| 
           
      
  
           
                
            
              
              
                - Thư Viện Chùa Dược Sư
 
                - PHẬT HỌC CƠ BẢN
 
                  
               
              
              
                
                   
                  - Những 
                  Bài Học Về Diệu Tâm
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  (hay Phật Tánh)
 
                  
                
                
                   
                  - Tâm 
                  Minh
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  --o0o--
 
                  
                
                
                - 
                          ‘Tâm’ là 
                chữ thường xuyên xuất hiện với người Phật tử mỗi khi nói đến tu 
                tập . Thật vậy, nào là ‘Tu tâm’ , ‘một niệm ở tâm ta’ , nào là 
                ‘giữ tâm ý trong sạch ’ , ‘chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài’ 
                (Nguyễn Du) v..v... Nhưng ‘tâm’ là cái gì , ở đâu v..v..thì 
                không ai chỉ được ; thậm chí ngài A Nan , một trong 10 vị đệ tử 
                lớn của Phật, được tiếng là học rộng biết nhiều (đa văn đệ nhất) 
                cũng bối rối khi bị Phật truy hỏi cho tới cùng về cái ‘chơn 
                tâm’, ngài A Nan trả lời bảy lần trật hết cả bảy và bị Phật quở 
                luôn ! (sau đó thì ngài đã ngộ được và ứng khẩu đọc bài kệ đắc 
                pháp của ngài 
 
                - 
                ‘Diệu trạm tổng trì 
                bất động tôn
 
                - 
                Thủ Lăng Nghiêm Vương 
                thế hy hữu ..’ 
 
                - 
                v..v..). Như vậy việc 
                chúng ta ‘chịu thua’ không biết Tâm là gì và tâm ở đâu thì cũng 
                là chuyện bình thường. Người viết bài này không có tham vọng 
                viết về cái ‘chơn tâm’ của kinh Lăng Nghiêm nhưng muốn chia xẻ 
                đến các bạn những ‘mô tả’, những tên gọi về Tâm mà những bậc 
                minh triết trong những thời đại khác nhau, ở những đất nước khác 
                nhau đã nêu lên , để từ đó chúng ta rút ra được những bài học về 
                sự tu tập chân chính , làm hiển lộ cái tâm vi diệu, kỳ diệu đó, 
                (tạm gọi một cách ngắn gọn là cái ‘diệu tâm’) đem lại an lạc cho 
                chính mình và mọi người chung quanh mình . 
 
                - 
                Trước hết , Tổ Bồ Đề 
                Đạt Ma (528) , vị tổ thứ 28 của Ấn Độ tính từ đức Thế Tôn hay là 
                vị tổ đầu tiên của Trung Hoa (Sơ Tổ) đã dạy môn đệ của ngài 
                (được ghi lại trong ‘huyết mach luận’- một trong 6 bộ luận của 
                bộ sách ‘Thiếu Thất Lục Môn’ ở Nhật ) (1) : 
 
                - 
                Tánh tức là Tâm,
                
 
                - 
                Tâm tức là Phật ,
                
 
                - 
                Phật tức là Đạo
                
 
                - 
                Đạo tức là Thiền
                
 
                - 
                Nói ngược trở lại thì 
                tâm tức là tánh và thấy tánh là thành Phật , và con đường (đạo) 
                đi đến thấy tánh là Thiền (‘tánh’, nói cho đầy đủ là ‘tánh 
                giác’) . 
 
                - 
                Thiền Phật giáo, như 
                chúng ta thường được nghe nói đến , là chủ trương ‘bất lập văn 
                tự, giáo ngoại biệt truyền, trực chỉ chân tâm, kiến tánh thành 
                Phật’ (đại ý là không cần chữ nghĩa, giáo lý, mà chỉ thẳng vào 
                chơn tâm, thấy tánh là thành Phật ). Thật vậy, ai mà không thích 
                thú khi được nghe câu chuyện trên núi Linh Thứu (Linh Sơn) khi 
                đức Thế Tôn đưa cành hoa lên thì ngài Ca Diếp mĩm cười (‘niêm 
                hoa vi tiếu’), trong khi hội chúng chưa ai có phản ứng gì, và 
                đức Thế Tôn đã truyền y bát cho ngài Ca Diếp làm vị tổ thứ hai 
                từ đó . 
 
