| 
           
      
  
           
                
            
              
              
                - Thư Viện Chùa Dược Sư
 
                - PHẬT HỌC CƠ BẢN
 
                  
               
              
              
                
                   
                  - Phật 
                  Giáo
 
                  
                
                
                   
                  - Một Nguồn 
                  Hạnh Phúc
 
                  
                
                
                   
                  - Hòa 
                  Thượng Piyadassi
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  Phạm Kim Khánh dịch Việt, Sài gòn 1972
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  --o0o--
 
                  
                
                -  
 
                - 
                
                Vài lời cùng bạn đọc
                
 
                
                - 
                Chúng ta hiện đang 
                sống trong thời đại khoa học - thời đại mà con người có khuynh 
                hướng chỉ chấp nhận điều gì là chơn lý sau khi đã thận trọng 
                quan sát và thí nghiệm, hơn là vì tin tưởng suông. Với những 
                tiến bộ mới đây của khoa học, lối nhìn của con người càng ngày 
                càng trở nên thuần lý, và đức tin mù quáng đã nhanh chóng biến 
                tan. 
 
                
                - 
                Nói chung, khoa học 
                đã phần nào là mối đe dọa đối với tôn giáo. Từ thời Copernicus, 
                Galileo và Bruno (thế kỷ thứ 17), con người đã làm suy giảm ít 
                nhiều ý niệm sai lầm về vũ trụ, sự đe dọa nầy đã trổi lên chống 
                lại nhơn sinh quan và vũ trụ quan của tôn giáo. Học thuyết về sự 
                tiến hóa và về khoa tâm lý của thời hiện đại không trùng hợp với 
                quan niệm đã được chấp nhận của các tôn giáo, về con người và 
                tâm linh, ghi chép trong các "văn phẩm có tánh cách thiêng 
                liêng". 
 
                
                - 
                Phật giáo có chịu 
                chung một số phận với các tôn giáo không? Khoa học hiện đại có 
                nhìn Phật Giáo với cái nhìn bất thân thiện không? Dầu các nhà 
                phê bình Phật Giáo có thể nói như thế nào, người đọc Giáo Pháp 
                nguyên thủy của Đức Phật sẽ nhận định rằng những nguyên tắc căn 
                bản của đạo Phật luôn luôn hòa hợp với các phát minh hiện đại 
                của khoa học. 
 
                
                - 
                "Khi đề cập đến các 
                vấn đề tôn giáo và luân lý, Phật Giáo nhấn mạnh đến tầm quan 
                trọng của lối nhìn khoa học. Những "tín điều" Phật Giáo được cho 
                biết là có thể kiểm nhận. Và lối giải thích bản chất con người 
                và vũ trụủa Phật Giáo hòa hợp với những phát minh khoa học, hơn 
                là có sự khác biệt.... 
 
                
                - 
                "Lẽ dĩ nhiên, trong 
                kinh điển Phật Giáo không có lý thuyết đề cập đến sự tiến hóa 
                sinh lý. Tuy nhiên, con người, xã hội, cũng như thế gian, được 
                mô tả là luôn luôn biến đổi và tiến triển theo định luật nhân 
                sanh quả. 
 
                
                - 
                "Sau đó, về phần tâm 
                lý, chúng ta thấy Phật Giáo xem con người như một đơn vị 
                tâm-vật-lý trong đó phần tâm linh không phải là một linh hồn bất 
                biến mà là một sự trôi chảy liên tục di động gồm tâm thức cùng 
                với tiềm thức chứa đựng những xúc cảm còn tiềm tàng trong ký ức, 
                đi dài trở về thời niên thiếu, cũng như về các kiếp sống quá 
                khứ. Một cái tâm như thế ấy được cho biết là hoạt động do ảnh 
                hưởng của ba loại ái dục - ái dục đeo níu theo nhục dục ngũ trần 
                (kama-tanha), ái dục đeo níu theo sự tự bảo vệ lấy mình 
                (bhava-tanha), và ái dục đeo níu theo sự hoại diệt 
                (vibhava-tanha). Ngoại trừ niềm tin có sự tái sanh, một quan 
                niệm như thế ấy nghe rất tân thời. Và ta không thể không chú ý 
                đến lối so sánh giữa ba loại ái dục của Phật Giáo và quan niệm 
                của Freud về eros, libido, và thanatos". (Dr. K. N. Jayatileke, 
                Religion and Science) 
 
                
                - 
                Ta phải ghi nhận rằng 
                lối sống của Phật Giáo, phương pháp của Phật Giáo để vói tay đến 
                và nắm lấy chơn lý cao thượng nhứt, từ vô minh, thức tỉnh, và 
                đạt đến tri kiến đầy đủ, không tùy thuộc nơi sự phát triển trí 
                thức suông, hay khoa học, mà tuỳ thuộc ở một giáo lý thực tiễn 
                dẫn hàng tín đồ đến giác ngộ và giải thoát. Đức Phật quan tâm 
                đến chúng sanh, sanh linh, hơn là đến các vật vô tri vô giác. 
                Chủ đích duy nhất của Ngài là rọi sáng những bí ẩn của kiếp sinh 
                tồn - cái gì có liên quan đến chúng sanh - và như thế để giải 
                quyết vấn đề trở thành. Và Ngài làm điều nầy bằng cách thấu 
                triệt đầy đủ và tận tường Tứ Diệu Đế⬠những chơn lý vĩnh cửu của 
                đời sống. Sau khi đã thấu đạt, Đức Phật sẵn sàng chia sớt tri 
                kiến ấy cho những ai tìm hiểu biết và không hề cưỡng bách ai. 
                Ngài không bao giờ lôi kéo ai, bởi vì thúc đẩy và lôi kéo là 
                việc làm xa lạ, không có trong phương pháp giáo huấn của đạo 
                Phật. Phật Giáo không đòi hỏi ở tín đồ một đức tin mù quáng. 
                Trong buổi sơ thời, người còn hoài nghi sẽ hoan hỉ được nghe lời 
                kêu gọi, khuyến khích quan sát và suy gẫm. Giáo Huấn của Đức 
                Phật luôn luôn được mở rộng cho tất cả những ai có mắt muốn thấy 
                và có tâm trí muốn hiểu biết. Thay vì khuyến khích hàng thiện 
                tín nhắm mắt tin càng, Đức Phật khuyên dạy họ quán xét giáo huấn 
                của Ngài, và chính lời dạy ấy là lời mời "Hãy đến và thấy" 
                (ehipassiko). Đó là thấy và hiểu biết, chớ không phải mù quáng 
                tin càng. Đức Phật muốn như vậy. 
 
                
                - 
                Hiện nay, người ta 
                đang gia công trong mọi chiều hướng để cải thiện thế gian. Những 
                nhà khoa học theo đuổi các phương pháp và các cuộc thí nghiệm 
                với một lòng nhiệt thành và một ý chí quyết định không hề suy 
                giảm. Những phát minh của thời hiện đại và những tiến bộ của 
                ngành giao thông vận tải đã thành đạt nhiều kết quả kinh ngạc. 
                Tất cả những cải thiện ấy đã đem lại nhiều lợi ích. Tuy nhiên, 
                bản chất thật sự của những lợi ích ấy hoàn toàn thuộc về vật 
                chất, và nằm ở lớp ngoài của đời sống. Nhà khoa học đặt thế gian 
                bề ngoài vào phạm vi hoạt động của mình và hình như hứa hẹn sẽ 
                biến đổi nó thành một cảnh thiên đàng. Nhưng con người chưa kiểm 
                soát được tâm của chính mình, mặc dầu đã thành đạt những bước 
                tiến khá dài về mặt khoa học. Dầu sao, bên trong sự cấu hợp vật 
                chất và tâm linh của con người còn rất nhiều kỳ quan chưa được 
                khai phá, và nhà bác học sẽ còn mất nhiều năm nữa để nghiên cứu 
                tìm tòi. 
 
                
                - 
                Đối với nhà khoa học, 
                hiểu biết là cái gì càng ngày càng thắt chặt con người vào kiếp 
                sinh tồn thiên về nhục dục ngũ trầ và luôn luôn biến đổi này. 
                Như vậy, đó không phải là thứ hiểu biết có khả năng cứu vãn. Với 
                người có lối nhìn thế gian và những gì nằm dưới sự chi phối của 
                thế gian trong bối cảnh thích đáng của nó, mối quan tâm đầu tiên 
                của đời sống ắt không phải là khảo sát suông, hay vô ích du hành 
                sâu vào các thâm cung bí hiểm của trí tưởng tượng cao siêu mà 
                chính là thành đạt cho kỳ được hạnh phúc thật sự và siêu thoát 
                ra khỏi đau khổ và bất toại nguyện (Dukkha). Đối với hạng người 
                này, sự hiểu biết thật sự tùy thuộc ở câu hỏi nồng cốt: Học thức 
                nầy có thích hợp với thực tế không? Nó có giúp được ta chinh 
                phục trạng thái vắng lặng của nội tâm, trạng thái an tịnh, và 
                hạnh phúc thật sự không? 
 
                
                - 
                Những ai không thấu 
                hiểu tầm quan trọng của giới đức, tánh cách cấp bách phải có tác 
                phong trong sạch, và sự cần thiết phải áp dụng tri kiến vào đời 
                sống thì, dưới ánh sáng của Phật Giáo, dầu là bác học hay không, 
                cũng chỉ là những người chưa trưởng thành, những người còn phải 
                vượt qua nhiều rào cản nữa mới thắng được cuộc đua của đời sống 
                và đoạt giải thưởng trường tồn bất diệt của Niết-Bàn, trạng thái 
                châu toàn tối thượng, và vượt ra khỏi mọi trói buộc. 
                
 
                
                - 
                Người muốn học Phật 
                mà không thể đọc nhiều về Đức Phật và Giáo Pháp của Ngài có thể 
                tìm thấy quyển sách nhỏ nầy thích thú và hữu dụng. Những vị 
                khác, thiên về công trình nghiên cứu Phật Giáo sâu rộng và chi 
                tiết hơn có thể đọc quyển "The Buddha's Ancient Path (Con Đường 
                Xa Xưa của Đức Phật)" cùng tác giả, do nhà Rider anh Company, 
                London, xuất bản vào năm 1964. 
 
                
                - 
                
                Đức Phật
                
 
                
                - 
                Đức Phật, người sáng 
                lập tôn giáo to lớn gọi là Phật Giáo, đản sanh ở miền Bắc Ấn-Độ, 
                vào thế kỷ thứ sáu trước D. L. Tên Ngài là Siddhattha (Bắc Phạn 
                là Siddhartha), ta âm là Sĩ-Đạt-Ta hay Tất-Đạt-Đa. Gotama, hay 
                Gautama (Cồ-Đàm) là tên tộc Ngài. Đức phụ hoàng, Suddhodana 
                (Tịnh Phạn), trị vì toàn thể lãnh thổ của dòng Sakya (Thích-Ca) 
                tại Kapilavatthu (Ca-Tỳ-La-VệA), vùng ranh giới Nepal. Mahamaya 
                (Ma-Ha Ma-Da), công chúa của hoàng tộc Koliya, là hoàng hậu của 
                vua Tịnh-Phạn. Bà chỉ hạ sanh một hoàng nam duy nhất là Thái Tử 
                Sĩ-Đạt-Ta trong vườn Lâm-Tỳ-Ni (Lumbini), ngày nay là Rummindei, 
                nằm vào khoảng một trăm dặm Anh, phía Bắc Varanasi (Benares). Từ 
                nơi này ta có thể nhìn thấy đỉnh núi Hi-Mã-Lạp-Sơn (Himalaya) 
                phía xa, phủ đầy tuyết trắng. Tại địa điểm lịch sử này - nơi đản 
                sanh của hoàng tử, vị Phật tương lai - và sau diễn biến hi hữu 
                này, đức Hoàng Đế A-Dục (Asoka) của xứ Ấn Độ có kiến tạo một 
                thạch trụ hùng vĩ, đến nay vẫn còn. 
 
                
                - 
                Năm dòng chữ, gồm 
                chín mươi ba mẫu tự Brahmi, loại chữ thông dụng vào triều đại 
                A-Dục đã được ghi tạc vào trụ đá. Trong những dòng chữ này có 
                câu: "Hida Budhe Jate Sakyamuni", "Đây là nơi đản sanh của Đức 
                Phật, bậc hiền thánh dòng Thích-Ca". 
 
                
                - 
                Theo phong tục thời 
                bấy giờ, lúc mười sáu tuổi hoàng tử kết duyên cùng một công chúa 
                xinh đẹp cùng tuổi, tên Yasodhara (Da-Du-Đà-La). Ngài có tất cả 
                những gì tốt đẹp trong đời và không hề biết thiếu thốn hay phiền 
                não. Tuy nhiên, càng trưởng thành, càng thuần thục, hoàng tử 
                thoáng nhìn thấy nỗi khổ đau của thế gian. Càng tiếp xúc với đời 
                sống bên ngoài những bức tường của cung điện. Ngài càng nhận 
                định rõ ràng thật không thể tìm ra chơn hạnh phúc trong thế gian 
                này. 
 
                
                - 
                Rồi đến khi lên hai 
                mươi chín, giữa lúc xuân xanh như hoa gấm của thời niên thiếu, 
                Ngài từ giã đền đài cung điện ngay trong ngày công chúa 
                Da-Du-Đà-la (Yasodhara) hạ sanh người con trai duy nhất, Rahula 
                (La-Hầu-La). 
 
                
                - 
                Từ bỏ ngai vàng cùng 
                với bao nhiêu hứa hẹn và quyền lực và vinh quang, Ngài rút vào 
                ẩn dật đơn độc ở chốn rừng sâu vắng vẻ để khép mình vào nếp sống 
                của hàng tu sĩ và tìm một giải đáp cho bài toán phức tạp của đời 
                sống. Và mục đích cuối cùng của Ngài là thoát ra khỏi mọi trói 
                buộc, đạt đến mức châu toàn tối thượng, Niết-Bàn. Đây là một 
                khước từ vĩ đại. 
 
                
                - 
                Tự dấn thân vào nhiệm 
                vụ vô cùng cao cả, cố tìm ra phương thuốc cứu chữa chứng bịnh 
                phổ thông của đời sống. Ngài đi đó đây trong thung lũng của sông 
                Hằng (Ganges) 
                và tự đặt mình dưới sự hưóng dẫn của những đạo sư trứ danh thời 
                bấy giờ, ước mong rằng các thiền sư lỗi lạc này sẽ vạch ra cho 
                Ngài con đường giải thoát. Tuy nhiên, trình độ hiểu biết và mức 
                độ chứng ngộ của các vị này không thể đem lại những gì mong mỏi, 
                Ngài không thể thỏa mãn được với bất luận thành đạt nào mà không 
                đưa đến giác ngộ tối thượng. Rồi giã từ, Ngài lại ra đi, cố tìm 
                cái chưa từng được biết. Năm vị đạo sĩ khác lấy làm khâm phục 
                đức hạnh của Ngài cũng cùng đi theo, đồng tu với Ngài. 
                
 
                
                - 
                Ở Ấn Độ thuở bấy giờ, 
                và đến nay vẫn còn, có nhiều đạo sĩ tin tưởng mãnh liệt rằng 
                muốn thanh lọc thân tâm và thoát ra khỏi mọi phiền não của đời 
                sống, không có cách nào khác hơn là ép xác khổ hạnh, và đạo sĩ 
                Cồ-Đàm quyết định trắc nghiệm chơn lý này. Ngài bắt đầu cuộc đấu 
                tranh quyết liệt để khắc phục thân xác, với lòng ước mong rằng, 
                một khi thoát ly ra ngoài những chao động của thể xác, tâm có 
                thể vượt đến trình độ cao siêu của sự giải thoát. Ngài cố gắng 
                đến mức cùng tột. Chỉ ăn lá và rễ cây để sống, va thâu gọn vật 
                thực đến mức tối thiểu, Ngài đắp y may bằng giẻ rách lượm ở các 
                đống rác, và ngủ trên giường gai, giữa đám tử thi. Trạng thái 
                thiếu thốn vật thực quá ư khắc nghiệt sớm biến Ngài thành một 
                người chỉ còn xương với da. 
 
