| 
           
      
  
           
                
            
              
              
                - Thư Viện Chùa Dược Sư
 
                - PHẬT HỌC CƠ BẢN
 
                  
               
              
              
                
                   
                  - THỰC TẠI TÍNH KHÔNG
                  
 
                  
                
                
                   
                  - ĐƯỢC 
                  NHÌN NHẬN
                  
                  QUA 
 
                  
                
                
                   
                  - HAI 
                  BÌNH DIỆN CỦA BIỂU TỪ
 
                  
                
                
                   
                  - Thích 
                  Tâm Thiện
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  --o0o--
 
                  
                
                - 
                 
 
                - 
                Lời dẫn
                
 
                
                - 
                Một trong những điểm 
                giáo lý quan trọng của Phật giáo Phát triển là Thực Tại Tánh 
                Không – một hệ thống giáo lý thường được bàn cải bởi các nhà 
                luận lý học. Người ta thường hiểu nhầm một cách vô tình hoặc cố 
                ý rằng Tánh Không được xem như là một loại hư vô luận, một loại 
                triết lý mang tính cách phủ định (phủ định luận) … ; và dĩ 
                nhiên, trong lúc được giải minh theo xu hướng hư vô không tận 
                đó, Tánh Không thường bị phê phán như là một thứ triết lý mông 
                lung không hơn, không kém. Tuy nhiên, tại sao một giáo thuyết 
                quan trọng  như thế lại thường bị hiểu nhầm ? Phải chăng điều 
                này bắt nguồn từ một quá trình diễn dịch và diễn dịch khoong 
                chisnh xác ? Sự thể như thế nào, trong phạm vi của bài viết này, 
                chúng tôi xin trình bày giáo thuyết về Tánh Không được nhìn nhận 
                từ hai bình diện biểu từ của nó theo thể cách của luận lý học .
                
 
                
                - 
                Về thuật 
                ngữ 
 
                
                - 
                Tánh Không tiếng Phạn 
                gọi là Sùnyatà. Đây là một từ hợp biến của hai âm : sùnya và tà. 
                Sùnya có nghĩa là không, là rỗng; tà là tiếp vĩ ngữ (tiếng hợp 
                âm để biến thành danh từ) . Theo ngữ căn, thì từ sùnya được phát 
                sinh từ động từ svi, có nghĩa là phồng lên, sưng lên…Ở đây, hễ 
                cái gì phồng lên bên ngoài–như bong bóng chẳng hạn- thì bên 
                trong nó bao giờ cũng rỗng không. Do đó, sùnyatà được hiểu như 
                là tính cách của trương độ (sự phồng lên) nó luôn luôn bao gồm 
                hai mặt : bên trong và bên ngoài; hễ bên ngoài phồng lên thì bên 
                trong rỗng. 
 
                
                - 
                Tuy nhiên, có lẽ do 
                một lý do nào đó, hoặc không có sự tương đương trong ngôn ngữ 
                phương Tây, nên sùnyatà thường được dịch chỉ có một chiều- đó là 
                sự rỗng không. Như trong tiếng Anh, sùnya được dịch là empty hay 
                void, và tà được dịch là ness, kết hợp giữa hai từ này (sùnya + 
                tà= sùnyatà) sùnyatà được dịch là emptiness, voidness, hay 
                nothingness … Và tất cả những từ trên đều có nghĩa là sự trống 
                không, sự rỗng tuếch, sự không có gì cả…  
 
                
                - 
                Mâu 
                thuẫn cho sự nhận thức 
 
                
                - 
                Từ những cách diễn 
                dịch như trên, một số mâu thuẫn thường xuất hiện trong nhận thức 
                của chúng ta khi nói đến sự rỗng không. Có thể đề cập đến một 
                vài mâu thuẫn cơ bản như sau: 
 
                
                - 
                Trước hết, khi 
                sùnyatà, qua ngôn ngữ phương Tây như vừa trình bày, được hiểu 
                như một loại hư vô luận, đại khái như thế, điều đó khiến ta luôn 
                bị ám ảnh một cách trực diện rằng thế giới này thực tại này là 
                rỗng không, nó mang đặc tính Không; và những gì xuất hiện lồ lộ 
                trước mắt chúng ta đều được xem là không. Một sự phán quyết như 
                thế quả là rất cưỡng ép và rất có thể bị phê phán bởi nhận thức 
                thông thường. Vì lẽ, đối tượng của nhận thức như  sông, suối, 
                núi, đồi, cái bàn, cái ghế, đàn ông, đàn bà…trước mắt chúng ta 
                là những gì được xem như là hiện thực không thể chối bỏ. Đấy 
                chính là sự hiện diện của thế giới thực tại khách quan, một thế 
                giới xuất hiện giữa muôn ngàn sai biệt, mà dù muốn hay không, 
                thế giới đó (thế giới mà chúng ta đang sinh sống) vẫn luôn luôn 
                đối tượng của nhận thức.  
 