                - 
                Trong thời đại của 
                chúng ta, Sogyal Rinpoche ,một vị thầy Tây Tang, người đã được 
                thụ huấn với nhiều vị lạt ma tên tuổi nhất của Tây Tạng, đồng 
                thời cũng được hấp thụ nền giáo dục tân tiến của tây phương , 
                người đã thành công khi đem Phật giáo Tây Tạng giảng dạy ở 
                phương tây với lề lối tư duy của họ mà ngài đã quen thuộc . Ngài 
                nêu ra ‘4 lỗi’ làm cho ta không thể thấy được chơn tâm (cái mà 
                ngài gọi là ‘tự tính tâm’ và Bồ Đề Đạt Ma gọi là ‘tánh’ hay đức 
                Phật gọi là ‘chơn tâm’ đó) : (2) 
 
                - 
                Tự tính tâm quá gần 
                gũi đến nỗi ta khó nhận ra 
 
                - 
                Nó quá sâu xa nên ta 
                khó dò cho thấu 
 
                - 
                Nó luôn luôn có mạt 
                hiện tiền , nó quá dễ ta không tin nổi 
 
                - 
                Nó quá bao la ta 
                không dung chứa nỗi. 
 
                - 
                Những phân tích này 
                của Sogyal Rinpoche có phải nhắc ta nhớ đến Lục Tổ Huệ Năng 
                (638-713) - vị tổ ‘tướng mạo quê muà nhưng trí tuệ phi thuờng’ - 
                khi đựơc ngũ tổ khai thị rồi, cũng hân hoan thốt lên những lời 
                nói về ‘tự tánh’ tức là ‘chơn tâm’ trong kinh Lăng nghiêm, và 
                cũng là ‘tự tánh tâm ‘ của Sogyal vậy : (3) 
 
                - 
                đâu ngờ tự tánh vốn 
                tự thanh tịnh 
 
                - 
                đâu ngờ tự tánh vốn 
                không sinh diệt 
 
                - 
                đâu ngờ tự tánh vốn 
                tự đầy đủ 
 
                - 
                đâu ngờ tự tánh vốn 
                không dao động 
 
                - 
                đâu ngờ tự tánh hay 
                sanh muôn pháp 
 
                - 
                Lời phát biểu của Lục 
                Tổ giúp chúng ta liên hệ đến lời dạy của đức Phật về ‘Thường, 
                Lạc, Ngã, Tịnh’ trong Diệt Đế : đó là tự tánh thanh tịnh hay là 
                cái ‘chân ngã’ - tâm như một tấm gương trong sáng ( vốn tự thanh 
                tịnh) có khả năng chiếu sáng kỳ diệu bất cứ vật gì đi ngang qua 
                nó ( vốn tự đầy đủ , hay sanh muôn pháp) một cách bình đẳng và 
                trung thực ,không phân biệt, không phản ứng (vốn không dao động)
                
 
                - 
                Những tiếng reo vui 
                của Lục tổ nhắc nhở ta nhiều trong việc tu tập. Thật vậy, chúng 
                ta cố gắng trong đời sống hằng ngày , trong ăn ,uống, ngủ, nghỉ 
                , đi đứng, nằm ngồi v..v.. an trú trong ‘tự tánh tâm’ càng nhiều 
                càng tốt . Cụ thể, khi nghe ai phê bình hay trách móc mà ta nổi 
                ‘tam bành lục tặc’ lên chẳng hạn, ấy là ta đã biến tâm thanh 
                tịnh thành tâm của loài tu la (quỷ chiến đãu) rồi ! Nếu chúng ta 
                cố gắng sống trong chánh niệm ,tỉnh thức, theo dõi tâm và giữ 
                gìn cho tâm bớt dao động thì một ngày kia ta cũng có thể làm 
                hiển lộ bản tâm thanh tịnh , nói cách khác, có thể an trú thuờng 
                trực trong đó như chư Phật vậy . 
 