                
                - 
                "Ta đã sống khắc khổ 
                trong nếp kỷ cương của người tu ép xác. Ta sống khắc khổ hơn tất 
                cả các đạo sĩ khác. Tay chơn ta cung như cọng sậy úa tàn, bỏ 
                đi..." -- (Trung A-Hàm, bài kinh số 36).
 
                - 
                Ngài mô tả mức độ khổ 
                hạnh kinh hoàng của những năm tháng đầu tiên như thế ấy, sau khi 
                đắc quả Chánh Đẳng Chánh Giác. 
 
                
                - 
                Sau sáu năm trường 
                chiến đấu cam go như thế, Ngài đã đến tận ngưỡng cửa của thần 
                chết, nhưng không nhờ thế mà được gần mục tiêu hơn chút nào. 
                Chính bản thân Ngài đã kinh nghiệm rằng lối tu khổ hạnh khắt khe 
                quả thật rõ ràng vô ích. Cuộc trắc nghiệm của Ngài đã thất bại. 
                Tuy nhiên, tâm của Ngài không hư hoại mà vẫn hoạt động tích cực 
                để tìm một lối đi mới, hầu đến mục tiêu hằng khao khát. Ngài 
                biết rằng với thể xác hao mòn và tiều tụy đến mức ấy, dầu có 
                theo con đường nào chăng nữa cũng không thể hi vọng thành công. 
                Do đó, đạo sĩ Cồ-Đàm từ bỏ lối tu khắc khổ và nhịn ăn uống đến 
                mức cùng cực. Ngài bắt đầu ăn uống chút ít. Tấm thân gầy còm của 
                Ngài dần dần bình phục và sức khoẻ vô cùng yếu kém cũng sớm phục 
                hồi. Bấy giờ đến lượt năm đạo sĩ đồng tu với Ngài rất thất vọng 
                về quyết định này của Ngài vì các vị ấy lầm tưởng rằng Ngài đã 
                từ bỏ các cố gắng, để trở về nếp sống dồi dào phong phú như xưa.
                
 
                
                - 
                Tuy nhiên, với tâm 
                quyết định vững chắc, đặt niềm tin trọn vẹn nơi trạng thái trong 
                sạch và năng lực của chính Ngài, không có sự hỗ trợ của một vị 
                đạo sư nào, không đồng tu với bất luận ai, đơn độc một mình, Đức 
                Bồ Tát cương quyết thành đạt mục tiêu cuối cùng trong khung cảnh 
                hoàn toàn cô đơn tịch mịch. Ngồi tréo chơn dưới một cội cây mà 
                sau này được gọi là "Bồ đề", cây giác ngộ, bên bờ sông Neranjara 
                (Ni-Liên-Thiền), tại Gaya (nay là Buddha-Gaya, Bồ đề Đạo Tràng), 
                một địa điểm "hữu tình, làm mát dịu giác quan và kích thích tâm 
                trí". Rồi, nhứt định tập trung mọi nỗ lực cuối cùng, quyết không 
                mảy may chùng bước. 
 
                
                - 
                "Dầu chỉ còn lại da, 
                gân, và xương, máu và thịt đã khô cạn và tan mất, ta sẽ không xê 
                dịch khỏi nơi nầy cho đến ngày chứng ngộ quả Toàn Giác".
 
                - 
                Cố gắng không biết 
                mệt, nhiệt thành không thối chuyển, Ngài quyết chí chứng ngộ 
                Chơn Lý và thành đạt đạo quả Chánh Đẳng Chánh Giác. 
 
                
                - 
                Đức Bồ-Tát bắt đầu 
                chăm chú vào "hơi thở ra - thở vào ', niệm sổ tư'c quan 
                (anapanasati), nhập và an định trong bốn tầng Thiền, từ Sơ Thiền 
                đến Tứ Thiền. 
 
                
                - 
                Trong khi ngồi tham 
                thiền như thế Ngài chứng ngộ thực tướng của Bốn Chơn Lý Cao 
                Thượng (Tứ Diệu Đế): 1.- Đây là khổ, hay bất toại nguyện 
                (Dukkha). 2.- Đây là sự phát sanh cuả trạng thái khổ. 3.- Đây là 
                sự chấm dứt của trạng thái khổ. 4.- Đây là con đường dẫn đến sự 
                chấm dứt trạng thái khổ. Ngài thấu đạt đúng như thật: đây là 
                những ô nhiễm, những hoặc lậu (asavas), đây là sự phát sanh 
                những ô nhiễm, đây là sự chấm dứt những ô nhiễm, đây là con 
                đường dẫn đến sự chấm dứt những ô nhiễm. 
 
                
                - 
                Đến đây Ngài thốt ra 
                những lời của người chiến thắng: 
 
                
                - 
                "... Tri kiến và nhãn 
                quan đã phát sanh đến ta. Tâm siêu thoát của ta không thể lay 
                chuyển. Đây là kiếp sống cuối cùng của ta. Từ đây ta sẽ không 
                còn trở thành, không còn tái sanh." -- (Trung A-Hàm số 26).
 
                - 
                Vậy, trong ngày trăng 
                tròn tháng Năm D.L., Đức Bồ Tát Cồ-Đàm đắc quả Vô Thượng, Chánh 
                Đẳng Chánh Giác, bằng cách thấu đạt trọn vẹn và đầy đủ Bốn Chơn 
                Lý Cao Quí (Tứ Diệu Đế), những chơn lý vĩnh cửu, và trở thành 
                Đức Phật, bậc Toàn Giác. Lúc ấy Ngài ba mươi lăm tuổi. 
                
 
                
                - 
                Hai tháng sau ngày 
                thành đạo, Đức Phật quyết định hoằng dương Giáo Pháp (Dhamma), 
                những chơn lý mà Ngài đã chứng ngộ, đến năm vị đạo sĩ trước kia 
                đồng tu với Ngài. Được biết rằng lúc bấy giờ năm vị ấy đang ở 
                tại Varanasi (Benares), nơi vườn Lộc Uyển, trong Isipatana (hiện 
                là Sarnath) và đang ép mình sống đời khổ hạnh vô cùng khắc khe. 
                Ngài liền rời Đạo Tràng (Gaya), đi từng nhiều chặn, đoạn đường 
                dài 150 dậm Anh đến Thánh địa này. Đến đây Ngài gặp năm đạo sĩ 
                trong vườn Lộc Uyển. 
 
                
                - 
                Trong ngày trăng tròn 
                tháng bảy D.L., vào buổi hoàng hôn, khí mặt trăng bắt đầu ló 
                dạng giữa bầu trời ấm áp của phương Đông thì Đức Bổn Sư truyền 
                dạy năm đạo sĩ như sau: 
 
                
                - 
                "Này chư Tỳ-Khưu, có 
                hai cực đoan mà hàng xuất gia phải tránh. Hai cực đoan ấy là gì? 
                Một đàng là dể duôi trong cực lạc, và đàng khác là thiết tha gắn 
                bó trong lối tu khổ hạnh. Cả hai đều thấp hèn, không xứng phẩm 
                hạnh của bậc Thánh, Nhơn và không dẫn đến giải thoát. Từ bỏ cả 
                hai cực đoạn ấy, Như-Lai đã chứng ngộ con đường Trung Đạo, đem 
                lại nhãn quan và tri kiến và đưa đến an tịnh, trí tuệ cao siêu, 
                giác ngộ và Niết Bàn. Và, này chư Tỳ-Khưu, con đường Trung Đạo 
                là gì? Chính là Bát Chánh Đạo: Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh 
                Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh 
                Định".
 
                - 
                Như thế, Đức Thế Tôn 
                đã công bố Giáo Pháp và vận chuyển "Bánh xe Giáo Pháp" vô song 
                (Anuttaram dhammacakkam). 
 
                
                - 
                Đến khi số người xuất 
                gia theo Ngài lên đến sáu mươi, Đức Phật ngỏ lời với các vị ấy 
                như sau: 
 
                
                - 
                "Hãy ra đi, rày đây 
                mai đó, vì sự an lành và hạnh phúc của chư thiên và nhân loại, 
                vì lòng bí mẫn đối với thế gian. Mỗi người hãy đi một ngã. Hai 
                người không cùng đi về một hướng. Hãy hoằng dương Giáo Pháp, 
                toàn hảo ở đoạn đầu, toàn hảo trong phần khai triển, và toàn hảo 
                ở đoạn cuối, toàn hảo trong cả hai, tinh thần và văn tự...". -- 
                (Tạng Luật I trang 10 - Tạp A-Hàm câu 420).
 
                - 
                Và như thế, Đức Phật 
                bắt đầu sứ mạng cao cả của Ngài. Sứ mạng này sẽ liên tục kéo dài 
                đến khi Ngài xuất thế. Cùng với chư vị đệ tử, Ngài đi trên các 
                đường lớn và các nẻo nhỏ của xứ Ấn, bủa rộng vong hào quang từ 
                bi và trí tuệ vô lượng vô biên của Ngài bao trùm tất cả. 
                
 
                
                - 
                Trên đường hoằng 
                Pháp, Đức Phật không bao giờ có sự phân biệt nào về chủng tộc, 
                đẳng cấp hay giai cấp. Nam, phụ, lão, ấu, từ những tầng lớp rất 
                khác nhau trong xã hội - người bần cùng, thiếu kém, kẻ thấp hèn, 
                người lạc lõng, học thức cùng đinh, bậc hoàng tử, và lớp người 
                nghèo nàn đói rách - đều lắng tai nghe lời Ngài chỉ giáo về con 
                đường an tịnh và giác ngộ. 
 
                
                - 
                Đức Phật chấp nhận 
                vào Giáo Hội những người từ mọi giai cấp và đẳng cấp mà không có 
                sự phân biệt nào, mỗi khi Ngài biết rằng các vị này xứng đáng 
                sống đời thiêng liêng đạo hạnh. Về sau, vài vị trong nhóm này đã 
                trở nên lỗi lạc. Vào thời bấy giờ, Đức Phật là vị giáo chủ duy 
                nhứt gia công hàn gắn và pha trộn lẫn nhau trong tinh thần tương 
                thân đoàn kết và nhân nhượng khoan dung những người mà trước kia 
                giai cấp và đẳng cấp xã hội đã làm xa cách. Đức Phật cũng nâng 
                cao quy chế hàng phụ nữ ở Ấn và đối xử với hạng nữ lưu một cách 
                thanh nhã và xứng đáng. Ngài cũng chỉ dạy cho nữ giới con đường 
                dẫn đến an tịnh, trong sạch và siêu thoát. 
 
                
                - 
                Việc làm của Đức Phật 
                luôn luôn phù hợp với giáo huấn mà Ngài truyền dạy. Vì lẽ ấy, 
                hành động của Ngài luôn luôn đượm nhuần tánh chất Từ, Bi, Hỷ, Xả 
                vô lượng vô biên. 
 
                
                - 
                Đức Phật không khi 
                nào khuyến khích gây gỗ, tranh chấp, hay thù hạn oán ghét nhau. 
                Có lần Ngài dạy các vị đệ tử: 
 
                
                - 
                "Như Lai không cải vả 
                với thế gian, này chư Tỳ-Khưu, chính thế gian cãi vã với Như 
                Lai. Một người truyền bá Giáo Pháp không khi nào cải vã với bất 
                luận ai trong thế gian".
 
                - 
                "Không bao giờ có 
                trường hợp Đức Phật nổi giận. Không bao giờ có cơ hội để một lời 
                nói kèm từ bi thoát ra từ miệng Ngài". Ngài Radhakrishnan nói 
                như thế. 
 
                
                - 
                Sau bốn mươi lăm năm 
                hoằng dương Giáo Pháp một cách rất vẻ vang, Đức Phật nhập 
                Niết-Bàn vào lúc tuổi thọ được tám mươi, tại Kusinara 
                (Câu-Thi-La-Nại, hiện nay là Uttara Pradesh, vào khoảng 120 dặm 
                Anh Đông Bắc Varanasi). 
 
                
                - 
                Di huấn tối hậu của 
                Ngài là: 
 
                
                - 
                "Tất cả các pháp hữu 
                vi đều có đặc tánh luôn luôn biến đổi. Hãy tinh tấn chuyên cần". 
                -- (Trường A-Hàm - Kinh Đại Niết Bàn số 16).
 
                - 
                Mặc dầu chỉ bắt đầu 
                với sáu mươi vị, Giáo Hội Tăng Già - đoàn thể các đệ tử của Đức 
                Phật - dần dần nới rộng đến hàng ngàn và do số tỳ-khưu tăng 
                trưởng, chùa chiền đã được kiến tạo, và về sau, các Đại Học được 
                mở, như Nalanda và Vikramashilà, trở thành những trung tâm văn 
                hóa có ảnh hưởng đến toàn thể Á Châu, và xuyên qua văn hóa Á 
                Châu, đến đời sống tâm linh của nhơn loại. 
 
                
                - 
                Phật Giáo đã thâm 
                nhập vào nhiều quốc gia, và ngày nay là tôn giáo của trên sáu 
                trăm triệu người, hơn một phần năm dân số của toàn thể thế giới. 
                Hiện nay Phật Giáo đã được thiết lập tại Tích Lan, Miến Điện, 
                Cam-Bốt, Lào, Việt Nam, Nepal, Tây Tạng, Trung Quốc, Nhựt Bổn, 
                Mông Cổ, Cao-Ly, Đài Loan, một vài nơi ở Ấn Độ, Chittagong ở Hồi 
                Quốc, Mã-Lai-Á và một vài nơi ở Nam-Dương. Nhiều quốc gia phương 
                Tây cũng có thể được thêm vào bảng nầy, với những Giáo Hội 
                Tăng-Già Phật Giáo mới thành lập. 
 
                
                - 
                
                Vài Đặc Điểm của Đức Phật.
                
 
                
                - 
                Đặc điểm nổi bật 
                nhứt, làm cho Đức Phật khác hẳn tất cả các vị giáo chủ khác là 
                Ngài chỉ là một con người, không có liên quan gì đến Thần Linh 
                hay đấng Tối Cao nào. Ngài không phải Thần Linh, không phải hiện 
                thân của Thần Linh, cũng không phải hiện thân của bất luận nhơn 
                vật thần thoại nào. Ngài là người, nhưng là một người siêu nhơn, 
                một người phi thường (acchariya manussa). Bên trong, Ngài vượt 
                hẳn lên khỏi trạng thái người, mặc dầu bề ngoài Ngài có một đời 
                sống như tất cả mọi người. Vì lẽ ấy, người ta tôn Ngài là chúng 
                sanh Duy Nhứt, một nhơn vật hi hữu (purisuttama), một vị Phật, 
                một đấng Toàn Giác. 
 
                
                - 
                Do hạnh tinh tấn 
                chuyên cần của chính Ngài, không có sự hổ trợ của một vị thầy 
                nào, dầu ở cảnh Trời hay cảnh người, Đức Phật thành tựu viên mãn 
                trình độ trí thức và tinh thần cao siêu nhứt, đã đến mức thanh 
                tịnh tuyệt đỉnh và toàn hảo trong những phẩm hạnh cao quí nhứt 
                của bẩm tánh con người. Ngài là hiện thân của bi mẫn và trí tuệ 
                (karuna và panna) và hai đặc tánh này là phương châm lãnh đạo 
                trong Giáo Pháp của Ngài. 
 