                
                - 
                Thế rồi, khi sùnyatà 
                được hiểu như là bản chất của thế giới thực tại hay còn gọi là 
                thực tại rỗng Không; và cảnh giới thực tại rỗng Không đó nếu 
                được xem là đồng nghĩa với Niết bàn thì lập tức mâu thuẫn sẽ 
                xuất hiện .Vì hầu hết các giáo thuyết về Niết bàn thường gợi lên 
                một sự tương đồng với cảnh giới Không thông qua các khái niệm 
                như : tịch diệt, vô tướng, bất sinh…Tuy nhiên trên thực tế, Niết 
                bàn, theo như quan niệm thông thường, là cảnh giới tối thượng 
                của bậc Thánh trí, do đó hẳn không thể nói Niết bàn là đồng nhất 
                với sự rỗng không. Vì nếu Niết bàn đồng nhất là với  rỗng không 
                thì Niết bàn chẳng khác gì một loại hư vô, như hư không, không 
                có bất kỳ một giá trị tâm chứng nào và cũng không cần thiết phải 
                bàn đến. 
 
                
                - 
                Từ đó, nếu sùnyatà 
                chỉ được hiểu là sự rỗng không, một sự rỗng không từ ngôn từ cho 
                đến ý nghĩa, từ lý tưởng cho đến thực tại, thì quả thực sùnyatà 
                là một giáo thuyết vô nghĩa, và tất nhiên nó có thể được xem như 
                là một thứ hư vô luận, một thứ phủ định luận cực đoan. Nhưng 
                không ! Sùnyatà không phải là như thế. Vậy phải hiểu nó theo ý 
                nghĩa nào ? 
 
                
                - 
                Tính 
                cách hai mặt của biểu từ 
 
                
                - 
                Ở đây, trước hết như  
                cách gọi của một số nhà Phật học (Trung Hoa và Việt Nam), 
                sùnyatà là Tánh Không. Và tánh Không, như đã trình bày ở phần 
                thuật ngữ, là một danh từ dùng để cắt nghĩa thuộc tính của thế 
                giới sự vật hiện tượng dựa trên hai tính chất : nội hàm và ngoại 
                diên. Tỉ dụ, như bọt nước, bên ngoài (ngoại diên) của nó thì 
                phồng lên, bên trong ( nội hàm) của nó thì rỗng không . Từ một 
                cách diễn đạt mang tính biểu tượng như thế, chúng ta bắt đầu 
                quan sát chính cơ thể của mình cũng như thế giới thực tại chung 
                quanh mình.  
 
                
                - 
                Tâm kinh nói rằng " 
                yah rùpam sa sùyatà"- hễ cái gì là sắc thì cái đó là không. Ở 
                đây, sắc ( gồm sắc biểu hiện và sắc không biểu hiện 1) về cơ bản 
                là sự thể mang tính vật  chất  được cấu thành từ các hợp chất, 
                như hydro cộng oxy để tạo thành nước (H2O) . Hoặc, 
                như cơ thể con người, nhìn bên ngoài thì nó là một khối cấu 
                thành bằng xương bằng thịt, nhưng bên trong tận cùng cốt tủy thì 
                nó vẫn là rỗng không. Cho đến tất cả hiện hữu trong thế giới sự 
                vật hiện tượng này, nếu được nhìn từ điểm cực nhỏ -như  sự vật 
                được nhìn xuyên qua kính hiển vi – thì chúng đều là rỗng không. 
                Tuy nhiên, cái gì rỗng không ở đây? Đấy chính là cái tự tính 
                (svabhàva) rỗng không. Nghĩa là mọi sự thể đều được hình thành 
                qua duyên hội ( kết hợp bởi nhiều yếu tố ), và những gì được 
                hình thành từ duyên hội2, thì chúng đều rỗng không, không có bất 
                kỳ một tự tính nào mang tính cách độc lập, vĩnh hằng. 
                
 
                
                - 
                Do đó, Tánh Không 
                không có nghĩa là không có gì hay là hư vô không tận, mà trên ý 
                nghĩa cơ bản  nhất, nó là sự phủ định cái tự tính cá biệt vốn 
                được xem là một thực thể bất biến, là nguyên động lực cấu thành 
                nên tự ngã. Hay nói khác hơn, nó khẳng định cái tự tính của pháp 
                là Không, là tự tính Không, làVô tự tính (nihsvabhàva) hay không 
                có tự tính. Đây là những gì cần thiết được chuẩn hóa cho biểu từ 
                sùnyatà. 
 