                - 
                Sau Lục Tổ Huệ Năng 
                10 thế kỷ, thiền sư Nhật Bankei ( 1622-1693) cũng nói : ‘Tâm là 
                một cơ cấu năng động , nghề của nó là phản chiếu , ghi lại và 
                hồi tưởng những ấn tượng về thế giới bên ngoài ; nó như một loại 
                gương soi sống động ,luôn luôn vận hành , không bao giờ ở yên từ 
                giây phút này sang giây phút kế tiếp . Trong cái tâm như gương 
                sáng này những ý tưởng đến rồi đi , sinh ,diệt rồi tái sinh tùy 
                hoàn cảnh, tự bản chất chúng không tốt cũng không xấu’ hay : ‘ 
                vì tâm Phật đang chiếu sáng kỳ diệu trong tất cả mọi người nên 
                bạn có thể học hỏi đủ thứ , ngay cả những hành vi lầm lạc . . . 
                ‘ (4). Ở đây , Bankei gọi ‘tâm’ là ‘Tâm Phật bất sinh’ Thật là 
                thú vị khi đuọc nghe lời dạy của các bậc Thầy nói ‘mỗi người một 
                kiểu’ nhưng cốt lõi thật là giống nhau về bản chất của TÂM - tức 
                là ‘tự tánh tâm’ , ‘chơn tâm’ , ‘tâm Phật bất sinh’ hay ‘tự 
                tánh’ v..v.. cũng chỉ là Một mà thôi. 
 
                - 
                Đọc Bankei, ta thấy 
                vị thiền sư Nhật này ‘gặp gỡ’ Lục Tổ Huệ Năng ở rất nhiều điểm . 
                Ví dụ như ‘nhất hạnh tam muội’ của Lục Tổ thì Bankei gọi là 
                ‘thực chứng tâm Phật sống động’ , ông nói : ‘với một người thực 
                chứng tâm Phật một cách rốt ráo thì khi vị ấy đi ngủ cũng đi ngủ 
                với tâm Phật, khi dậy là dậy với tâm Phật , khi đi là đi với tâm 
                Phật, khi đứng là đứng với tâm Phật , khi nằm là nằm với tâm 
                Phật , khi ngồi là ngồi với tâm Phật, khi nói là nói với tâm 
                Phật , khi im lặng là im lặng với tâm Phật , khi ăn cơm là ăn 
                cơm với tâm Phật, khi uống trà là uống trà với tâm Phật , khi 
                mặc aó là mặc áo với tâm Phật v..v.. Vào mọi lúc, vị ấy an trú 
                liên tục trong tâm Phật , vị ấy hành xử ung dung tùy theo hoàn 
                cảnh , cứ để mọi sự theo cách tự nhiên của chúng; chỉ cốt là 
                không làm những việc ác, làm những việc lành . . . . nhưng không 
                tự hào về những việc lành của mình ,không bám víu vào đó và ghét 
                cái xấu , vì như vậy là đi nguợc tâm Phật . Tâm Phật không thiện 
                cũng không ác, mà vận hành vượt ngoài cả thiện ác . . . (5)
                
 
                - 
                Tương tự, Lục Tổ Huệ 
                năng và thiền sư Bankei còn gặp nhau ở ‘tự tánh bất động’ Lục Tổ 
                dạy : Này thiện tri thức, người mê tuy thân bất động nhưng mở 
                miệng liền nói việc phải quấy, hay dở, tốt xấu của người (tức 
                là) cùng đạo đã trái nhau , chấp tâm, chấp tịnh tức là chướng 
                đạo . Này thiện tri thức, sao gọi là toạ thiền ? Trong pháp môn 
                này không chuớng không ngại; ngoài đối với tất cả cảnh giới 
                thiện ác tâm niệm chẳng khởi gọi là TỌA, trong thấy tự tánh 
                chẳng động gọi là THIỀN. Ngài nhấn mạnh : tọa thiền không phải 
                là ngồi một chỗ nhắm mắt lại chỉ cần ‘thân yên’ là được đâu :
                
 
                - 
                Khi sống, ngồi chẳng 
                nằm, 
 
                - 
                Chết rồi nằm chẳng 
                ngồi 
 
                - 
                Một bộ xương mục thúi
                
 
                - 
                Có gì gọi công phu ? 
                (6) 
 
                - 
                Bankei cũng căn dặn 
                đệ tử : rán sức tu hành, cố toạ thiền . . . để được giác ngộ đều 
                sai . Không có gì khác nhau giữa tâm của chư Phật với cái phật 
                tâm nơi mỗi chúng sanh . Mong cầu đạt giác ngộ là tạo ra một sự 
                phân hai thành ra có người đựơc giác ngô và chân lý được giác 
                ngộ. Khi còn đeo đẳng một chút nào cái ước muốn đạt giác ngộ 
                ,thì lập tức đã giả từ cái bất sinh , đi nguợc lại tâm Phật . . 
                . . Cái gì không vướng vào thế giới bên ngoài chính là tâm Phật 
                ’ . (7) 
 