                
                - 
                Do kinh nghiệm bản 
                thân, Đức Phật thấu đạt khả năng vĩ đại của con người. Không bao 
                giờ Ngài tự xưng là cứu tinh và không bao giờ Ngài cố gắng cứu 
                rỗi những "linh hồn" bằng một tôn giáo thần khải. Xuyên qua hạnh 
                tinh tấn kiên trì và trí tuệ tuyệt đỉnh của Ngài, Đức Phật chứng 
                tỏ rằng bên trong mỗi người đều có tiềm tàng những khả năng vô 
                cùng tận, và chính con người phải cố gắng và phát huy và khai 
                triển các khả năng vĩ đại ấy. Do kinh nghiệm của chính bản thân 
                Ngài, Đức Phật chứng minh rằng khả năng giác ngộ và siêu thoát 
                nằm hoàn toàn và trọn vẹn trong tay của con người, Đức Phật là 
                một nhà truyền giáo chủ trương đời sống chuyên cần tinh tấn. 
                Bằng những lời rõ ràng, minh bạch, và bằng gương lành trong 
                sạch, Ngài khuyến khích những ai theo chơn Ngài hãy trau dồi đức 
                hạnh, hãy tự tin, tự nương tựa nơi chính mình mà không nên ỷ lại 
                nơi ai khác. 
 
                
                - 
                Cũng chính Đức Phật 
                là người đầu tiên trong lịch sử nhơn loại dạy rằng con người có 
                thể thành đạt sự giải thoát của chính mình mà không cần một tha 
                lực nào từ bên ngoài, rằng để thoát ra khỏi mọi đau khổ, mọi 
                nghịch cảnh, hay bất toại nguyện, của đời sống, con người phải 
                tự đặt mình lên hòn đe rồi, bằng hành động của chính mình tự 
                mình uốn nắn mình. Đức Phật hằng khuyên nhủ hàng môn đệ không 
                nên trao gánh nặng của mình lại cho ai hay cho một tha lực nào ở 
                bên ngoài (một đấng Cứu Thế, một thần linh, hay một đấng Brahma 
                - Phạm Thiên). Ngài hướng các đệ tử vào con đường phân biện, 
                phân giải, nghiên cứu, và thúc giục các vị ấy nên chuyên chú vào 
                nhiệm vụ thực tiễn là phát triển những năng lực và đức độ bên 
                trong mình. Ngài dạy: 
 
                
                - 
                "Như Lai chỉ dạy các 
                con về con đường giải thoát qua Giáo Pháp và Chơn Lý. Mỗi người 
                phải tự mình chứng ngộ cho mình". -- (Trung A-Hàm số 38).
 
                - 
                Các bậc Toàn Giác, 
                những người đã thấy Chơn Lý, là những người thật sự có thể giúp 
                ta. Nhưng người Phật tử không van ái cầu nguyện các Ngài. Người 
                Phật tử chỉ tôn trọng bậc khả kính đã khám phá ra Chơn Lý và đã 
                chỉ dẫn con đường đưa đến hạnh phúc thật sự và giải thoát hoàn 
                toàn. Và giải thoát là cái gì mà mỗi người phải tự mình đạt lấy 
                cho mình. 
 
                
                - 
                Không ai có thể ban 
                bố giải thoát cho người khác vì người ấy chỉ làm có một việc là 
                van vái, nguyện cầu mình. Một cách gián tiếp, ngưòi khác có thể 
                đưa đến ta một cánh tay hỗ trợ. Nhưng trạng thái siêu thoát cao 
                thượng nhứt chỉ có thể thành đạt bằng cách tự mình chứng ngộ 
                Chơn Lý, tự mình giác tỉnh. Và tự chứng ngộ chỉ có thể đến với 
                ai không còn phải suy tư về những vấn đề của mình, không còn trở 
                ngại, hay gai chướng. Mỗi cá nhơn phải tự mình cố gắng thích ứng 
                và phá tan những xiềng xích đã giữ mình vào vòng trói buộc, 
                thành đạt sự siêu thoát ra khỏi mọi thằng thúc của kiếp sinh tồn 
                bằng kiên trì, tinh tấn và minh sát, chớ không phải bằng van 
                vái, nguyện cầu, hay những lời thỉnh nguyện hướng về một đấng 
                Tối Cao. 
 
                
                - 
                "Chính con người phải 
                tự mình quyết định kiên trì nổ lực, vươn lên, và mở đường đến 
                tận cánh cổng đưa vào tự do. Và, bất luận lúc nào, con người 
                luôn luôn có đủ khả năng để làm việc ấy. Cánh cổng không bao giờ 
                đóng lại. Chìa khoá cũng không bao giờ nằm trong tay ai khác mà 
                ta phải van vái nguyện cầu để được ban bố. Cánh cửa không bao 
                giờ gài, đóng, hay khóa, trừ phi chính con người đã gài, đóng, 
                và khóa nó lại".
 
                - 
                Các nhà sư Phật Giáo 
                không phải là những giáo sĩ có quyền năng ban hành các nghi thức 
                lễ bái hay cúng tế, không thể làm phép rửa tội. Nhà sư Phật Giáo 
                không thể và không phải là trung gian giữa người và những "năng 
                lực siêu nhiên", bởi vì giáo lý của nhà Phật dạy rằng mỗi người, 
                mỗi cá nhơn - dầu tu sĩ hay cư sĩ - chỉ có thể chịu trách nhiệm 
                cho sự giải thoát của riêng mình. Do đó, không cần phải van vái 
                cầu xin ân huệ của một giáo sĩ trung gian nào. 
 
                
                - 
                "Chính các con phải 
                chuyên cần tinh tấn, Chư Phật chỉ là những người vạch ra con 
                đường" -- (Kinh Pháp Cu,?226;u 276).
 
                - 
                Đường ấy là con đường 
                xa xưa từ bao giờ, con đường mà các bậc Toàn Giác của mọi thời 
                đại đã trải qua và đã rọi sáng cho thế gian. Đó là Bát Chánh 
                Đạo, dẫn đến Giác Ngộ, và trạng thái châu toàn cao thượng nhứt - 
                Niết Bàn. 
 
                
                - 
                Một đặc điểm lỗi lạc 
                khác của Đức Phật là không bao giờ Ngài dành riêng cho Ngài 
                trạng thái giác ngộ tối thượng. Đối với Đức Phật, rõ ràng không 
                thể quan niệm được một ý tưởng tương tợ. Trạng thái giác ngộ 
                toàn hảo, sự khám phát và chứng ngộ Tứ Diệu Đế, không phải là 
                đặc ân riêng cho một người nào đã được chọn sẵn từ đâu trên một 
                cảnh Trời, mà cũng không phải là diễn biến duy nhứt, chỉ xảy ra 
                một lần, không thể lập lại trong lịch sử nhơn loại. Đây là sự 
                thành tựu nằm trong phạm vi khả năng của tất cả mỗi ai kiên trì 
                cố gắng để đạt đến trạng thái thanh tịnh toàn hảo, trí tuệ thật 
                sự cao siêu, và có một ý chí sắt đá để trau dồi tròn đủ Bát 
                Chánh Đạo. 
 
                
                - 
                Trong khi truyền bá 
                Giáo Pháp, Đức Phật không bao giờ có bất luận sự phân biệt nào 
                giữa hàng đệ tử, bởi vì không bao giờ có sự thiên vị, không bao 
                giờ Ngài chọn riêng vị đệ tử nào để ban ân huệ, và trước khi 
                nhập diệt Ngài cũng không giao phó cho riêng vị nào nhiệm vụ bảo 
                tồn đạo giáo, cũng không chỉ định vị nào để kế vị Ngài. Về điểm 
                nầy, ta nên ghi nhận rằng trước khi xuất thế, Đức Phật minh định 
                rõ ràng không bao giờ Ngài có ý kiểm soát Giáo Hội Tăng-Già, 
                đoàn thể tu sĩ mà Ngài thành lập. Ngõ lời cùng đông đảo chư môn 
                đệ, lúc ấy tụ tập quanh Ngài trước giờ Đại Niết-Bàn, đức Phật 
                dạy: 
 
                
                - 
                "Giáo Pháp và Giới 
                Luật (Dhamma và Vinaya) mà Như-Lai thiết lập và ban hành cho các 
                con, sau khi Như-Lai ra đi, các con hãy xem Giáo Pháp và Giới 
                Luật ấy là Thầy. -- (Trường A-Hàm số 16).
 
                - 
                Lúc Đức Phật còn tại 
                thế cũng vậy, chính Giáo Pháp và Giới Luật kiểm soát và hướng 
                dẫn các tỳ-khưu. Ngài không có ban hành những điều răn cắm. Bát 
                Chánh Đạo - chính là Phật-Giáo thực hành - là một giáo lý cho 
                người tự do. 
 
                
                - 
                Giáo huấn của Đức 
                Phật khuyến khích những ý niệm và những cơ cấu dân chủ. Mặc dầu 
                Đức Phật sáng suốt cố tránh, không nhúng tay vào chánh quyền, 
                Giáo Hội Tăng-Già mà Ngài thành lập có tách cách hoàn toàn dân 
                chủ. 
 
                
                - 
                "Nhiều người lấy làm 
                ngạc nhiên mà được biết rằng trong giáo đoàn Phật Tử Ấn Độ, hơn 
                hai ngàn năm trăm năm về trước, đã có những căn bản nồng cốt cho 
                Quốc Hội chúng ta ngày nay". Hầu Tước Setland, nguyên Phó Vương 
                tại Ấn Độ nói như vậy. 
 
                
                - 
                Những qui tắc mà Đức 
                Phật đã căn cứ vào đó để thành lập Tăng đoàn, chí đến nay, trong 
                các quốc gia Phật Giáo, các tu sĩ thành viên của Tăng đoàn vẫn 
                còn theo nguyên vẹn. Cũng như Hầu Tước Setland nói trên: "Ông 
                Chủ Tịch", "Ông Trưởng Khối", "Túc số", "Lá thăm", "Phương thức 
                biểu quyết sau khi đọc", "Phương thức thảo luận", "Chương trình 
                nghị sự", tất cả những hình thức ấy vẫn còn được tiếp tục áp 
                dụng trong các buổi họp của Tăng đoàn, ngày nay cũng như thuở 
                nào. Chí đến ý niệm về phương thức ủy quyền bầu cử ngày nay cũng 
                đã có ghi trong Tạng Luật. 
 
                
                - 
                Một đặc điểm khác của 
                Đức Phật là phương pháp truyền bá Giáo Lý. Ngài nhứt định không 
                chấp nhận lối giáo huấn bao gồm "mật nghĩa"."Mặt nghĩa là dấu 
                hiệu của một giáo lý giả mạo". Chính là lời của Đức Phật.
                
 
                
                - 
                "Giáo Pháp mà Đức Như 
                Lai bậc Toàn Giác, đã công bố rạng tỏ khi được trình bày chớ 
                không phải lúc đem giấu". -- (Tăng Nhứt A-Hàm, I).
 
                - 
                Với Đức Ananda vị đệ 
                tử thân tín, Ngài tỏ bày như sau: 
 
                
                - 
                "Này Ananda, Như Lai 
                đã truyền dạy Giáo Pháp mà không có sự phân biệt nào giữa giáo 
                lý công truyền và giáo lý bí truyền. Vì tôn trọng Chơn Lý, này 
                Ananda, Như Lai không bao giờ có bàn tay nắm lại của ông thầy 
                còn giữ lại một vài bí ẩn chánh yếu, không truyền hết cho học 
                trò".
 
                - 
                Đức Phật công bố Giáo 
                Pháp một cách tự do, đồng đều cho tất cả mọi người, và không bao 
                giờ muốn giữ lại điều gì, không bao giờ Ngài làm điều gì để ép 
                buộc hàng đệ tử phải có đức tin mù quáng hay một thái độ quì lụy 
                đầu hàng nơi giáo lý, hay nơi chính Ngài. Đức Phật hằng nhấn 
                mạnh điểm cần phải có tinh thần quan sát, phân giải, và thận 
                trọng dò xét. Trong một bài kinh được gọi rất đúng là: "Hiến 
                Chương của Tự Do Tư Tưởng" (Anguttara 1-188-Sutta 65), bằng 
                những ngôn tử không hề lầm lẫn, Ngài khuyến khích những người 
                Kalama muốn tìm hiểu, nên sáng suốt dò xét và thận trọng suy tư 
                trước khi chấp nhận điều gì là chơn lý. 
 
                
                - 
                Tinh thần Phật Giáo 
                không phải là chấp nhận tất cả những gì được đề cập đến. Ta có 
                thể thấy được phần nào tinh thần tự do tư tưởng ấy qua cuộc đối 
                thoại giữa Đức Thế Tôn và các đệ tử Ngài: 
 
                
                - 
                - Nếu bây giờ, biết 
                điều này, và chấp giữ điều này, các con nói: "Chúng ta tôn sùng 
                Đức Bổn Sư, và vì tôn kính Ngài chúng ta phải tôn kính những gì 
                Ngài dạy". Các con có nói vậy không?
                
 
                
                - 
                - Bạch Đức Thế Tôn, 
                không
                
 
                
                - 
                - Này chư đệ tử, có 
                phải các con chỉ chấp nhận những gì mà chính các con đã nhận 
                định, thấy, và nắm vững?
                
 
                
                - 
                - Bạch hóa Đức Thế 
                Tôn, đúng như thế -- (Trung A-Hàm số 17).
 
                - 
                Và đúng theo thái độ 
                chơn chánh của người đi tìm chơn lý, trong một bản khải luận 
                Phật Giáo có câu: 
 
                
                - 
                "Như người khôn ngoan 
                sáng suốt thử vàng bằng cách đem ra đốt, và cà trên viên đá để 
                thử vàng, cùng thế ấy, các con chỉ nên chấp nhận những lời của 
                Như Lai sau khi đã nghiền ngẫm suy tư, chớ không phải vì tôn 
                kính Như Lai". -- (Jnanasara - Samuccaya - 31)
 
                - 
                
                Giáo Lý của Đức Phật.
                
 
                
                - 
                Giáo Lý của Đức Phật 
                được gọi là Phật Giáo. Vài người thích xem đó là một tôn giáo, 
                vài người khác, là một triết lý. Cũng có người nghĩ rằng giáo 
                huấn ấy bao gồm cả hai phương diện, triết lý và tôn giáo. Tuy 
                nhiên, đúng hơn, có lẽ ta nên xem đó là một "Lối sống". Nói vậy 
                không có nghĩa rằng Phật Giáo chỉ là một qui luật đạo đức, ngoài 
                ra không còn gì khác. Không phải vậy. Phật Giáo là một phương 
                thức tu tập có tánh cách luân lý, trí thức, và tinh thần, có khả 
                năng dẫn tâm đến trạng thái siêu thoát. Chính Đức Phật gọi giáo 
                lý của Ngài là "Dhamma-Vinaya", Giáo Pháp và Giới Luật. 
                
 
                
                - 
                Những ai thích xem 
                Phật Giáo như một tôn giáo nên ghi nhận rằng trong Phật Giáo 
                không có "Hành động hay đức hạnh cho thấy niềm tin nơi, lòng tôn 
                sùng hướng về, và ý muốn làm vừa lòng, một oai lực thần thánh 
                trị vì con người" cũng không có sự thực hành các nghi lễ sùng 
                bái bao hàm ý nghĩa... nhìn nhận oai lực vô hình nào có quyền 
                kiểm soát số phận con người và, vì lẽ đó, con người phải vâng 
                lời, phải tôn kính và sùng bái. (The Shorter Oxford English 
                Dictionnary, 1965). 
 
                
                - 
                Đức Phật chỉ là người 
                vạch ra con đường và hướng dẫn những ai vui lòng đi theo con 
                đường ấy đến nơi giải thoát riêng rẽ của cá nhơn mình. Người 
                Phật Tử xin quy y Phật (Buddham saranam gacchami), xin nương tựa 
                nơi Đức Phật, nhưng làm vậy không phải để được Đức Tôn Sư cứu 
                vãn. Dài theo con đường xa xôi diệu vợi, những tấm bảng bên lề 
                chỉ lối đi cho khách lữ hành nhưng chính người đi đường phải tự 
                mình trông chừng từng bước tiến của mình trải qua suốt cuộc hành 
                trình. Bảng chỉ đường chắc chắn sẽ không chở khách đem đến nơi 
                mong mỏi. 
 
