt của chủ thể nhận thức và đối 
                tượng nhận thức (Danh sắc, Lục nhập). Khi căn, trần và thức gặp 
                gỡ nhau (Lục nhập), thì Xúc sinh khởi. Cảm thọ (Thọ) có mặt ngay 
                khi căn, trần và thức giao thoa nhau ; cảm thọ sẽ tuôn chảy như 
                một dòng thác mà không một năng lượng nào có thể ngăn cản được, 
                vì bản chất của cảm thọ là thế. Thọ bao gổm những phản ứng tâm 
                lý trước đối tượng như là buổn, vui, yêu, ghét, trung tính... 
                Cảm thọ dễ chịu sẽ làm phát sinh luyến ái (Ái). Trong Ái đã bao 
                hàm chấp thủ và nó được biểu hiện dưới nhiều hình thức tương ứng 
                với các cảnh giới của tâm thức (Hữu). Hữu tạo ra Sinh, và mổi 
                khi đã có Sinh, thì tiến tình suy yếu, tan rã, mất đi sẽ vận 
                hành như một hệ quả đương nhiên : nghĩa là lão tử, sầu, bi, khỗ, 
                ưu, não ; hay khỗ đau có mặt. Đó là sự vận hành của mười hai 
                nhân duyên theo chiều sinh khởi (lưu chuyển) - chiều vận hành 
                này có động lực là vô minh, tham ái và chấp thủ. Nói khác đi, 
                đây là con đường của khỗ đau, luân hổi được dẫn dắt và chi phối 
                bởi vô minh. 
 
                
                - 
                Trong phần thuyết 
                minh về mười hai nhân duyên, Đức Phật không chỉ nêu lên con 
                đường tập khởi, như đã phân tích ở trên, mà Ngài đã chỉ ra 
                nguyên nhân tập khởi và con đường đoạn tận (hoàn diệt). Mổi khi 
                đoạn diệt bất kỳ một chi phần nào trong chuổi 12 mắc xích (nhân 
                duyên), thì lập tức nó tự tan rã. Tuy nhiên, với con người, tham 
                ái và chấp thủ là nặng nề nhất ; nên đoạn tận tham ái hoặc chấp 
                thủ thì vòng xích mười hai nhân duyên không còn lý do để hiện 
                hữu. Đó là ý nghĩa của lời Phật dạy : "Ái diệt tức Niết bàn".
                
 
                
                - 
                Sự vận hành của mười 
                hai nhân duyên không chỉ đơn giản là tiến trình hình thành một 
                sinh mạng (từ ý niệm tối sơ về hiện hữu đến hơi thở cuối cùng), 
                mà sự vận hành của nó (chiều thành lập - lưu chuyển) nói lên căn 
                nguyên có mặt của con người (và cuộc đời) ; nó không bị giới hạn 
                bởi thời gian và không gian. Bao giờ tham ái, chấp thủ hoặc vô 
                minh chưa được đoạn tận thì con người vẫn bị chi phối bởi sự vận 
                hành của mười hai nhân duyên - nghĩa là vẫn luẩn quẩn trong luân 
                hổi, khỗ đau bất tận - khi 12 nhân duyên đoạn diệt, đổng nghĩa 
                với toàn bộ khỗ uẩn đoạn diệt. 
 
                
                - 
                IV) 
                Một số cách giải thích về mười hai nhân duyên : 
 
                
                - 
                Mười hai nhân duyên, 
                hay Duyên khởi, là nguyên lý của mọi hiện hữu. Nó là sự thật nên 
                không bị giới hạn trong không gian và thời gian. Đức Phật khẳng 
                định rằng : "Duyên sinh là thực tính của mọi hiện hữu, sự thật 
                này không thay đỗi dù Như Lai có xuất hiện hay không xuất hiện". 
                Một hiện hữu dù nhỏ như hạt nhân của nguyên tử đến to lớn như vũ 
                trụ cũng không nằm ngoài nguyên lý này. Với đặc tính đó, giáo lý 
                mười hai nhân duyên có thể dùng để soi sáng nhiều vấn đề khác 
                trong cuộc đời như luân hổi, nhân quả... tùy thuộc theo góc quan 
                sát của người giải thích. Ở đây chỉ giới thiệu 4 cách giải thích 
                phỗ biến. 
 