                - 
                Rõ ràng Lục Tổ và 
                Bankei, hai nguời đã nói theo ngôn ngữ của thời đại mình nhưng 
                nội dung chuyên chở Đạo thì y hệt nhau ; và tư tưởng của hai 
                ngài cũng không khác câu chuyện ‘mài ngói làm gương soi’ giũa Mã 
                Tổ và Nam Nhạc là bao nhiêu : 
 
                - 
                Mã Tổ đạo Nhất ( 
                709-788) là một thiền sư rất nổi tiếng , (môn đệ của ngài đông 
                hơn của ngài Huệ Năng nữa) đang ngồi thiền trong am thì sư Nam 
                Nhạc đi đến và hỏi : 
 
                - 
                - Đại đức ngồi thiền 
                để làm gì ? 
 
                - 
                - Để làm Phật 
                
 
                - 
                Sư bèn cầm một miếng 
                ngói đến trước am ngồi mài trên phiến đá, Mã Tổ hỏi : 
                
 
                - 
                - Sư mài ngói để làm 
                gì ? 
 
                - 
                - Để làm gương - Mài 
                ngói sao thành gương được ? 
 
                - 
                Sư đáp: còn ngồi 
                thiền há thành Phật được sao ? 
 
                - 
                v..v.. ( 8) 
                
 
                - 
                Tất nhiên câu chuyện 
                còn dài , chỉ xin trích ra một đọan để thấy cái ý giống nhau 
                giữa những bậc minh triết khi chỉ điểm về Tâm, về Đạo v..v..
                
 
                - 
                Thực tập bài học này 
                ,ta không chỉ ngồi thiền mà thôi, vì đó chỉ mới là ‘thân yên’ 
                chưa đủ, còn phải ‘tâm yên’ nữa, nghĩa là theo Lục Tổ thì ‘ đừng 
                thấy lỗi nguời, chỉ nên thấy lỗi mình thì mọi việc trong ngoài 
                mới gọi là ‘kìa tướng’ và ‘bất động’ được ; và theo Bankei thì 
                đừng khởi mong cầu , dù là mong cầu được giác ngộ ,đừng bị vướng 
                mắc ,dao động bởi bất cứ gì khi tiếp xúc với thế giới bên ngoài 
                , hãy để cho những ham muốn, , giận hờn, phiền não v..v.. đến 
                rồi đi tự nhiên như những đám mây đến ,đi trong bầu trời - hình 
                ảnh rất quen thuộc với tất cả chúng ta . Những đám mây không 
                phải là bầu trời, và không ‘thuộc về’ bầu trời, chúng chỉ lơ 
                lửng giữa không gian và không lệ thuộc vào đâu ,nhưng chúng 
                không bao giờ có thể để lại dấu vết làm lấm lem bầu trời trong 
                sáng . 
 
                - 
                Vị thầy Tây Tạng 
                Sogyal Rinpoche còn phân tích rõ ràng hơn khi phân biệt ‘Tâm và 
                tự tánh của Tâm’ : có nhiều phương diện của Tâm , nhưng hai 
                phương diện nổi bật nhất đó là ‘cái Tâm thông thuờng’ (Sem) và 
                ‘Tâm bản nhiên’ (Rigpa) ‘Tâm thông thường’ là cái tâm có khả 
                năng phân biệt, có ý thức về nhị nguyên ( tốt-xấu ,yêu -ghét, 
                lấy -bỏ v..v..) .Đó là cái tâm suy nghĩ, đạt kế hoạch ,ham muốn, 
                cái tâm bừng lên trong cơn giận dữ, cái tâm tạo ra những đợt 
                sóng say mê hay tư duy và cảm xúc tiêu cực , cái tâm cứ luôn 
                luôn quyết định, đánh giá, và xác định sự hiện hữu cuả nó bằng 
                cách cắt xén, đặt tên củng cố kinh nghiệm v..v.. Còn cái ‘tâm 
                bản nhiên’ là cái tuyệt đối không dính dáng tới đổi thay và chết 
                chóc ( thường còn và không sinh diệt) ; đó là sự tỉnh giác trong 
                sáng uyên nguyên của trí tuệ giải thoát ,có tính sáng chói và 
                luôn luôn tỉnh thức . Đừng tưởng rằng ‘tâm bản nhiên’ chỉ có 
                trong tâm ta mà thôi; kỳ thực nó là bản chất của mọi sự vật , vì 
                vậy, trực nhận bản tính tự nhiên của Tâm cũng chính là trực nhận 
                bản tính tự nhiên của mọi sự vật, hiện tượng . Sogyal còn bảo 
                rằng ‘tâm bản nhiên ‘ này là ‘Thượng Đế’ đối với người Ky Tô và 
                Do Thái giáo, là ‘đại ngã’ hay ‘Shiva’ hay ‘Brahman’ hay 
                ‘Vishnu’ của Ấn Độ giáo, là ‘Tinh chất ẩn nấp’ đối với những nhà 
                thần bí học ‘Sufi’ -còn Phật tử thì gọi là ‘Phật tính’ ((9)
                