                
                - 
                Lương y chẩn mạch và 
                kê toa. Nhưng chính bịnh nhơn phải tự mình trắc nghiệm xem thuốc 
                có công hiệu không. Đối với hàng tín đồ, Đức Phật chỉ có thái độ 
                của một ông thầy sáng suốt hay một vị lương y giàu lòng bi mẫn.
                
 
                
                - 
                Những ai thích xem 
                Phật Giáo là một triết lý nên ghi nhận rằng Phật Giáo "không 
                phải chỉ là sự yêu chuộng trí tuệ, hay lòng ham thích thúc giục 
                đi tìm trí tuệ". 
 
                
                - 
                Phật Giáo khuyến 
                khích đi tìm chơn lý, Nhưng Phật Giáo không phải là một luận lý 
                suông có tánh cách tranh luận, không phải là một hệ thống lý 
                thuyết để thỏa mãn tri thức hay một sự thâu thập và một sự tích 
                trữ những hiểu biết. 
 
                
                - 
                Đức Phật luôn luôn 
                nhấn mạnh đến sắc thái thực tiễn của Giáo Lý, đến sự áp dụng tri 
                kiến vào đời sống, đến sự nhìn vào bề sâu của đời sống chớ không 
                phải chỉ nhìn suông trên bề mặt. Trí tuệ thành đạt bằng sự thấu 
                triệt và sự phát triển những đặc tánh của tâm và trí quả thật là 
                trí tuệ chơn chánh. Đó là hiểu biết một cách châu toàn chớ không 
                phải chỉ hiểu phớt bề ngoài, không phải chỉ suy luận hợp lý, 
                cũng không phải chỉ hiểu biết trên lý thuyết. 
 
                
                - 
                Đối với Đức Phật, 
                toàn thể giáo lý của Ngài chỉ tập trung vào sự chứng ngộ bản 
                chất bất toại nguyện của tất cả cách hiện tượng sinh tồn, các 
                nghịch cảnh của đời sống, và sự trau dồi con đường dẫn thoát ra 
                khỏi sự bất toại nguyện ấy. Đó là triết lý Phật Giáo Chủ tâm và 
                mục tiêu của Phật Giáo là giải thích cặn kẽ và trọn vẹn vấn đề 
                đau khổ hay bất toại nguyện, một sự kiện phổ thông trong đời 
                sống, làm cho ta nhận thức rõ ràng, đầy đủ, và tin chắc như vậy.
                
 
                
                - 
                Vậy, rõ ràng không 
                phải chỉ là lòng ưa thích hay yêu chuộng suông, cũng không phải 
                chỉ là sự thúc giục đi tìm, trí tuệ, cũng không phải chỉ là tâm 
                đạo (mặc dầu tâm đạo cũng có ý nghĩa của nó và có ảnh hưởng đến 
                nhơn loại). Phật Giáo khuyến khích hàng tín đồ áp dụng giáo huấn 
                của Đức Phật vào đời sống thực tiễn, một giáo huấn khả dĩ dẫn 
                đến trạng thái không luyến ái, trạng thái giác ngộ, và giải 
                thoát cuối cùng. 
 
                
                - 
                Dầu ta có gán nhãn 
                hiệu nào lên trên giáo lý của Đức Phật, dầu ta gọi Phật Giáo là 
                một triết lý, một tôn giáo, hay bằng một danh từ nào khác, các 
                nhãn hiệu và danh từ ấy không có một ý nghĩa nào đáng kể, đối 
                với ai quyết tâm tìm chơn lý và giải thoát. Đức Phật đã dạy ta 
                rõ ràng những gì Ngài đã giảng giải và những gì Ngài không giảng 
                giải. 
 
                
                - 
                
                Những Gì Đức Phật Khuyên Dạy.
                
 
                
                - 
                Một lần nọ Đức Phật 
                ngự tại Kosambi (gần Allahahad) trong khu rừng cây Simsapa. Lúc 
                ấy, nắm trong tay một nắm lá, Ngài ngỏ lời cùng các vị tỳ-khưu 
                như sau: 
 
                
                - 
                "Các con nghĩ như thế 
                nào, này chư Tỳ-Khưu, số lá nắm trong tay Như Lai và số lá trên 
                cây, trong toàn thể khu rừng này, số nào lớn hơn?".
                
 
                
                - 
                - Bạch Hóa Đức Thế 
                Tôn, số lá nắm trong tay Ngài hẳn thật không có bao nhiêu, nhưng 
                lá còn trên cây, trong toàn thể khu rừng thì rất nhiều.
                
 
                
                - 
                - Cùng thế ấy, nầy 
                chư Tỳ-Khưu, những gì Như Lai chứng ngộ mà không truyền dạy các 
                con thật là nhiều, như lá trên cây. Chỉ một ít, những gì Như Lai 
                truyền dạy. Tại sao? Này chư Tỳ-Khưu, tại sao Như Lai không 
                truyền dạy tất cả? Này chư Tỳ-Khưu, là bởi vì những điều ấy quả 
                thật vô ích, không thiết yếu để có một đời sống trong sạch, tinh 
                khiết, những điều ấy không dẫn đến nhàm chán, dứt bỏ, chấm dứt, 
                an tịnh, thấu đáo trọn vẹn, Giác Ngộ, và Niết Bàn. Vì vậy, này 
                chư Tỳ-Khưu, Như Lai không công bố những điều ấy.
                
 
                
                - 
                Và, Chư Tỳ-Khưu, Như 
                Lai công bố những gì?
                
 
                
                - 
                Đây là đau khổ - điều 
                này Như Lai công bố.
                
 
                
                - 
                Đây là sự khởi phát 
                của đau khổ - điều này Như Lai công bố.
                
 
                
                - 
                Đây là sự chấm dứt 
                đau khổ - điều này Như Lai công bố.
                
 
                
                - 
                Đây là con đường dẫn 
                đến sự chấm dứt đau khổ - điều này Như Lai công bố.
                
 
                
                - 
                Và tại sao, này các 
                Tỳ-Khưu, Như Lai công bố các chơn lý ấy?
                
 
                
                - 
                Bởi vì nó hữu ích, nó 
                thiết yếu để có một đời sống trong sạch, tinh khiết, nó dẫn đến 
                nhàm chán, dứt bỏ, chấm dứt, an tịnh, thấu đạt trọn vẹn, Giác 
                Ngộ và Niết-Bàn. Vì vậy, này chư Tỳ-Khưu, Như Lai công bố các 
                chơn lý ấy" -- (Tạp A-Hàm câu 437).
 
                - 
                Đức Phật dạy như vậy.
                
 
                
                - 
                Thấu hiểu những lời 
                dạy không thể lầm lẫn trên là thấu hiểu toàn thể giáo huấn của 
                Đức Phật. Như vậy, cái được gọi là sự khám phá của Đức Phật chỉ 
                vỏn vẹn nằm trong bốn Chơn Lý (Tứ Diệu Đế) ấy. Và tất cả những 
                gì còn lại chỉ là phần triển khai và giải thích rộng rãi bốn 
                Chơn Lý Cao Thượng ấy. Đó là giáo lý của chư Phật trong tất cả 
                các thời đại (Vinaya, Mahavagga). Tầm quan trọng đặc biệt của Tứ 
                Diệu Đế nổi bật một cách hiển nhiên trong giáo lý của Đức Phật, 
                dầu trong bài thuyết giảng ở khu rừng Simsapa hay trong bài Pháp 
                Đầu Tiên tại vườn Lộc Uyển, ở Benares. 
 
                
                - 
                Tất cả bốn chơn lý ấy 
                đều có liên quan đến cái được gọi là chúng sanh. Ta không thể 
                tìm nó ở thế gian bên ngoài. Trong một đoạn văn khác khi đề cập 
                đến Tứ Diệu Đế, Đức Phật dạy: 
 
                
                - 
                "Trong chính cái thân 
                nhỏ bé (nguyên văn: dài một sãi) này, cùng với tâm và tri giác, 
                Như Lai công bố thế gian, sự khởi phát và sự chấm dứt của thế 
                gian, và con đường dẫn đến sự chấm dứt ấy". -- Tăng Nhứt A-Hàm 
                11, 48).
 
                - 
                Trong khuôn khổ giới 
                hạn của quyển sách nhỏ, chúng ta không thể thảo luận dài dòng 
                pháp Tứ Diệu Đế với đầy đủ chi tiết. Đại khái, đế đầu tiên là 
                đau khổ, hay bất toại nguyện, mà phạn ngữ là Dukkha - một danh 
                từ có nhiều nghĩa trong kinh điển Phật Giáo, tùy theo đoạn văn 
                có tánh cách giáo lý, vật lý, hay triết lý. 
 
                
                - 
                Với ai cố gắng tìm 
                thấy chơn tướng của sự vật, khái niệm về đau khổ (dukkha) có rất 
                nhiều ý nghĩa. Đó là nền tảng của tư tưởng Phật Giáo. Không thấu 
                đạt khái niệm chánh yếu này là không biết gì về ba chơn lý, hay 
                đế, còn lại. Tầm quan trọng của sự thấu đạt Dukkha được tỏ bay 
                trong những lời sau đây của Đức Phật: 
 
                
                - 
                "Người nào thấy được 
                Dukkha cũng thấy được sự khởi phát, sự chấm dứt, và con đường 
                dẫn đến sự chấm dứt dukkha". -- (Tạp A-Hàm câu 437).
 
                - 
                Đối với người không 
                cần biết đến Dukkha thì con đường nào dẫn đến sự thoát ra khỏi 
                Dukkha cũng đều vô nghĩa. 
 
                
                - 
                Tuy nhiên, xác nhận 
                rằng Dukkha (đau khổ) là đặc tánh phổ thông của đời sống không 
                phải là phủ nhận thú vui và hạnh phúc. Đức Phật - người đã đặt 
                toàn thể Giáo Lý của mình trên nền tảng Dukkha - không bao giờ 
                phủ nhận những lạc thú trong đời, ta phải hiểu như vậy. Bộ Tăng 
                Nhứt A-Hàm (Anguttara Nikaya), một trong 5 bộ kinh nguyên thủy 
                Pali, có liệt kê những hạnh phúc mà chúng sanh có thể hưởng 
                (Anguttara Nikaya, I, 80). 
 
                
                - 
                Đối với người có quan 
                kiến chơn chánh về thế gian vô thường biến đổi này - tức hiểu 
                biết sáng suốt và không luyến ái - tức hiểu biết sáng suốt và 
                không luyến ái - một sự kiện sẽ nổi bật rõ ràng minh bạch: 
                "Trong toàn thể thế gian, chỉ có một vấn đề là đau khổ, bất toại 
                nguyện, Dukkha. Tất cả những vấn đề khác, đã được hay chưa được 
                biết, đều trọn vẹn nằm trong vấn đề có tánh cách phổ thông này. 
                Nếu vạn nhứt có việc gì trở thành vấn đề, thì được nhiên việc ấy 
                phải dính liền với trạng thái bất toại nguyện, hay, nếu muốn 
                dùng một danh từ khác, trạng thái xung đột, bất ổn - xung đột 
                giữa ý muốn của ta và các diễn biến của đời sống - và, lẽ dĩ 
                nhiên, mọi người đều cố gắng giải quyết vấn đề, hay nói cách 
                khác, nổ lực của mỗi người là chấm dứt trạng thái bất toại 
                nguyện ấy, là kiểm soát, chế ngự, cuộc xung đột đã làm cho tâm 
                ưu phiền, đau khổ." 
 
                
                - 
                Chúng ta nhìn vấn đề 
                duy nhứt ấy dưói nhiều khía cạnh khác nhau: vấn đề xã hội, vấn 
                đề chính trị, vấn đề tâm lý, chí đến vấn đề tôn giáo. Phải chăng 
                tất cả các vấn đề ấy đều phát nguyện từ Dukkha, hay bất toại 
                nguyện? Nếu không phải vậy, nếu các vấn đề ấy không phải là bất 
                toại nguyện, tại sao ta cố gắng giải quyết? Giải quyết một vấn 
                đề phải chăng là cả các vấn đề đều tạo nên bất toại nguyện? Tất 
                cả các vấn đề đều tạo nên bất toại nguyện, và nỗ lực của ta nhằm 
                vào chấm dứt tình trạng ấy. Nhưng tất cả đều liên quan, dính 
                liền với nhau. Cái này sanh ra cái kia. Nguyên nhân thường không 
                nằm ở ngoài mà chính ở trong vấn đề: nó là chủ quan. Lắm khi 
                chúng ta lầm tưởng đã giải quyết ổn thỏa những vấn đề, ta chỉ 
                cắt xén, uốn nắn và đổi thay hình thức của vấn đề. Hình như luôn 
                luôn ta phải đối phó với mọi vấn đề mới và như thế, ta lại phải 
                vận dụng những nổ lực mới để giải quyết, và mãi mãi ta phải đối 
                phó. Đó là bản chất của Dukkha, đau khổ, bất toại nguyện, đặc 
                tánh phổ cập của kiếp sinh tồn vô thường biến đổi này. Đau khổ 
                khởi phát và chỉ hoại diệt để phát khỏi trở lại dưới hình thức 
                khác. Đau khổ có thể vật chất hay tinh thần, và có người chịu 
                đựng được một hình thức đau khổ này dễ dàng hơn hình thức khác, 
                và trái lại, người khác chịu đựng hình thức đau khổ kia dễ hơn.
                
 
                
                - 
                Xuyên qua khả năng 
                nhạy của giác quan (lục căn) con người bị ngoại cảnh, đối tượng 
                của giác quan (lục trần), thu hút và thích thú trong ấy. Do đó 
                phát sanh sự thọ hưởng, hay trạng thái hoan hỉ (assada) trong 
                lục trần. Đó là sự kiện hiển nhiên, không thể phủ nhận, vì tất 
                cả chúng ta đều thường xuyên chứng nghiệm. Tuy nhiên, cả hai, sự 
                thọ hưởng và đối tượng thích thú của nó đêu không thể tồn tại 
                lâu dài. Cả hai đều phải biến đổi. Bây giờ, khi người kia không 
                thể giữ lại, hay bị mất đi, những lạc thú, theo lẽ thông thường 
                người ấy buồn rầu, sầu muộn, thất vọng. Người ấy cũng không 
                thích cái gì nhàm chán, và luôn luôn đi tìm những thích thú mới, 
                giống như những con bò thả ăn ngoài đồng, luôn luôn đi tìm bãi 
                cỏ mới. Nhưng, đặc tánh của những thích thú mới ấy cũng là vô 
                thường, tạm bợ, tồn tại nhứt thời rồi trôi qua. Như thế, những 
                lạc thú của đời sống, dầu ta có thích thú nó cùng không, vẫn là 
                bước đầu mở đường vào trạng thái đau khổ. Tất cả những lạc thú 
                tại thế đều tạm bợ, nhứt thời. Và cũng giống như những liều 
                thuốc độc có bọc đường, nó chỉ gây tổn hại và thất vọng cho ta.
                
 
                
                - 
                Một món ăn khó nuốt, 
                một thức uống khó chịu, một tư cách khó thương, và trăm ngàn 
                nghịch cảnh khác trong đời sống làm cho ta đau khổ, bất toại, 
                dầu ta là Phật tử hay không, giàu hay nghèo, cao sang quyền quí 
                hay cùng cực thấp hèn, trí thức hay thất học. Thi hào 
                Shakespeare của nước Anh chỉ phụ họa suông dư âm của Đức Phật 
                khi ông viết trong tác phẩm Hamlet: "Khi sầu não đến, nó không 
                đi lẻ loi từng tên như quân thám báo mà đi bằng nhiều tiểu 
                đoàn". 
 