                
                - 
                1- Dạng 
                thức tổng quát : 
                
                
 
                - 
                "Do cái này có mặt, 
                cái kia có mặt ; do cái này không có mặt, cái kia không có mặt ; 
                do cái này sinh, cái kia sinh ; do cái này diệt, cái kia diệt". 
                (Tiểu Bộ kinh, tr.291). Dạng thức này là cách trình bày khái 
                quát, tóm tắt và đơn giản nhất do chính Đức Phật nói. Nó được 
                xem như là một nguyên lý cho mọi hiện hữu trong thế giới hiện 
                tượng. Nói chính xác hơn, nếu mười hai nhân duyên là dạng thức 
                duyên khởi riêng về con người, thì dạng thức tỗng quát nói về 
                bản chất của thế giới hiện tượng, đặc biệt là thế giới không có 
                tình thức (khí thế giới). 
 
                
                - 
                2- Ba 
                đời hai tầng nhân quả (Tam thế lưỡng trùng nhân quả) : 
                
                
 
                - 
                Ba đời là quá khứ, 
                hiện tại và tương lai (vị lai). Theo cách giải thích này, vô 
                minh và hành thuộc về quá khứ ; hiện tại gổm có 8 chi phần (từ 
                thức đến hữu) ; sinh và lão tử thuộc về vị lai. Mặt khác, thức, 
                danh sắc, lục nhập được xem là quả hiện tại của nhân quá khứ là 
                vô minh và hành, đây là tầng nhân quả thứ nhất. Các chi phần 
                thọ, ái, thủ và hữu là nhân hiện tại cho quả vị lai là sinh và 
                lão tử ; đây là lớp nhân quả thứ hai. Sự phối hợp giữa 2 lớp 
                nhân quả này với các duyên tạo nên một mối quan hệ có vẻ chặt 
                chẽ, tương tục của dòng chảy thời gian : quá khứ - hiện tại - vị 
                lai. Qua cách giải thích này, ý đổ dùng giáo lý mười hai nhân 
                duyên để giải thích luân hổi đã thể hiện rõ. Tuy nhiên, cách 
                phân chia như trên sẽ dễ đưa đến một ngộ nhận, như là vô minh và 
                hành chỉ có ở quá khứ, 8 chi phần tiếp theo chỉ có ở hiện tại, 
                sinh và lão tử thì thuộc về tương lai (!). Thực ra, trong hiện 
                tại (và ngay trong mổi chi phần) đã có mặt vô minh. Khi một chi 
                phần hiện hữu thì lập tức có sự hiện hữu của mười một chi phần 
                còn lại. Nếu một chi phần bất kỳ vắng mặt thì mối liên kết 12 
                chi phần nhân duyên tự sụp đỗ. Như đã phân tích, mười hai nhân 
                duyên là một dòng tương tục, chằng chịt, không hề lệ thuộc vào 
                thời gian (quá khứ, hiện tại hay tương lai). Cách giải thích này 
                vô tình làm thô thiển và đơn giản hóa giáo lý mười hai nhân 
                duyên - một giáo lý vốn được xem là rất thâm áo và tinh tế.
                