 
                - 
                Bài học ở đây là 
                chúng ta thực tập sống tỉnh thức để không bị tâm bình thường lôi 
                kéo theo thất tình lục dục, cân đo đong đếm, tính toán thiệt hơn 
                v..v.. mà sống gần với bản tâm thanh tịnh ,nhìn mọi sự vật, hiện 
                tượng trong cuộc đời như một tấm gương trong sáng , phản ánh 
                trung thực ‘như-nó-là’ ( as-it-is) không thêm bớt, vẽ vời, suy 
                diễn v..v.. vì theo Sogyal Tâm Phật (hay Phật tính, hay Tâm Bất 
                Sinh v..v..) luôn luôn hoàn hảo; ‘ngay cả chư Phật với trí tuệ 
                vô biên cũng không thể làm cho nó tốt hơn được và chúng sanh với 
                tất cả vô minh có vẻ bất tận ,cũng không thể làm cho nó lấm lem’
                
 
                - 
                Để kết luận , xin 
                mượn lời của Thầy Sogyal xác định ‘chỗ ở’ của tâm : (10) 
                
 
                - 
                ‘Vậy thì Tâm- Phật 
                tính- đích thực nằm ở đâu ? - nó nằm ngay nơi tự tính của tâm , 
                cái tự tính được ví như bầu trời ấy . Hoàn toàn cởi mở ,tự do, 
                vô biên . Phật tính ấy thật đơn giản, tự nhiên như nhiên tới nỗi 
                không bao giờ có thể trở thành phức tạp, ,hư hỏng hay bị nhiễm ô 
                , nó thuần tịnh tới nỗi vượt ra ngoài cả ý niệm dơ sạch . . . 
                nhưng nói về tự tánh tâm ví như bầu trờI chỉ là một ẩn dụ để 
                giúp ta tưởng tượng được tính chất bao la vô biên bao trùm tất 
                cả của nó nhưng Phật tính còn có một tính chất mà bầu trời không 
                có được, đó là tính sáng chói của tỉnh thức , biết nhận thức mà 
                vẫn trống rỗng, giản đơn mà sáng suốt : 
 
                - 
                Sinh tử không làm nó 
                xấu hơn 
 
                - 
                Niết bàn không làm nó 
                tốt hơn 
 
                - 
                Nó chưa từng sinh
                
 
                - 
                Nó chưa từng diệt
                
 
                - 
                Chưa từng giải thoát
                
 
                - 
                Chưa từng mê lầm
                
 
                - 
                Chưa từng có, cũng 
                chưa từng không 
 
                - 
                Nó không có một giới 
                hạn nào 
 
                - 
                Không thể xếp nó vào 
                một phạm trù nào cả 
 
                - 
                . . . 
 
                - Chú 
                thích: 
 
                - 
                (1) Thiền Luận Suzuki 
                , quyển Thượng, Trúc Thiên dịch , chú ,1992, tr. 374 
                
 
                - 
                (2) Tạng Thư Sống 
                Chết , Sogyal Rinpoche ,quyển 1 , ni sư Trí Hải dịch , 1996 
                tr.124 
 
                - 
                (3) Kinh Pháp Bảo Đàn
                
 
                - 
                (4) Tâm Bất Sinh , 
                Bankei ,ni sư Trí hải dịch , 1997 , tr. 36-37 
 
                - 
                (5) Tâm Bất Sinh , 
                tr. 164-165 
 
                - 
                (6) Thiền Luận Suzuki 
                tr. 376 
 
                - 
                (7) Tâm Bất Sinh ,tr. 
                145-146 
 
                - 
                (8) Thiền Luận Suzuki 
                ,tr. 377 
 
                - 
                (9) Tạng Thư Sống 
                Chết, tr. 117-119 
 
                - 
                (10) Tạng Thư Sống 
                Chết ,tr. 122 
 
               
              
              
                - --o0o--
 
               
              
              
             
             | 
   
           
               
       
       |