                
                - 
                Bây giờ, nếu có ai 
                không thấy trước được sắc thái nầy của đời sống, trạng thái bất 
                ổn của dục lạc, người ấy sẽ thất vọng và bất mãn trước một 
                nghịch cảnh đột ngột xảy đến và cũng có thể hành động điên rồ, 
                không kịp nghĩ suy, lắm khi đi đến chỗ mất trí. Đó là mối hiểm 
                nguy, là hậu quả xấu (adinava). Nhơn loại luôn luôn đối diện với 
                hai phương diện này của đời sống (assada và adinava) - phước 
                lành và tội khổ. Tuy nhiên, người nào đã cố gắng thoát ra khỏi 
                những ham muốn xấu xa, những luyến ái gắn bó vào vật vô tri vô 
                giác hay hữu tri hữu giác, nhìn đời với tâm dứt bỏ, người đã 
                thấy sự vật trong bối cảnh thích nghi cuả nó, người đã trải qua 
                một cuộc rèn luyện để tạo cho mình tâm tánh một mực an tĩnh 
                trước những thăng trầm cuả đời sống, người có thể mỉm cười trước 
                nghịch cảnh, người giữ tâm luôn luôn bình thản và gát bỏ qua một 
                bên tất cả những ưa thích và ghét bỏ - người ấy không còn lo âu 
                nữa mà đã siêu thoát (nissarana). Cả ba, assada, adinava, và 
                nissarana, hay phước lành, quả dữ, và siêu thoát là những gì 
                chúng ta có thể kinh nghiệm, là hình ảnh thật sự của cái mà 
                chúng ta gọi là đời sống. 
 
                
                - 
                Ta có thể gọi một 
                giáo lý như vậy là bi quan không? Ta có thể gán cho Đức Phật 
                nhãn hiệu yếm thế không? Trên thực tế, Phật Giáo không bi quan 
                cũng không lạc quan. Phật Giáo chỉ trình bày một quan điểm thực 
                tiễn về đời sống. Giáo lý của Đức Phật là một thông điệp phát 
                huy niềm hoan hỉ và hi vọng chớ không phải là một triết lý bi 
                quan chủ bại. 
 
                
                - 
                Trong Tập Đế, hay 
                Chơn lý thứ nhì, Đức Phật giải thích nguồn gốc của Dukkha, bất 
                toại nguyện. Trong tư tưởng Phật Giáo không có một đấng tạo hóa 
                trọng tài kiểm soát vận mạng con người. Về cái khổ của mình, 
                Phật Giáo không đặt trách nhiệm vào một động lực nào ngoài con 
                người hay một năng lực "Siêu nhơn" hay phi thường nào, mà tìm 
                nguyên nhân của nó từ sâu kín bên trong con người. Nguyên nhân 
                ấy là ái dục. Chính ái dục, được sự nâng đỡ của vô minh, đã đem 
                lại trạng thái bất toại nguyện. Và chính năng lực vô cùng hùng 
                hậu ấy - ái dục hay khát vọng - đã đưa đẩy kiếp sinh tồn của ta 
                vòng quanh mãi mãi. Đời sống tùy thuộc ở lòng tham sống. Có ham 
                sống, hay luyến ái duyên theo sự sống mới có sống. Ái dục không 
                phải là nguyên nhân đưa chúng ta đến kiếp sống hiện tiền thôi mà 
                cũng là động lực đẩy chúng ta vào các kiếp sinh tồn quá khứ và 
                tương lai. Tuy nhiên, ái dục không phải là nguyên nhân đầu tiên, 
                viết bằng chữ hoa "Đ" và "T". Cũng như tất cả các vật hữu vi 
                khác - tinh thần hay vật chất - ái dục là pháp hữu vi, được cấu 
                tạo, tương quan, tương đối. Do đó, ái dục có thể chấm dứt.
                
 
                
                - 
                Trước khi trị một 
                người bịnh, điều chính yếu cần phải khám phá là nguyên nhân của 
                chứng bịnh. Công hiệu của phương pháp trị liệu tùy thuộc ở 
                phương thức diệt trừ nguyên nhân ấy. Đức Phật thuyết giảng về 
                đau khổ, nhưng không ngừng tại đó mà đi thêm một bước, chỉ rõ sự 
                phát sanh của đau khổ. Vậy, Ngài đã cung ứng cho ta một phương 
                thức chẩn mạch toàn hảo. Những lời chỉ trích vội vã gán vào Đức 
                Phật nhãn hiệu bi quan quả thật không thể minh xác được. Và 
                những người lạc quan sẽ lấy làm hoan hỉ được biết rằng trong Tứ 
                Diệu Đế mà Đức Phật đã trình bày rõ ràng, minh bạch, có một lối 
                thoát ra khỏi "chủ nghĩa bi quan". 
 
                
                - 
                Kẻ thù của toàn thể 
                thế gian là ái dục, lòng tham muốn, luyến ái, bám víu, khát vọng 
                và xuyên qua đó, tất cả những điều bất hạnh đến với chúng sanh. 
                Đây không phải chỉ là lòng tham muốn hay luyến ái duyên theo 
                nhục dục ngũ trần, tiền của, tài sản, và tham vọng đánh bại, lấn 
                lướt kẻ khác hay xâm lăng những quốc gia khác, mà cũng là sự cố 
                chấp, khư khư dính mắc trong những lý tưởng, ý niệm, quan kiến 
                và tín ngưỡng (dhamma-tanha) thường dẫn đến phỉ báng và hoại 
                diệt, và đem lại đau khổ không thể tả đến toàn thể quốc gia, hay 
                trong thực tế, toàn thể thế gian. 
 
                
                - 
                Đế thứ ba- Diệt Đế - 
                là sự chấm dứt Dukkha, đau khổ. Đúng theo lời của Đức Phật, đây 
                là sự chấm dứt trọn vẹn (nirodha), sự dứt bỏ (caga), sự tách rời 
                (patinissagaga), sự giải thoát (mutti) và sự xa lìa (analaya) 
                chính cái ái dục ấy (Samyutta Nikaya, câu 421). Chấm dứt trọn 
                vẹn ái dục hàm ý Niết Bàn, mục tiêu cứu cánh, hay Hạnh Phúc Cao 
                Thượng nhứt trong Phật Giáo. Tuy nhiên, Niết Bàn, không phải là 
                cái gì có thể đặt thành lý thuyết. Niết Bàn phải được chứng ngộ. 
                Mặc dầu chúng sanh đã có chứng nghiệm bản chất bất toại nguyện 
                của đời sống, và thấu hiểu, hơn ai hết, đau khổ là gì, ô nhiễm 
                là gì, và cái gì mình luyến ái, nhưng chắc chắn chúng sanh không 
                biết trạng thái tận diệt trọn vẹn ô nhiễm là thế nào, bởi vì tự 
                bản thân mình chưa chứng nghiệm điều ấy. Nếu có chúng sanh nào 
                kinh nghiệm được, vị ấy sẽ thấu đạt, nhờ tự mình đã chứng ngộ 
                trạng thái vô nhiễm là thế nào, trong thực tại, Niết Bàn là thế 
                nào, và thế nào là hạnh phúc thật sự. 
 
                
                - 
                Những giai đoạn chánh 
                yếu của con đường tách rời đau khổ, Đạo Đế - con đường Niết Bàn, 
                đã được Đức Phật chỉ dạy. Đó là con đường trau dồi tâm trí để 
                đạt đến hạnh phúc thanh khiết và trạng thái an tĩnh tối thượng, 
                thoát ra khỏi mọi phiền não của đời sống. Con đường hẳn thật rất 
                khó khăn nhưng nếu chúng ta thận trọng từng bước, trì chí chuyên 
                cần, và hoàn toàn giác tỉnh thì một ngày kia chúng ta sẽ đến nơi 
                đến chốn. Một em bé tập đứng và khập khễnh tập đi từng bước, rất 
                khó khăn. Cùng thế ấy, trong cuộc hành trình thiên lao vạn khổ 
                hướng về toàn thiện, toàn hảo, tất cả những ngưòi lớn cũng gặp 
                những khó khăn như vậy, và tiến từng bước một, từng giai đoạn 
                này đến giai đoạn khác, xuyên qua những thất bại dồn dập để đến 
                thành công cuối cùng. 
 
                
                - 
                Đế thứ tư là con 
                đường dẫn đến sự chấm dứt ái dục. Đó là Bát Chánh Đạo, được sắp 
                xếp làm ba nhóm Giới, Định, Tuệ: 
 
                
                - 
                1. Nhóm Trí tuệ 
                (Panna) 
 
                
                - 
                Chánh Kiến  
                
 
                - 
                Chánh Tư Duy
 
                
                - 
                2. Nhóm Giới Luật 
                (Sila) 
 
                
                - 
                Chánh Ngữ  
                
 
                - 
                Chánh Nghiệp  
                
 
                - 
                Chánh Mạng
 
                
                - 
                3. Nhóm Định 
                (Samadhi) 
 
                
                - 
                Chánh Tinh Tấn. 
                
 
                - 
                Chánh Niệm.  
                
 
                - 
                Chánh Định.
 
                
                - 
                Ba nhóm này không 
                phải là ba phân hạng riêng biệt mà là ba thành phần cố hữu, dính 
                liền với nhau, của một con đường. Và ý nghĩa của con đường này 
                được kết dính trong lời giáo huấn rất phân minh của chư Phật 
                trong các thời đại: 
 
                
                - 
                "Từ bỏ mọi hành động 
                bất thiện,
                
 
                - 
                Trau dồi các hành 
                động thiện,
                
 
                - 
                Gội rửa tâm,
                
 
                - 
                Đó là giáo huấn của 
                chư Phật" -- (Kinh Pháp Cú câu 183)
 
                - 
                Tránh những hành động 
                bất thiện và phát triển những hành động thiện là nhiệm vụ của 
                Giới (Sila) hay những qui tắc mà Đức Phật đã dạy có liên quan 
                đến phẩm hạnh. 
 
                
                - 
                Ba Chi của Bát Chánh 
                Đạo - Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, và Chánh Mạng - là Giới. Giới 
                luật do Đức Phật ban hành không phải là những điều răn cấm có 
                tánh cách tiêu cực mà là một khuyến khích đưa đến những hành 
                động thiện tích cực, một con đường dài đẳng, cẩn bằng thiện ý, 
                từ tâm, hướng về hạnh phúc và an lành của toàn thể nhơn loại. 
                Những qui tắc đạo đức ấy vào mục tiêu tạo nên trạng thái châu 
                toàn trong xã hội bằng cách đem lại tinh thần đoàn kết, hòa dịu, 
                và tương thân tương ái giữa người và người. 
 
                
                - 
                Giới Luật (Sila) là 
                tảng đá đầu tiên vững chắc cẩn trên Con Đường, hay lối sống của 
                người Phật tử. Đó là nền tảng của sự phát triển tinh thần. Người 
                quyết tâm thực hành pháp tham thiền, hay định tâm, phải trang 
                nghiêm trì giới. Bởi vì chính Giới nuôi dưỡng đời sống tâm linh 
                và làm cho tâm vững vàng an trụ. 
 
                
                - 
                Giai đoạn kế của Con 
                Đường Giải Thoát là trau dồi tâm Định (Samadhi), bao gồm ba chi 
                khác của Bát Chánh Đạo là Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, và Chánh 
                Định. 
 
                
                - 
                Pháp thực hành thiền 
                định chơn chánh giữ tâm trong trạng thái quân bình, không chao 
                động. Hành giả phải đối phó với rất nhiều trở ngại trong khi 
                hành thiền, tuy nhiên, nhờ sự hổ trợ của Chánh Tinh Tấn và Chánh 
                Niệm, một cái tâm hoàn toàn an trụ sẽ có đủ khả năng vượt qua 
                tất cả các chướng ngại và các khát vọng làm bận rộn con người. 
                Tâm hoàn toàn an trụ không bị lục trần làm xao xuyến vì đã thấy 
                được thực tướng của vạn pháp, thấy đúng sự vật trong bối cảnh 
                thích nghi của nó. 
 
                
                - 
                Bằng lối thực hành 
                như vậy, hành giả chế ngự, làm chủ cái tâm của mình, thay vì để 
                cho tâm khắc phục và làm chủ mình, và triển khai Trí Tuệ (Panna) 
                chơn chánh, bao gồm hai chi đầu của Bát Chánh Đạo là Chánh Kiến 
                và Chánh Tư Duy, giai đoạn cuối cùng của Con Đường. 
 
                
                - 
                Người kia có thể 
                thông minh sáng suốt, học vấn uyên thâm, kiến thức sâu rộng, 
                nhưng nếu kém Chánh Tư Duy thì, theo giáo lý của Đức Phật, chỉ 
                là một người cuồng si (bala), người điên rồ, chớ không không 
                phải một người thấu hiểu và có trí tuệ sâu sắc, tuệ minh sát. 
                Nếu nhìn sự vật với đức tánh phân giải sáng suốt, không luyến 
                ái, chúng ta sẽ nhận thức rằng tham ái, ích kỷ, sân hận và hung 
                bạo không thể cùng đi chung với Trí Tuệ chơn chánh. Chánh Kiến 
                hay Trí Tuệ chơn chánh luôn luôn được Chánh Tư Duy thấm nhuần, 
                không thể không có. 
 
                
                - 
                Đến đây, nếu người 
                đọc thận trọng suy tư sẽ thấu hiểu vì sao ba nhóm Giới, Định, 
                Tuệ, cùng sinh hoạt chung với nhau để đạt đến mục tiêu chung là 
                Giải Thoát cái Tâm (Ceto Vimutti) và vì sao, nhờ trau dồi tâm 
                chơn chánh và tiết chế hành động, cả tinh thần lẫn vật chất, con 
                người có thể đạt đến trạng thái trong sạch. Chính do hạnh chuyên 
                cần và công trình tự trau dồi của chính mình mà hành giả đạt đến 
                mức tự do châu toàn chớ không phải nhờ vái van cầu nguyện hay tế 
                lễ cúng kiến một năng lực ngoại lai nào. Đó quả thật là Giáo 
                Pháp và Đức Phật đã khám phá, đã áp dụng vào đời sống Ngài để 
                thành đạt đạo quả Toàn Giác, và đã rọi sáng cho kẻ khác. 
                
 
                
                - 
                Đau khổ (Dukkha) là 
                chứng bịnh kinh khủng. Chứng bịnh này phải được biết, không nên 
                bỏ ngơ. Ái dục, nguyên nhân, phải được diệt trừ. Bát Chánh Đạo, 
                con đường, phải được thực hành, phải được trau dồi, vì đó là 
                phương thuốc. Với sự thấu đạt đau khổ, với sự diệt trừ ái dục, 
                và do công trình thực hành con đường, sự chứng ngộ Niết Bàn sẽ 
                được đảm bảo. Về điểm nầy câu trả lời cho Sela, một người 
                Bà-la-môn có ý hoài nghi đạo quả của Đức Thế Tôn, có một ý nghĩa 
                thú vị: 
 
                
                - 
                "Ta đã thấu triệt cái 
                gì phải được thấu triệt.
                
 
                - 
                Những gì phải được 
                trau dồi, ta đã trau dồi.
                
 
                - 
                Những gì phải dứt bỏ, 
                Ta đã dứt bỏ.
                
 
                - 
                Do đó, này người 
                Bà-La-Môn, Ta là Phật, bậc Toàn Giác". -- (Sutta-Nipata
 
                - 
                559; Theragatha 828)
 
                - 
                
                Lý Nghiệp Báo
                
 
                
                - 
                Có hai giáo lý quan 
                trọng khác mà người học Phật phải quen thuộc. Đó là Lý Nghiệp 
                Báo (Kamma, hay Sanscrit là Karma) và Tái Sanh, hay những kiếp 
                sinh tồn trở đi trở lại. Đó cũng là hai giáo lý chánh yếu trong 
                Ấn Độ Giáo, nhưng người theo Ấn-Độ Giáo thấm nhuần những ý niệm 
                về tự ngã và linh hồn, trái lại, Phật Giáo hoàn toàn phủ nhận.
                