 
                
                - 
                3- Nhân 
                quả đồng thời : 
                
                
 
                - 
                Khi nói "Do vô minh, 
                hành sinh...", không nên hiểu là hành do vô minh sinh ra. Giữa 
                vô minh và hành... là mối quan hệ nhân quả tuyến tính, đơn 
                phương ; nghĩa là các chi phần trong mười hai nhân duyên hiện 
                hữu tùy thuộc vào yếu tố thời gian (trước - sau). Cách giải 
                thích này nói rằng, ngay trong một sát na (4) đã có sự hiện hữu 
                đầy đủ của cả 12 chi phần. Khi ý niệm lệch lạc về một cái tôi và 
                cái của tôi (tự ngã) có mặt, lập tức có mặt chuổi nhân quả tương 
                tục : ý chí tạo tác (hành), tri giác phân biệt và chấp thủ 
                (thức)... đến lão tử, sầu, bi, khỗ, ưu, não. Mổi một chi phần 
                vừa là quả vừa là nhân cho các chi phần khác, chúng nuôi dưỡng 
                lẫn nhau. 
 
                
                - 
                4- Sự 
                hiện hữu của một đời sống con người (mạng căn) : 
                
                
 
                - 
                Một trong 3 yếu tố 
                quyết định để hình thành một thai nhi là có sự hiện hữu nghiệp 
                thức đi đầu thai. Nghiệp thức này là kết quả của vô minh và hành 
                trong quá khứ. Giai đoạn tượng thai chính là thời điểm danh sắc 
                có mặt. Lục nhập là giai đoạn thai nhi hình thành đầy đủ các 
                căn. Giai đoạn trẻ bú mớm là giai đoạn của xúc. Trẻ từ 3-5 tuỗi 
                là lúc thọ hình thành. Từ đây trở về trước, theo lối giải thích 
                này, là biểu hiện của nghiệp quá khứ, trẻ chưa tác ý thiện ác để 
                tạo nên nghiệp hiện tại. Khi trẻ biết vui, buổn, ưa, ghét... là 
                lúc ái, thủ, hữu hình thành và chính đây mới là giai đoạn mà trẻ 
                tạo nghiệp để đưa đến hình thành một thân mạng mới ở tương lai 
                (sinh, lão tử). 
 
                
                - 
                V) Một 
                số hệ luận từ giáo lý mười hai nhân duyên : 
 
                
                - 
                1- Con người (và cuộc 
                đời) là hiện hữu của cấu trúc mười hai nhân duyên, nên không hề 
                có một tự ngã độc lập và thường hằng. Con người chính là chủ 
                nhân của cuộc đời mình, bởi giáo lý mười hai nhân duyên cho thấy 
                sự thật : "Không thể tìm ra một đấng sáng tạo, một Brahman, hay 
                một vị nào khác, làm chủ vòng luân chuyển của đời sống ; chỉ có 
                những hiện tượng diễn tiến, tùy thuộc vào những điều kiện" (5).
                
 
                
                - 
                2- Con người và cuộc 
                đời là vô ngã, không có một tự tính thường hằng (vô thường), nên 
                bên trong mổi người luôn tiềm ẩn một khả năng giác ngộ, và cuộc 
                đời luôn có cơ hội để xây dựng trở nên tốt đẹp. 
 
                
                - 
                3- Khi một chi trong 
                mười hai nhân duyên vận hành nghĩa là mười một chi phần còn lại 
                cũng vận hành. Điều này nói lên sự dung thông giữa cái "một" và 
                cái "tất cả", vượt ra ngoài khái niệm không gian, thời gian, từ 
                đó có thể khẳng định có sự hiện hữu của các loại thần thông.
                
 
                
                - 
                C) KẾT LUẬN : 
                
 
                
                - 
                1- Mười hai nhân 
                duyên là giáo lý về con người và nói cho đối tượng nghe là con 
                người. Vì con người bị vướng nặng vào vô minh, ái và chấp thủ 
                nên Đức Phật đặc biệt nhấn mạnh đến các chi phần này khi hướng 
                dẫn con người tu tập vì mục đích giải thoát, giác ngộ. 
                