                
                - 
                Giáo 
                thuyết về tánh Không 
 
                
                - 
                Từ một vài trưng dẫn 
                trên, ta có thể thấy rằng, những gì được Phật nói ra đều mang 
                tính cách hai mặt, bản chất và hiện tượng, công ước và tuyệt 
                đối…Đây là thể cách thuyết giáo của Phật trong suốt cuộc đời 
                truyền giáo của Ngài. Vì lẽ, để giúp chúng sinh nhận diện được 
                chân lý, Phật phải dùng đến phương tiện. Chân lý tự thân nó là 
                bất khả thuyết, những gì chúng ta nói về chân lý đều không phải 
                là chân lý chính nó. Cũng như yêu thương, chúng ta có thể nói về 
                nó, nhưng những gì chúng ta nói về  yêu thương thì không phải là 
                sự yêu thương chính nó. Yêu thương là gì? Thực chất nó không 
                phải ở trong lời nói , mà trái lại, nó chỉ có thể được biểu hiện 
                trong im lặng và trong hành động mà thôi. Nhưng ở đây, nếu chân 
                lý không được nói ra thì chân lý sẽ không được nhận biết; vậy 
                làm sao để hóa độ chúng sinh ? Vì lẽ đó, các nhà Phật học đã 
                dùng đến thành ngữ ngón tay chỉ mặt trăng 3để diễn đạt phương 
                tiện thuyết giáo của Phật. Đây cũng là lý do tại sao Tăng Duệ, 
                trong bài tựa viết cho trung Luận, bảo rằng :" Thực phi danh bất 
                ngộ, ngôn phi thích bất tận".  
 
                
                - 
                Trên cơ sở này, chúng 
                ta thấy tại sao sùnyatà cần phải được hiểu thông qua biểu từ 
                trương độ = sự phồng lên. Và nói về thực tại tính Không, Ngài 
                Long Thọ (nagarjuna) trong Trung Luận bảo rằng: " Chúng nhân 
                duyên sinh pháp, ngã thuyết tức thị không, diệc vi thị giả danh, 
                diệc thị trung đạo nghĩa " – các pháp do nhân duyên mà sinh ra, 
                nên bảo rằng nó là không, là giả danh, và cũng là Trung đạo. Do 
                đó, khi thế giới thực tại tánh Không này phải được nhìn từ hai 
                mặt : Giả danh và Trung đạo. Ở đây cần ghi nhận rằng, giả danh 
                là một tên gọi lâm thời cho một sự thể mà không phải là tên gọi 
                cho bản chất của một sự thể. Tỉ dụ, mây, mưa, hơi nước, nước… 
                những sự thể này, những tên gọi này đều mang tính cách lâm thời 
                nên chúng được gọi là giả danh. Tương tự như thế đối với con 
                người và thế giới. Và trung đạo là chân lý của hai bình diện : 
                tương đối(samvriti) và tuyệt đối( paramàtha). Đấy là một loại 
                chân lý, theo quan điểm của các nhà Đại thừa, là bất khả phân 
                ly, một loại chân lý" hãy tìm Niết bàn trong sinh tử ".  
                
 
                
                - 
                Như thế Không không 
                có nghĩa là rỗng không, mà Không ở đây là do duyên khởi nên các 
                pháp hình thành và không mang theo một bản tính cá biệt nào; 
                pháp hình thành trong tương quan của nhận thức nên chúng được 
                gọi tên, tên đó là giả danh, vì tên gọi chỉ có trong nhất thời, 
                khi sự vật thay đổi ( như từ mây sang nước) thì tên gọi không 
                còn ý nghĩa nữa. Và, pháp xuất hiện trong Duyên khởi và giả danh 
                nên chúng được gọi là Không và cũng làTrung đạo. Đây là những gì 
                cần ghi nhận về biểu từ   sùnyatà trên góc độ nhận thức luận 4. 
                
 
                
                - 
                Kết  
                Luận: 
 
                
                - 
                Tóm lại, chúng ta 
                thấy rằng, để hiểu rõ thuật ngữ tánh Không, luôn luôn đòi hỏi ở 
                đây một bối cảnh nhận thức bao gồm nhận thức về Không, Duyên 
                khởi về Giả danh và về Trung đạo. Nếu thiếu một trong bốn yếu tố 
                này thì tánh Không khó được giải minh một cách toàn diện. Tuy 
                nhiên , qua phân tích là như thế, song cả Không, Duyên khởi, Giả 
                danh và Trung đạo luôn luôn thống nhất với nhau hoặc trong bản 
                chất hoặc trong hiện tượng . Nghĩa là, khi nói đến tánh Không, 
                chúng ta đồng thời phải nói đến Duyên khởi, Giả danh và Trung 
                đạo. Đay chính là hai bình diện chân lý của công ước và tuyệt 
                đối. 
 
                
                - 
                Duyên khởi + Giả danh 
                = Không  
 
                
                - 
                Không = Giả danh + 
                Duyên khởi 
 
                
                - 
                 
 
                - 
                Chú 
                thích : 
 
                
                - 
                1 Xem Tâm Lý Học Phật 
                giáo, cùng tác giả. 
 
                - 
                2 Từ này được dùng 
                đồng nghĩa với Duyên Khởi (Pratityasamupada) 
 
                - 
                3 Xem Vấn đề cơ bản 
                của triết học Phật giáo, cùng tác giả. 
 
                - 
                4 Bài viết này chỉ đề 
                cập đến biểu từ sùnyatà theo thể cách nhận thức  thông thường 
                chứ không đề cập đến vấn đề thể nhập thực tại tính Không .
                
 
               
              
              
                - --o0o--
 
               
              
              
             
             | 
   
           
               
       
       |