 
                
                - 
                Nghiệp Báo (Kamma) là 
                định luật nhân quả trên phương diện đạo đức. Hiểu rốt ráo, 
                Nghiệp Báo là Tác Ý, hay ý muốn. 
 
                
                - 
                "Nầy hỡi chư Tỳ-Khưu, 
                Như Lai tuyên bố, chính tác y?224; nghiệp".
 
                
                - 
                Vì có muốn, ta mới 
                hành động. Và hành động có thể bằng ba phương cách: thân, khẩu, 
                ý. Đó là lời của Đức Phật (Anguttara, III). Tác ý là một ý chí, 
                một năng lực, một yếu tố của tâm, Nghiệp là hành động, có thể ví 
                như hột giống. Quả, ví như trái, được gọi là Kamma-Vipaka. Tác ý 
                có thể thiện hay bất thiện. Do đó hành động có thể thiện hay bất 
                thiện. Do đó hành động có thể trong sạch hay bất tịnh, và quả có 
                thể lành hay dữ. Dòng diễn tiến hành động và phản ứng của hành 
                động này nối tiếp vô cùng tận. Nhân tạo quả, quả trở thành nhân, 
                hột giống trồng ra trái, trái cho lại hột, triền miên vận chuyển 
                và đó là Hữu (Bhava), hay sự trở thành, một tiến trình biến đổi 
                không gián đoạn của hiện tượng tâm-vật-lý của kiếp sinh tồn.
                
 
                
                - 
                Vì có tác ý con người 
                hành động bằng thân, khẩu, hay ý. Và hành động dẫn đến phản ứng 
                của hành động. Ái dục dẫn đến hành động. Hành động tạo quả. Do 
                quả, khởi phát trở lại những ham muốn mới, ái dục mới. Tiến 
                trình cuả nhân và quả, hành động và phản ứng của hành động là 
                định luật thiên nhiên. Tự chính nó là một định luật và nó không 
                cần phải có một người tạo ra. Một nguyên lý hay một năng lực 
                ngoại lai, hoặc một Thần Linh cầm quyền hành phạt những người 
                hung ác bạo tàn và ban thưởng những ai ăn ở hiền lành không thể 
                có chỗ đứng trong tư tưởng của ngưòi Phật tử. Con ngưòi luôn 
                luôn thay đổi, trở nên tốt hơn, hay trở nên xấu hơn. Sự biến đổi 
                không thể tránh ấy hoàn toàn tuỳ thuộc nơi tác ý của chính mình, 
                nơi hành động của chính mình, chớ không ở đâu khác. "Đó chỉ là 
                một định luật thiên nhiên của sự bảo tồn năng lực trong phạm vi 
                đạo đức". 
 
                
                - 
                Thế gian hình như 
                không toàn hảo, cũng không quân bình. Khỏi phải bàn đến loài 
                thú, ngay ở giữa cảnh người, chúng ta thấy rằng có kẻ sanh ra 
                khốn khổ cùng cực, đắm chìm trong tuyệt vọng sâu xa và hết sức 
                bất hạnh, trái lại người khác trưởng thành trong vòng phong phú 
                dồi dào và hạnh phúc đầy đủ, hưởng một cuộc sống xa hoa thạnh 
                vượng và tương đối không biết gì nhiều đến phiền não của thế 
                gian. Lại nữa, một ít người sanh ra với bẩm tánh thông minh xuất 
                chúng, khả năng tinh thần và tri thức cao siêu, trong khi nhiều 
                người khác thì mê mờ ngu muội, phải trải qua suốt cuộc đời trong 
                dốt nát tối tăm. Tại sao một vài người trong chúng ta được khoẻ 
                mạnh, đẹp đẽ, và có đông đảo bạn bè trong khi có những người 
                khác ươn yếu bịnh hoạn, gầy còm xấu xí và đơn độc một cách đáng 
                thương hại? Tại sao có người sanh ra để sống đến tuổi già còn kẻ 
                phải lìa bỏ cuộc đời giữa thời xuân xanh niên thiếu? Tại sao có 
                người sanh ra với đầy đủ phước báu, danh thơm tiếng tốt vang 
                lừng, ai cũng biết, ai cũng khen, trong lúc đó có kẻ rõ ràng bị 
                lãng quên trong đêm tăm tối, không ai mang biết đến? Tất cả 
                những thắc mắc ấy đều là những vấn đề phức tạp, đòi hỏi một lời 
                giải đáp thích ứng. 
 
                
                - 
                Nếu gia công tìm 
                hiểu, ta sẽ thấy rằng tất cả những sự khác biệt cách nhau rất xa 
                kia hẳn không bắt nguồn từ một động lực ngoại lại hay do một 
                nhơn vật siêu thường toàn trí và toàn thiện, mà do hành động và 
                phản ứng của hành động của chính chúng ta. Chúng ta có trách 
                nhiệm về những hành động của chúng ta, thiện cũng như bất thiện. 
                Vậy chính chúng ta phải gánh chịu trách nhiệm về hậu quả của 
                những hành động ấy. Chính chúng ta tạo nghiệp (Kamma) cho chúng 
                ta. Nếu chúng ta thấu hiểu hiện tượng nghiệp báo và hậu quả của 
                những hành động có tác ý có lẽ chúng ta không bao giờ còn bị 
                điều ác cám dỗ vì chúng ta biết chắc rằng hành động bất thiện sẽ 
                đem lại những hậu quả tai hại. 
 
                
                - 
                "... Và đau khổ sẽ 
                theo liền với ta không khác nào bánh xe lăn theo dấu chơn con bò 
                kéo xe" -- (Kinh Pháp Cu,?226;u 1).
                
 
                
                - 
                "Chúng sanh là người 
                thừa kế của hành động mình, và từ hành động mình như một bào 
                thai, chúng sanh được sanh ra". -- (Trung A-Hàm số 135).
 
                - 
                Và xuyên qua hành 
                động của mình, chúng sanh phải tự mình biến đổi, từ xấu trở nên 
                tốt, tự làm cho mình trở nên thích ứng để đạt đến giải thoát, 
                vượt ra khỏi phiền não. Một người Phật tử đã thấu đạt lý nghiệp 
                báo sẽ phải thốt ra những lời tương tự như sau: 
 
                
                - 
                "Tùy theo hột giống 
                đã gieo,
                
 
                - 
                Bạn sẽ gặt hái bông 
                trái như thế nào.
                
 
                - 
                Người làm điều thiện 
                sẽ gặp thiện.
                
 
                - 
                Hành ác, gặp ác.
                
 
                - 
                Hãy gieo giống tốt và 
                gia công vun bồi cây,
                
 
                - 
                Bạn sẽ hưởng trái 
                lành". -- (Samyutta Nikaya, I, 227; The Kindred Sayings I, trang 
                293).
 
                - 
                Tuy nhiên, không nên 
                lẫn lộn lý Nghiệp Báo trong Phật Giáo với thuyết định mạng. Đây 
                không phải là học thuyết triết lý chủ trương rằng con người 
                không có tự do hành động, rằng con người ắt buộc phải chịu những 
                động lực, xem như từ ngoài đưa đến, chi phối ý chí, rằng số phận 
                và hành động của con người đã được định sẵn do ý chỉ của một 
                thần linh nào. Đức Phật không bao giờ theo những học thuyết chủ 
                trương rằng tất cả mọi việc đều đã được sắp xếp một cách an bài, 
                không thể đổi thay, rằng tất cả đều phát sanh do một nhu cầu, 
                không thể tránh. Đó là thuyết Định Mạng Nghiêm Khắc 
                (Niyati-vada). Ngài cũng không theo thuyết Vô Định Tuyệt Đối 
                (Adhicca-Samuppanna). 
 
                
                - 
                
                Thuyết Tái Sanh.
                
 
                
                - 
                Theo Phật Giáo, sau 
                khi chết hoặc trước khi sanh không có đời sống nào mà không tùy 
                thuộc nơi Nghiệp, hay hành động có tác ý. Nghiệp Báo là hệ luận 
                của Tái Sanh. Và trái lại, Tái Sanh là hệ luận của Nghiệp Báo. 
                Hai giáo lý này chằng chịt liên quan với nhau rất mật thiết.
                
 
                
                - 
                Sanh đến trước tử. 
                Và, đàng khác, tử đến trước sanh. Cứ như thế tiếp diễn, sanh rồi 
                tử, tử rồi sanh vô cùng tận và không gián đoạn. Tuy nhiên, không 
                có một linh hồn hay một tự ngã, hoặc một thực thể đơn thuần nào 
                khác di chuyển từ kiếp sống này đến kiếp khác. Mặc dầu con người 
                là một đơn vị tâm-vật-lý bao gồm danh và sắc, tâm và vật chất, 
                tâm hay danh ở đây không phải là một linh hồn hay một tự ngã, 
                hiểu theo nghĩa một thực thể trường tồn, và xem như một cái gì 
                đã được tạo sẵn và tồn tại lâu dài. Danh, hay tâm, ở đây là một 
                năng lực, một động lực liên tục có thể giữ lại khả năng hồi nhớ, 
                không phải chỉ trong kiếp sống này mà trong các kiếp quá khứ. 
                Đối với nhà khoa học, vật chất là một năng lực nằm trong trạng 
                thái luôn luôn chuyển động và biến đổi mà không có thực chất. 
                Đối với nhà tâm lý học, phần tâm linh không còn là một thực thể 
                đơn thuần, không biến đổi nữa. Cách đây hơn hai mươi lăm thế kỷ, 
                khi Đức Phật quả quyết nhấn mạnh rằng cái được gọi là "chúng 
                sanh" hay "cá nhơn" chỉ là sự phối hợp của những năng lực vật 
                chất và tinh thần, một biến đổi liên tục, có phải Ngài đã đi 
                trước các nhà khoa học và tâm lý học hiện đại không? 
                
 
                
                - 
                William James viết:
                
 
                
                - 
                "Cái Ta (dùng như một 
                túc từ) là sự kết hợp do kinh nghiệm cấu tạo với sự vật đã được 
                biết một cách khách quan. Vậy, cả Ta (dùng như một chủ từ) biết 
                được sự vật ấy không thể là một kết hợp. Không thể dùng cái Ta 
                ấy trong những nhu cầu tâm lý và xem nó như một thực thể siêu 
                hình không biến đổi, như một linh hồn. Cũng không thể xem nó như 
                một nguyên lý, một bản ngã siêu việt vượt ra ngoài thời gian. 
                Cái Ta chỉ là một tư tưởng biến đổi từng chập. Không một tư 
                tưởng nào giống chập tư tưởng trước kế đó, nhưng luôn luôn thuận 
                ứng theo chập tư tưởng trước, cùng hợp với tất cả những gì của 
                chập tư tưởng trước". -- (Principles of Psychology, trang 125).
 
                - 
                Như vậy, kiếp sinh 
                tồn của một cá nhơn là sự nối tiếp của những biến đổi, cái gì 
                khởi phát để trở thành và hoại diệt, không bao giờ tồn tại đến 
                hai khoảnh khắc kế tiếp. Cơ cấu tâm-vật-lý nầy, mặc dầu phải 
                chịu biến đổi không ngừng, luôn luôn tạo những tiến trình 
                tâm-vật-lý mới trong mỗi khoảnh khắc, và do đó giữ lại, không 
                bao giờ để gián đoạn, không bao giờ có lỗ trống giữa hai khoảnh 
                khắc. Chúng ta chết và sống trong mỗi khoảnh khắc của kiếp sống. 
                Đó chỉ là trạng thái sanh, thành, hoại, diệt, tựa hồ như những 
                đợt sóng của đại dương. Trạng thái liên tục biến đổi này dính 
                liền với ta trong đời sống và sẽ không chấm dứt lúc ta chết. 
                Luồng tâm tiếp tục di động không ngừng cũng giống như luồng điện 
                vẫn tiếp tục hoạt động khi bóng đèn đã bể và ánh sáng đã tắt. 
                Đến khi ta lắp vào một bóng đèn khác, lớn hay nhỏ hơn, ánh sáng 
                sẽ được có đèn khác. Chính luồng tâm di động ấy được gọi là 
                nghiệp lực, ý chí, khát vọng, hay tham muốn. Chính năng lực hùng 
                mạnh hay ý chí muốn sống ấy nuôi dưỡng sự sống, làm cho đời sống 
                triền miên diễn tiến. Như vậy, luồng tâm luôn luôn trôi chảy, vô 
                cùng, vô tận, ngày nào mà ái dục (tanha) còn bồi bổ, dưỡng nuôi 
                nó. 
 
                
                - 
                Nếu chúng sanh đã có 
                sống trước kiếp sống này, tại sao không còn nhớ gì đến những 
                việc đã xảy ra ở tiền kiếp? Việc nhớ lại tiền kiếp không phải 
                hoàn toàn không thể có, nhưng những trường hợp ấy quả quyết thật 
                hiếm hoi. Đối với câu hỏi được bàn cãi nhiều ấy đã có hơn một 
                lời giải đáp. Trí nhớ chúng ta không phải toàn hảo mà rất giới 
                hạn. Ta đã sanh ra trong kiếp sống này. Nhưng nào ta nhớ được 
                những gì xảy ra lúc mới sanh ra? Chúng ta có thể theo trí nhớ 
                phăng lên ngược dòng thời gian, nhưng chỉ đến một điểm nào. Diễn 
                biến đau khổ của sự chết và khoảng thời gian từ lúc thọ thai đến 
                khi lọt lòng mẹ có thể đã làm mất hẳn, hoặc đã bôi mất dần, dấu 
                hiệu của trí nhớ về đời sống quá khứ. 
 
                
                - 
                Tuy nhiên, cũng có 
                trường hợp vài trẻ em còn nhớ được những tài năng đã có trong 
                quá khứ. Ta giải thích thế nào trường hợp các thần đồng về âm 
                nhạc, toán học v.v...? Có lời giải đáp hữu lý nào chăng ngoài 
                chủ trương rằng đó là sự hồi nhớ những kinh nghiệm trong kiếp 
                quá khứ? 
 
                
                - 
                Năng lực hùng mạnh 
                ấy, ý chí muốn sống ấy, làm cho đời sống tiếp tục diễn tiến. 
                Theo Phật Giáo, không phải chỉ có cảnh người mà toàn thể thế 
                gian tam giới (dục giới, sắc giơi, và vô sắc giới) đều bị lôi 
                kéo bởi năng lực ấy - tức cái tâm cùng với các tâm sở, thiện hay 
                bất thiện (Anguttara Nikaya II, 177) 
 
                
                - 
                
                Sự Giải Thoát Của Con Người
                
 
                
                - 
                Khát vọng của con 
                người quả thật phiền phức. Tham ái hay ái dục đưa chúng sanh mù 
                quáng đến sân hận, và từ đó, đến mọi hình thức đau khổ. Kẻ thù 
                của toàn thể thế gian là tham ái. Do tham ái tất cả những gì bất 
                hạnh đến với chúng sanh. Khi bị ngăn trở, tham ái biến thành 
                phẩn nộ, và con người lại rơi vào màn lưới của chính mình đã 
                giăng, không khác nào nhện sa vào lưới của chính nó (Kinh Pháp 
                Cú - câu 317). Trên cả hai phần quả địa cầu - phương Tây và 
                phương Đông, hình như tâm trí của người ta càng ngày càng thiên 
                về đời sống vật chất và hầu như không còn biết gì đến lãnh vực 
                tinh thần, không màng nghĩ đến nội tâm, thế gian bên trong của 
                mình. Con người hình như ngã hẳn về một bên, bên xấu. Các khẩu 
                hiệu và hệ thống tuyên truyền có tánh cách chánh trị hình như đã 
                uốn nắn cân não con người, và đời sống hình như đã trở thành máy 
                móc, tự động. Con người trở thành máy móc, tự động. Con người 
                trở thành bù nhìn, hành động hoàn toàn theo sự điều khiển của kẻ 
                khác. Và những người điều khiển cũng vậy, họ hành động dưới sự 
                chi phối của những năng lực mà chính họ chỉ nhận định một cách 
                mù mờ. 
 