 
                
                - 
                2- Mười hai nhân 
                duyên, hay duyên khởi, không phải là một giáo lý dùng để đối trị 
                chấp ngã hay nhằm giải thích thế giới ; mà đây là sự thật và là 
                một pháp tu tập vì giải thoát thiết thực cho con người. Do vậy, 
                giáo lý này là căn bản của chánh kiến (thứ nhất trong Bát chánh 
                đạo). Nói khác đi, chánh kiến là cái nhìn toàn diện, như thật về 
                các pháp là do duyên sinh. 
 
                
                - 
                3- Vô ngã hay giải 
                thoát, Niết bàn không phải là một trạng thái trống trơn, mà là 
                sự trống rổng 
                ý niệm về một tự ngã thường hằng. Nói cách khác, đó là trạng 
                thái không có mặt vô minh, tham ái và chấp thủ. 
 
                
                - 
                4- Mọi giá trị trong 
                cuộc đời đều mang tính tương đối, bởi cuộc sống là duyên sinh, 
                luôn trôi chảy và không thể nắm bắt. 
 
                
                - 
                5- Hiện hữu hay cuộc 
                sống là hiện hữu của các mối tương quan đa phương giữa con người 
                với con người, giữa con người với môi trường xã hội, môi trường 
                tự nhiên... Khi một cá nhân sống tốt là đang góp phần xây dựng 
                một xã hội tốt đẹp, và ngược lại. Mổi người phải có trách nhiệm 
                với cộng đổng, bởi xây dựng cộng đổng chính là đang bảo vệ cá 
                nhân mình. 
 
                
                - 
                6- Mười hai nhân 
                duyên, hay giáo lý duyên khởi nói chung, là một giáo lý vô cùng 
                tinh tế và khó hiểu, bởi con người vốn đã quen với nếp tư duy 
                hữu ngã từ vô thỉ. Muốn có một nhận thức đúng về giáo lý này đòi 
                hỏi phải có sự quán sát và tư duy thường xuyên về nó. Suy tư và 
                thực tập giáo lý mười hai nhân duyên (theo chiều đoạn diệt), 
                chắc chắn rằng sẽ từng bước mang đến cho hành giả một cuộc sống 
                độ lượng, vị tha, giải thoát và an lạc trong hiện tại. Bởi như 
                lời Phật dạy : "Ai thấy Duyên khởi là thấy  
 
                
                - 
                Pháp, ai thấy Pháp là 
                thấy Phật (Ta)". Thấy Phật là thấy được thực tại tối hậu, vượt 
                ra ngoài mọi ràng buộc của thế giới ngã tính - bị giới hạn bởi 
                vô minh, tham ái và chấp thủ này. 
 
                
                - 
                Chú 
                thích: 
                
                
 
                - 
                (1) Còn gọi là Duyên 
                sinh, Y tha khởi : sự nương tựa vào các yếu tố khác mà sinh 
                khởi, hình thành, hiện hữu ; tùy thuộc phát sinh. 
 
                
                - 
                (2) Diệt trừ, xả bỏ, 
                chuyển hóa (Pàli : uccheda) 
 
                
                - 
                (3) Hình thể (sắc), 
                cảm thọ (thọ), ấn tượng của tri giác (tưởng), ý chí tạo tác 
                (hành), và tri giác hiện hữu (thức). 
 
                
                - 
                (4) Khoảng thời gian 
                rất ngắn giữa 2 biến cố, nhỏ hơn rất nhiều so với đơn vị thời 
                gian là giây (Pàli : khana). 
 
                
                - 
                (5) Thanh tịnh đạo 
                luận (Visuddhimagga) 
 
                
                - 
                CÂU HỎI : 
                
 
                
                - 
                1) Định nghĩa về các 
                chi phần trong mười hai nhân duyên. 
 
                
                - 
                2) Trình bày mối liên 
                hệ và sự vận hành của các chi phần nhân duyên đối với đời sống 
                của con người. 
 
                
                - 
                3) Từ giáo lý mười 
                hai nhân duyên, bạn có suy tư gì về đời sống tu tập của cá nhân?
                
 
                
                   -  
 
                
               
              
             
             | 
   
           
               
       
       |