                
                - 
                Con người hiện đại 
                hình như bị vướng mắc trong đủ loại ý niệm, quan kiến, dư luận, 
                và ý thức hệ - khôn ngoan sáng suốt cũng co,?224; điên rồ cuồng 
                dại cũng nhiều. Tâm trí của con người hiện đại được nuôi dưỡng 
                bằng các phim hát bóng và được rèn luyện, un đúc, bằng các 
                chương trình phát thanh và truyền hình. Ngày nay, những gì được 
                trình bày trên mặt báo hay xuyên qua các làn sóng điện, vài loại 
                hình ảnh hay tiểu thuyết, hoặc vài văn phẩm tâm lý có tánh cách 
                tình dục, làm rối loạn con người và đưa đẩy con người tách xa 
                dần con đường ngay thẳng và sáng suốt. Ngày nay, hơn bao giờ 
                hết, con người cần phải đạt đến sự hiểu biết chơn chánh, trạng 
                thái vắng lặng, và tâm bi mẫn, để hướng dẫn nhơn loại vượt qua 
                cơn biến động của đời sống, để giữ cái tâm - vốn bị chao động - 
                cho được ngay thẳng, như "Người thợ chuốt tên uốn nắn thế nào 
                cho mũi tên được ngay thẳng" (Kinh Pháp Cú, câu 33), và để rèn 
                luyện cho tâm được thích ứng với công bằng và chánh trực. 
                
 
                
                - 
                Cố gắng tránh xa 
                những gì đầu độc mình, chuyên cần giác tỉnh, và tự củng cố vững 
                chắc trong đức nhẫn nại và phẩm hạnh trong sạch, người trí tuệ 
                đào luyện tâm trí mình. Thái độ im lặng và điềm tĩnh biểu lộ một 
                con người đã được trau dồi. Nếu mọi việc xung quanh đều thuận 
                lợi thì không khó giữ một thái độ trầm tĩnh nhưng giữ được tâm 
                bình thản, không chao động, giữa những hoàn cảnh rối reng, bất 
                thuận lợi, thì quả thật rất khó. Và chính điều khó ấy là việc 
                nên làm, đáng cho ta gia công thực hiện cho kỳ được. Bởi vì 
                chính nhờ sự tiết chế, kiểm soát tâm như vậy mà con người có thể 
                tự xây dựng cho mình một bẩm tánh khí khái. Biến đổi tâm lý diễn 
                tiến rất chậm. Ta có thể đạt đến trạng thái tâm an tịnh bằng 
                phương pháp thiền định. 
 
                
                - 
                Bạn có thể đạt đến 
                trạng thái tâm an trụ như thế không? Lời giải đáp của Lord 
                Horder rất thích thú:  
 
                
                - 
                "... Câu trả lời sẽ 
                là "Được". Nhưng "Bằng cách nào"? Tâaht rTốt, không phải bằng 
                cách "làm một cái gì vĩ đại". Tại sao các vị Thánh nhơn là 
                Thánh?". Có người hỏi thế. Và câu trả lời sẽ đến như thế này: 
                "Bởi vì các vị ấy vẫn hoan hỉ trong những hoàn cảnh khó hoan hỉ 
                và nhẫn nại trong lúc khó nhẫn nại. Các Ngài vẫn gia công tiến 
                bước trong khi lòng muốn dừng và trong khi muốn nói, các Ngài 
                giữ lặng im". Chỉ thế thôi. Đó là vấn đề giữ tâm tinh khiết, một 
                vấn đề vệ sinh tinh thần..."
 
                - 
                Để có một đời sống 
                toàn hảo, khả dĩ dẫn đến mục tiêu mong mỏi, không cần phải có 
                một số lượng luân lý hay biện luận. Không cần phải có một số 
                lượng khảo sát để đem ta đến gần cứu cánh hơn. Nhưng ta phải làm 
                cho cái tâm chao động của ta trở nên thuần thục thích ứng, bởi 
                vì kiểm soát tâm là cái chìa khóa mở vào hạnh phúc. Đó là năng 
                lực nằm phía sau tất cả những gì được thành tựu thật sự mỹ mãn. 
                Hành động của người thiếu kiểm soát ắt không có mục tiêu nhứt 
                định, và do đó không thể vững vàng. "Vậy, sự tách rời, lánh xa 
                trạng thái rộn rịp phiền phức của đời sống và sự rút lui, ẩn dật 
                trong cảnh vắng lặng, quả rất hữu ích để giúp ta tiếp xúc với 
                năng lực bên trong và để vượt mọi yếu kém và mọi giới hạn của 
                kinh nghiệm thông thường (thuộc phạm vi giác quan). 
 
                
                - 
                Để thấu đạt thế gian 
                bên trong, khoa học không thể giúp ta được nhiều. Ta không thể 
                tìm ra chơn lý cùng tột trong khoa học. Điều mà chúng ta cần là 
                sự hướng dẫn và sự giáo dục của người đã thấy, người thật sự có 
                đủ tư cách, đủ khả năng, và có nhãn kiếu sâu sắc, nhìn thẳng vào 
                tận thâm cung bí hiểm của đời sống và thấu triệt bản chất thật 
                sự tiềm tàng dưới mọi lớp mặt che đậy bên ngoài. Đức Phật là 
                người như thế ấy. Và con đường giải thoát cuả Ngài rộng mở cho 
                những ai thật sự muốn theo. 
 
                
                - 
                Con đường mà Đức Phật 
                rọi sáng để phát triển tinh thần và đạo đức là Bát Chánh Đạo, 
                tức Phật Giáo thực hành. Khi được thận trọng trau dồi đầy đủ, 
                con đường nầy nâng đỡ đời sống tinh thần của con người từ thấp 
                đến cao, từ tối đến sáng, từ khát vọng đến nhàm chán, từ chao 
                động đến vắng lặng. 
 
                
                - 
                Những cố gắng của 
                chúng ta để đạt đến trạng thái trong sạch và an tịnh đôi khi 
                không đem lại kết quả mong muốn. Nhưng thất bại không phải là 
                điều quan trọng. Điều quan trọng là chúng ta liên tục thành thật 
                trong nổ lực, trong sạch trong ý định, và chúng ta tiếp tục 
                chuyên cần, không ngừng tinh tấn. Đức Phật dạy: 
 
                
                - 
                "Như người thợ bạc 
                mỗi lần một chút, thổi sạch bợn nhơ trong vàng, con người phải 
                nổ lực thanh lọc mọi ô nhiễm trong đời sống".
 
                - 
                Một em bé tập đứng và 
                dần dần tập đi từng bước, một cách khó nhọc. Cùng thế ấy, những 
                người lớn cũng phải làm như vậy trên bước đường đi đến toàn hảo, 
                di chuyển từ giai đoạn này sang giai đoạn kế, xuyên qua nhiều 
                lần thất bại để rồi cuối cùng đạt đến thành công tuyệt đỉnh.
                
 
                
                - 
                
                Con Đường Hoằng Pháp 
                [*] 
 
                
                - 
                Từ bi và trí tuệ là 
                hai nguyên tắc hướng đạo trong Giáo Pháp của Đức Phật. Chính đức 
                bi mẫn đã làm rung động tâm tư của Bồ-Tát, thúc đẩy Ngài đến 
                cuộc Khước Từ Vĩ Đại và đã tháo cổng cho Ngài thoát ra khỏi cái 
                lồng bằng vàng trong ấy, Ngài đã trải qua suốt 29 năm của thời 
                niên thiếu. Chính đức bi mẫn đã un đúc cho Ngài một ý chí quyết 
                định không thể lay chuyển. Chí đến giờ phút ra đi, cái nhìn cuối 
                cùng vào bà vợ thương yêu đang say ngủ và người con sơ sanh duy 
                nhứt đang nằm trong vòng tay ấm áp của mẹ cũng không làm cho 
                Ngài chùng bước. Nhịp tim yếu ớt của con bịnh nhơn loại đang hồi 
                hấp hối tìm được nơi quả tim của chính Ngài lời hưởng ứng nhiệt 
                thành. Càng tiếp xúc với thế gian Ngài càng tin chắc rằng thế 
                gian quả đang thiếu một niềm hạnh phúc thật sự. 
 
                
                - 
                Vị chúa tể của tình 
                thương quyết định rọi sáng cho thế gian buồn thảm những gì Ngài 
                đã chứng ngộ và bằng gương lành trong sạch, Ngài truyền dạy loài 
                người đức độ từ bi vô lượng vô biên: 
 
                
                - 
                "Cửa vào trạng thái 
                Bất Diệt đã rộng mở.
                
 
                - 
                Để cho ai có tai muốn 
                đặt niềm tin tưởng".
 
                - 
                Với lời tuyên bố long 
                trọng trên Đức Tôn Sư bày tỏ ý định hoằng dương Giáo Pháp, Chơn 
                Lý. 
 
                
                - 
                Từ làng này đến làng 
                khác, từ tỉnh thành nọ đến tỉnh kia, Đức Phật khuyên dạy, rọi 
                sáng, và làm cho nhiều người hoan hỉ. Trong bốn mươi lăm năm 
                trường Ngài gia công kiến tạo an lành và hạnh phúc cho nhân 
                loại. 
 
                
                - 
                Phật Giáo là tôn giáo 
                phổ cập đầu tiên có tánh cách truyền giáo. Mặc dù danh từ truyền 
                giáo đã bị ít hiều hoen ố, ta vẫn phải dùng nó để cho mọi người 
                có thể hiểu dễ dàng. 
 
                
                - 
                Bất luận cố gắng nào 
                để giải thích Phật Giáo và công cuộc truyền bá Giáo Pháp nhứt 
                định phải bao gồm cả hai lãnh vực, thời gian và không gian. Đây 
                là một phong trào mở đầu một cách rất khiêm tốn. Từ một vài tín 
                đồ lúc sơ khai, phong trào này trưởng thành dần đến mức bao gồm 
                một phần lớn thế gian, gieo ảnh hưởng đến vận mạng của hơn sáu 
                trăm triệu dân chúng, ngót một phần tư toàn thể loài người. Về 
                thời gian, trên hai ngàn năm trăm năm. Phật Giáo được truyền bá 
                rộng rãi và nhanh chóng như vậy, một phần lớn là nhờ ở giá trị 
                cổ hữu của mình, và nhờ đáp ứng được một cách thỏa đáng các đòi 
                hỏi của những tâm linh thích suy luận. Tuy nhiên, cũng có những 
                yếu tố khác giúp vào sự tiến triển ấy. Không bao giờ những nhà 
                truyền bá Giáo Pháp (Dhammaduta) dùng đến phương pháp áp bức. 
                Phật Giáo xâm nhập vào các quốc gia khác một cách ôn hòa và 
                không làm xáo trộn căn bản tín ngưỡng sẵn có. Công cuộc truyền 
                giáo của người Phật tử không bao giờ được thực hiện bằng bạo lực 
                hay bằng một phương pháp cưỡng chế hay áp bức nào khác. Đức Phật 
                và các đệ tử Ngài không thích và không bao giờ tìm cách cưỡng 
                bách ai theo tôn giáo mình. Phật Giáo hoàn toàn lánh xa các cuộc 
                thánh chiến. 
 
                
                - 
                Giáo sư Rhys Davids 
                viết: 
 
                
                - 
                "Trong toàn thể lịch 
                sử dai dẳng của Phật Giáo, xuyên qua nhiều thế kỷ, không có điểm 
                ghi nhận nào mà tôi được biết, đề cập đến người tín đồ Phật Giáo 
                ngược đãi, hành hạ những người theo tín ngưỡng khác".
 
                - 
                Và như vậy, Phật Giáo 
                đã có thể tự chan hòa với nhiều văn hóa khác biệt nhau trên khắp 
                quả địa cầu. 
 
                
                - 
                Lúc sơ khai, Phật 
                Pháp được truyền bá do chính Đức Phật và các vị đệ tử A-La-Hán 
                của Ngài. Khoảng hai trăm năm đầu tiên Phật Giáo chỉ giới hạn 
                phạm vi hoạt động của mình ở miền Bắc bán đảo Ấn Độ. Kế đến thời 
                vua A-Dục (Asoka) - duy nhứt giữa những người cầm quyền cai trị 
                thế gian - vua A-Dục (Asoka) chấp nhận giáo huấn của Đức Phật và 
                cố gắng giáo dục dân chúng bằng cách truyền bá giáo huấn ấy, 
                nhứt là phần luân lý. Vua truyền lịnh cho tạc vào đá những lời 
                dạy có tánh cách luân lý. Đó thật sự là những bài pháp trên đá, 
                chớ không phải chỉ là những hình ảnh văn chương. Vua A-Dục 
                (Asoka) thấm nhuần tinh thần khoan dung vĩ đại mà Đức Phật đã 
                thuyết giảng. Dưới triều đại của Ngài, tất cả tôn giáo khác đều 
                được tự do hoàn toàn, không gặp trở ngại nào. 
 
                
                - 
                Nhận định rằng nhơn 
                loại hưởng lợi ích to tát nếu một giáo lý đầy bi mẩn và trí tuệ 
                như Phật Pháp được truyền bá rộng rãi trong dân gian, vua A-Dục 
                vận dụng mọi nổ lực để hoằng dương giáo huấn của Đức Phật ra 
                ngoài biên thùy xứ Ấn. Lúc bấy giờ có những đệ tử Phật đáp lời 
                kêu gọi của Đức Tôn Sư mà dư âm mãi còn phảng phất đâu đó sau 
                ngót ba thế kỷ. 
 
                
                - 
                "Hãy ra đi đó đây để 
                đem lại an lành và hạnh phúc cho chư Thiên và nhơn loại, và công 
                bố đời sống trong sạch".
 
                - 
                Các vị này sẵn sàng 
                đảm nhận mọi nhiệm vụ truyền giáo ở xứ ngoài, mặc dầu ngôn ngữ 
                và phương diện di chuyển vào thời bấy giờ rất khó khăn và đầy 
                nguy hiểm. Nhờ lòng nhiệt thành hỗ trợ của Vua A-Dục và nhờ sự 
                tận lực, quyết tâm, và đức dũng cảm của các nhà truyền giáo, 
                giáo lý của Đức Phật được mở rộng đến các xứ khác. Sách vở thời 
                Vua A-Dục có đề cập đến những chuyến châu du hoằng pháp ở các 
                vương quốc Á-Châu nằm trong ảnh hưởng văn hóa Hi Lạp, ở Phi Châu 
                và Âu Châu, Syria và Ai Cập, Cyrene, Macedonia và Epirus đến 
                Bactria và xuyên qua trung phần Á Châu đến Trung Quốc. 
                
 
                
                - 
                Cũng thời Vua A-Dục, 
                236 năm sau khi Đức Phật nhập diệt, một người con của chính đức 
                vua, Đức Mahinda, một bậc hiền thánh A-La-Hán, đã đưa Phật Giáo 
                vào Tích-Lan và nơi đây, giáo lý của Đức Phật phát triển dồi dào 
                phong phú đến ngày nay, hầu như trong tất cả sự tinh khiết 
                nguyên thủy, trải qua những bước thăng trầm của hơn hai mươi thế 
                kỷ. Từ Tích-Lan, Phật Giáo được truyền sang Miến-Điện, Thái-Lan, 
                và từ đó đến Cam-Bốt, Ai-Lao, Việt-Nam, được thiết lập vững vàng 
                ở Tây Tạng và từ đó qua Nepal, Mông Cổ, và Trung Quốc. Từ Trung 
                Quốc, Phật Giáo cũng được truyền bá sang Java và phát triển mạnh 
                mẽ ở Sumatra dưới triều đại Sri Vijaya. Như vậy, Phật Giáo đã 
                vượt khỏi ranh giới của xứ Ấn-Độ và trở thành một tôn giáo thế 
                giới. 
 
                
                - 
                Lịch sử Phật Giáo 
                không thể tách rời ra khỏi lịch sử văn hóa và xã hội Đông 
                Phương. Trong tất cả những ảnh hưởng đã un đúc nền văn hóa Á 
                Châu, Phật Giáo được xem là sâu rộng nhứt. Trên 2500 năm, những 
                nguyên tắc và quan điểm Phật Giáo đã đượm nhuần tư tưởng và cảm 
                giác của người phương Đông. 
 
                
                - 
                Sự tiếp xúc giữa Phật 
                Giáo và thế giới Tây Phương đã có từ trước kỷ nguyên đạo Cơ Đốc 
                Bị giới hạn trong khuôn khổ của một quyển sách nhỏ bé chúng ta 
                không thể đề cập đến vấn đề này một cách đầy đủ. Dầu sao, những 
                người Âu Châu cũng đã có cái nhìn thoáng qua vào giáo lý Đức 
                Phật khi các du khách của họ - nhứt là các nhà truyền giáo Cơ 
                Đốc - đáp tàu hướng về phía Đông, từ thế kỷ mười sáu trở đi. 
                Chúng ta không thể mong đợi ở các vị này một bản tường trình 
                trung thực về những lời dạy minh bạch của Đức Phật. Và điều này 
                nổi bật một cách rõ ràng trong những văn phẩm về Phật Giáo mà 
                tác giả là các vị truyền giáo thời bấy giờ. Tuy nhiên chúng ta 
                phải ghi nhận rằng vào thế kỷ mười chín và đầu thế kỷ hai mươi, 
                vài giáo sĩ Cơ Đốc đã góp phần vào sự giới thiệu đạo Phật với 
                người phương Tây. 
 
                
                - 
                Những hiểu biết đầu 
                tiên đến Anh Quốc, Đức Quốc và các quốc gia khác ở Âu Châu, 
                không phải do các nhà truyền giáo Phật mà do sách vở. Chính sách 
                vở làm nhiệm vụ truyền giáo. Chỉ đến đầu thế kỷ mười chín người 
                phương Tây mới thật sự bắt đầu nghiên cứu và truyền bá dần dần 
                giáo lý của Đức Phật. Một ít học giả trứ danh thời bấy giờ tìm 
                học đạo Phật và tư tưởng Ấn-Độ và viết ra những quyển sách quí 
                giá về lịch sử và giáo lý của Đức Phật bằng nhiều ngôn ngữ Tây 
                Phương. Trong các ấn phẩm này ta nên ghi nhận công trình nghiên 
                cứu của các nhà Đông Phương học người Pháp Eugène Burnouf và 
                George Turner, những người Âu Châu đầu tiên học tiếng Pali. Nhờ 
                đó người phương Tây gia tăng dần - tuy chậm chạp những vững vàng 
                - những công trình nghiên cứu Phật Giáo và văn hóa Phật Giáo.
                
 
                
                - 
                Ta phải nói rằng phần 
                đóng góp của ngưòi Anh vào việc truyền bá Phật Giáo rất là quan 
                trọng. Đặc biệt ta phải ghi nhận Giáo Sư T. W. Rhys Davids 
                (1843-1922), một nhà bác học lỗi lạc. Công trình vĩ đại nhứt của 
                ông là sáng lập Hội "Pali Text Society" (Hội Văn học Pali) vào 
                năm 1881. Đây là một cố gắng về mặt ấn loát và xuất bản bằng mẫu 
                tự La Tinh những kinh điển và chú giải Phật Giáo, và phiên dịch 
                ra tiếng Anh. Ông cũng là giáo sư về môn Pali và Văn chương Phật 
                Giáo tại Đại Học Luân Đôn (London University) và là người sáng 
                lập trường London School of Oriental Studies (Nghiên cứu Đông 
                phương). Nếu không có Hội Pali Text Society, giáo lý nguyên thủy 
                của Đức Phật ắt không được hiểu biết rộng rãi như ngày nay, nhứt 
                là ở phương Tây. 
 
                
                - 
                Khi đề cập đến Phật 
                Giáo ở Đức chúng ta phải nhìn nhận công đức của người bản xứ, vì 
                chính người Đức đã đem giáo lý của Đức Phật từ các lãnh thổ Phật 
                Giáo vào quốc gia mình. Cũng như trường hợp ở Anh, chỉ đến những 
                năm đầu của thế kỷ mười chín, người Đức mới tiếp nhận được bản 
                kinh sách có thể tin cậy do các học giả Đức, Pháp, và Anh chuyên 
                về Ấn Độ Học xuất bản. Bản dịch Kinh Pháp Cú (Dhammapada) đầu 
                tiên ra tiếng Đức được ấn hành vào năm 1860 do nhà Ấn Độ Học 
                Albert Weber, và đó là bản dịch kinh sách Phật Giáo đầu tiên ra 
                một sinh ngữ hiện đại Tây Phương. 
 
                
                - 
                Oldenberg, Karl E. 
                Neuman, Max Muller, Wilhelm Geiger, Kurt Schmilt, George Grimm, 
                Kurt Seidenstucker, Von Glasenapp, Waldschmidt Winternitz và Đại 
                Đức Nyanatiloka là những người làm việc không biết mệt để sáng 
                tác và phiên dịch kinh sách Phật Giáo và khuyến khích nhiều 
                người nghiên cứu giáo lý của Đức Phật. Vậy, sự thích thú tìm học 
                Phật Giáo của những học giả người Anh, người Đức, người Pháp và 
                những nhà Đông Phương Học truyền sang các quốc gia Âu-Châu khác 
                và Mỹ Châu, và kết quả là đến nay công trình nghiên cứu Phật 
                Giáo được tiếp tục do một nhóm học giả uyên thâm về Đông Phương 
                Học và Ấn Độ Học. 
 
                
                - 
                Tại Mỹ Quốc, vào 
                những năm cuối cùng của thế kỷ mười chín, ông Charles Rockwell 
                Lanman và môn đệ của ông, Henry Clarke Warren, sáng lập nhà xuất 
                bản Harvard Oriental Series để khuyến khích người phương Tây chú 
                trọng đến trí tuệ cổ xưa của người Đông Phương và để đem lại sự 
                hiểu biết lẫn nhau giữa những người sống ở hai phần đất khác 
                nhau trên quả địa cầu. 
 
                
                - 
                Trong các ấn phẩm do 
                nhà xuất bản này phát hành có nhiều bản dịch kinh sách Pali ra 
                Anh ngữ, và non phân nửa loại sách này được xeem là sách học của 
                Đại Học Harvard. Chúng ta cũng phải ghi nơi đây phần đóng góp 
                quí báu của giáo sư Edgerton, Đại Học Yale University, vào công 
                trình nghiên cứu kinh sách Pali bằng cách soạn thảo quyển tự 
                điển và văn phạm Buddhist Hybrid Sanskrit Dictionary, Reader and 
                Grammar xuất bản năm 1953, và phần của ông Dwight Goddard, một 
                Phật tử người Mỹ, đã sưu tầm và tập trung lại thành một quyển 
                sách mà ông đặt tên là "Thánh Kinh Phật Giáo" (A Buddhist 
                Bible). 
 
                
                - 
                Phái đoàn Phật Giáo 
                đầu tiên đến Anh Quốc ngày 
                23-4-1908. 
                Người hướng dẫn phái đoàn này không ai khác hơn là Đại Đức 
                Ananda Metteyya, một tỳ-khưu người Anh mà trước kia có tên 
                Charles Henry Allen Bennet, người đã dành trọn đời sống mình để 
                phục vụ đạo pháp. Theo chơn Ngài về Anh Quốc có một đoàn học giả 
                và những vị thí chủ nhiệt thành. 
 
                
                - 
                Ta có thể nói một 
                cách tin tưởng rằng Phật Giáo được truyền sang Mỹ Quốc vào năm 
                1893 nhơn đại hội các tôn giáo thế giới, World's Parliament of 
                Religions, họp tại thành phố Chicago. Trong kỳ đại hội này vị 
                Anagarika Dharmapala của Tích Lan đại diện cho Phật Giáo. Ông 
                Dharmapala là một cộng sự viên chặt chẽ của Đại Tá Olcott. Người 
                ta nói rằng cũng vào thời bấy giờ có một phái đoàn Phật Giáo 
                Nhựt Bổn lần đầu tiên đến San Francisco và bắt đầu hoạt động tại 
                đây. 
 
                
                - 
                Nếu thận trọng dò xét 
                lịch sử Phật Giáo ở phương Tây chúng ta sẽ thấy rằng, cho đến 
                ngày nay, chỉ có một ít học giả hiểu biết về Phật Giáo, và các 
                vị này chỉ đứng về phương diện "học giả" khi đề cập đến một "tôn 
                giáo sống". Đến nay thì hoàn cảnh đã đổi thay, và hình như Phật 
                Giáo đang đứng trước một khúc quanh mới. Nhờ có tài liệu Phật 
                Giáo dồi dào hơn trước đã được đến tay người phương Tây và nhờ 
                có những phái đoàn truyền giáo Phật thỉnh thoảng được cơ hội - 
                trong phương cách khiêm tốn của mình - giúp cho người Tây phương 
                quen thuộc với giáo lý của Đức Phật, những người Âu và người Mỹ 
                đã thấu hiểu rằng Phật Giáo không phải chỉ là một hệ thống giáo 
                thuyết mà còn là một lối sống - một phương thức đào luyện tinh 
                thần, đạo đức và tri thức dẫn đến sự giải thoát toàn diện tâm 
                linh, một kho tàng vô tận - là nền tảng đạo đức của một nền văn 
                hóa có tầm quan trọng quốc tế. Tuy nhiên, không nên quên rằng 
                khúc quanh mới này sở dĩ có một phần lớn là nhờ công trình vị 
                tha của các học giả trong khoảng một trăm năm qua. 
 
                
                - 
                Nhiều cuộc đổi mới đã 
                xảy ra ở phương Tây trong vài năm sau này. Có một sự quan tâm 
                đến Phật-Giáo - cả Nam lẫn Bắc Tông - càng ngày càng tăng 
                trưởng. Nhiều hội, nhiều trung tâm, và nhiều nhóm Phật Giáo đã 
                được thành lập, nhiều tự viện đã được kiến tạo, sách vở đủ loại, 
                đủ cỡ, đủ hạng (có uy tín hay không) và tạp chí, báo chí, đã 
                được ấn hành hằng ngàn số. Và, cũng như trong quá khứ, văn 
                chương Phật Giáo là phương tiện quan trọng để truyền bá Phật 
                Giáo, Hội Buddhist Publication Society (Hội Xuất bản Phật Giáo) 
                ở Kandy, Tích Lan, là một tổ chức ấn loát bất vụ lợi, được điều 
                hành do những hội viên danh dự không lãnh tiền thù lao, đã thực 
                hiện một công trình lợi ích đáng kể là ấn hành và phân phối trên 
                một triệu quyển sách nhỏ đến bảy mươi hai quốc gia, trong mười 
                năm trường. "World Buddhism" (một tạp chí thông tin Phật Giáo 
                quốc tế in lại Tích Lan) với những tin tức trong lãnh vực Phật 
                Giáo cùng những bài vở gồm cả Nam và Bắc Tông và phần giới thiệu 
                sách, đã được nhiều người phương Tây ưa chuộng. 
 
                
                - 
                Ta có thể nói rằng 
                tại Anh và Đức Quốc, Phật Giáo đã tạo cho mình một tổ ấm châu 
                toàn. Những tự viện, trung tâm thiền định, và hội Phật học đã 
                đóng góp một vai trò quan trọng trong việc truyền bá Phật Pháp, 
                tuy chậm chạp nhưng vững chắc, trong hai quốc gia này. Nhiều 
                quyển sách về Phật Giáo và rất nhiều ấn phẩm rẻ tiền khác, rất 
                được ưa thích, đã góp phần to tát vào việc hoằng dương Giáo Pháp 
                tại Âu và Á-Châu. 
 
                
                - 
                Hiện nay Phật Giáo đã 
                được truyền sang các lãnh thổ Thụy Điển, mặc dầu còn ở tầm mức 
                khiêm tốn. Trong hầu hết các quốc gia Tây Phương đều có các hội 
                Phật Giáo hay những nhóm học Phật và văn hóa Phật Giáo. 
                
 
                
                - 
                Khi đề cập đến Phật 
                Giáo trong thế giới Tây Phương, người ta thường nhắc đến Úc 
                Châu, mặc dầu, một cách chính xác, Úc-Đại-Lợi không nắm trong 
                thế giới phương Tây. Đối với người Úc, giáo lý của Đức Phật 
                tương đối vẫn còn mới mẻ. Đến nay chỉ có một vài trăm Phật tử 
                tại đây. Tổng Hội Phật Giáo Úc Châu gồm các chi hội tại Sidney, 
                Melbourne và Brisbane. Trong các hội này New South Wales Society 
                tại Sydney hoạt động mạnh nhứt. 
 
                
                - 
                Trong tất cả những 
                quốc gia này các hoạt động Phật Giáo được thực hiện một cách rất 
                khó khăn và cực nhọc. Chỉ có một ít người tích cực tinh tấn và 
                hoạt động không biết mệt. Nổ lực chơn thật và lòng nhiệt thành 
                không lay chuyển của các vị này đáng được một lời khen tặng.
                
 
                
                - 
                Cuối cùng, ta phải 
                nói rằng tại Mỹ Quốc, không phải như ở các quốc gia khác, phần 
                lớn các Viện Đại Học và Trường Cao Đẳng đều có một phân bộ về 
                lịch sử tôn giáo trong ấy Phật Giáo là một môn học. Tại Đại Học 
                Đường Wisconsin có riêng một phân khoa Phật Giáo. Đa số các sinh 
                viên học Phật Giáo và các tôn giáo khác đều đứng về phương diện 
                luận lý - chớ không phải thực hành - để hiểu biết hơn về văn hóa 
                và tôn giáo các dân tộc Đông Phương. Tuy nhiên, cũng có nhiều 
                người Âu và Mỹ rất thích thú chú tâm tìm học Phật Giáo. Những 
                người này nhận định rằng Phật Giáo có phần "ấm áp" hơn là họ đã 
                tưởng. Tự do tư tưởng và tự do phát biểu ý kiến mà Đức Phật đã 
                nhấn mạnh, lời kêu gọi những ai muốn tìm hiểu hãy dò xét, quan 
                sát kỹ càng, thay vì tin suông, và quan niệm không đặt thần linh 
                làm trung tâm điểm và không hướng về thần linh của Phật Giáo đã 
                làm say mê những tư tưởng gia sâu sắc phương Tây. 
 
                
                - 
                Giáo từ mà Đức Phật 
                đã ban bố cho năm thầy Kiều Trần Như, 2500 năm về trước, hiện đã 
                lan tràn và thấm nhuần vào tận những góc trời xa xôi của thế 
                gian là một nguồn hạnh phúc cho non một phần tư nhơn loại. Những 
                lời vàng ngọc ấy rất cần phải được hiểu biết thấu đáo hơn và sâu 
                xa hơn. 
 
                
                - 
                Ước mong tất cả chúng 
                sanh đều được an vui hạnh phúc. 
 
                
                - 
                Hòa 
                Thượng Piyadassi
                
 
                - 
                Phạm 
                Kim Khánh dịch Việt, 1972
                
 
                
                - 
                 
 
                - 
                Ghi chú:  
                
 
                
                - 
                [*] Tập sách nầy được 
                viết khoảng 30 năm về trước, trong đầu thập niên 1970. Do đó các 
                thông tin về công cuộc hoằng pháp tại Âu Mỹ là những thông tin 
                cũ, không được cập nhật. (Bình Anson, tháng 4, 2000)
 
                
                   -  
 
                
               
              
             
             | 
   
           
               
       
       |