| 
           
      
  
           
                
            
              
              
                - Thư Viện Chùa Dược Sư
 
                - PHẬT HỌC CƠ BẢN
 
                  
               
              
              
                
                   
                  - GIỚI 
                  THIỆU ĐẠO PHẬT
 
                  
                
                
                   
                  - Tỳ 
                  Kheo Bodhicitto
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  --o0o--
 
                  
                
                - 
                 
 
                - 
                Trong 45 năm hoằng 
                pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng 
                dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã 
                quy y với Ngài, trở thành các tu sĩ nam và nữ hoặc các đệ tử cư 
                sĩ. Trong một thời gian dài như thế và với rất nhiều đệ tử có 
                nhiều nguồn gốc khác nhau, Ngài đã để lại một kho tàng các lời 
                giảng quý báu với nhiều chủ đề, công dụng khác nhau. Tuy nhiên, 
                cốt tủy của các lời giảng đó lúc nào cũng giống nhau: 
                
 
                
                - 
                --"Nầy chư Tỳ kheo, 
                bây giờ cũng như trước đây, Như Lai chỉ dạy về Khổ và Con đường 
                Diệt khổ".
 
                
                - 
                Đức Phật
 
                - 
                Danh từ "Buddhism" là 
                một danh từ phương Tây dùng để gọi tập hợp các lời dạy của Đức 
                Phật, để gọi một tôn giáo xây dựng trên nền tảng của các lời dạy 
                đó. Tuy nhiên, tại các quốc gia Nam Á và Đông Nam Á, danh từ 
                nguyên thủy thường dùng là "Buddha-Sasana", có nghĩa là lời dạy 
                của Đức Phật, hay Phật Giáo.
 
                
                - 
                "Buddha", Phật-đà, 
                không phải là tên riêng. Đó là một quả vị, có nghĩa là người 
                Giác ngộ (Giác giả), người Tỉnh thức, hoặc là người Biết như 
                thật. Tên riêng của Đức Phật là Sĩ-đạt-đa Cồ-đàm (Siddhattha 
                Gotama). Tuy nhiên, ngày nay có rất ít người dùng tên gọi nầy. 
                Chúng ta thường gọi Ngài là Đức Phật, hoặc Đức Phật Cồ-đàm.
 
                
                - 
                Đức Phật sống vào 
                khoảng 25 thế kỷ trước tại vùng Bắc Ấn độ. Ngài sinh ra là một 
                vị hoàng tử của vương quốc Thích-ca (Sakya) tại vùng chân núi Hy 
                mã lạp sơn, ngày nay thuộc nước Nepal. Ngài sống trong nhung 
                lụa, có một thời niên thiếu cao sang, kết hôn với công chúa 
                Da-du-đà-la (Yasodhara), và có một người con trai tên là 
                La-hầu-la (Rahula).
 
                
                - 
                Đời sống nhung lụa đó 
                không che được mắt của một người hiền triết và thông minh như 
                Ngài. Mặc dù vị vua cha đã gắng công tạo các thú vui giải trí để 
                Ngài đắm say vào các cảnh vui sướng trong hoàng cung, Ngài 
                Sĩ-đạt-đa cũng bắt đầu nhận thức được bề mặt đen tối của cuộc 
                đời, nỗi khổ đau của đồng loại và tính chất vô thường của mọi sự 
                việc.
 
                
                - 
                Một lần nọ, khi Ngài 
                đánh xe ngựa dạo chơi trên đường phố, Ngài thấy được bốn cảnh 
                vật làm thay đổi các tư duy của Ngài. Ngài thấy một cụ già run 
                rẩy, một người bệnh rên siết, và một tử thi sình thối. Ba cảnh 
                nầy khiến Ngài suy nghĩ rất nhiều và quyết tâm tìm một phương 
                cách để giúp nhân loại và để tìm một ý nghĩa chân thật của đời 
                sống. Cảnh vật thứ tư là cảnh của một vị du tăng bình an tĩnh 
                lặng đã khiến cho Ngài có một niềm hy vọng là đó có thể là một 
                con đường để tìm ra Chân Lý, thoát khỏi hoạn khổ.
 
                
                - 
                Vào lúc 29 tuổi, thái 
                tử Sĩ-đạt-đa rời hoàng cung, rời gia đình vợ con, gia nhập đời 
                sống của một đạo sĩ khất thực trong 6 năm, đi tìm con đường diệt 
                khổ. Vào đêm trăng rằm tháng Tư, khi ngồi thiền dưới cội cây Bồ 
                đề ở Gaya, 
                Ngài tìm được lời giải đáp và giác ngộ. Lúc đó, Ngài được 35 
                tuổi. Đấng Giác Ngộ giờ đây được gọi là Đức Phật. Ngài đi đến 
                Sa-nặc (Sarnath) gần thành phố Ba-na-lại (Benares) và thuyết 
                giảng bài pháp đầu tiên - Chuyển Pháp Luân - tại khu vườn nai 
                (Lộc Uyển). Trong 45 năm tiếp theo, Ngài du hành từ nơi nầy sang 
                nơi khác, giảng dạy về con đường giác ngộ cho những ai hữu duyên 
                và sẵn sàng tu học, và Ngài thành lập một giáo đoàn các vị tỳ 
                kheo (nam tu sĩ) và tỳ kheo ni (nữ tu sĩ) thường được gọi là 
                Tăng đoàn (Sangha).
 
                
                - 
                Trong suốt cuộc đời 
                hoằng hóa, dù phải đối phó với nhiều trở ngại, Đức Phật lúc nào 
                cũng giữ một phong thái an nhiên tự tại, và ngay cả trong giờ 
                phút lâm chung, Ngài vẫn bình thản cho dù thân xác đã suy yếu. 
                Ngay trong giờ phút cuối cùng đó, Ngài vẫn tiếp tục giảng dạy và 
                khuyên bảo các đệ tử để họ tiếp tục tu tập theo giáo pháp của 
                Ngài: --"Nầy các tỳ kheo, Như Lai khuyên quý vị rằng mọi pháp 
                hữu vi đều vô thường, quý vị hãy tinh tấn với chánh niệm". Đó là 
                những lời cuối cùng của đức Phật, và Ngài nhập diệt vào năm 80 
                tuổi, trong năm 543 trước Công Nguyên.
 
                
                - 
                Mặc dù giờ đây đã hơn 
                2 500 năm từ khi Đức Phật nhập Đại Niết bàn, lời dạy của Ngài, 
                hay là Phật Pháp (Dhamma), vẫn còn hữu ích cho chúng ta và Giáo 
                Pháp đó chính là vị Thầy của chúng ta. Tăng đoàn là cộng đồng 
                những người quyết tâm học hỏi, thực hành và truyền dạy Chánh 
                Pháp, đã nhận ngọn đuốc từ vị Thầy khai sáng và tiếp tục truyền 
                giữ ngọn đuốc đó qua nhiều quốc độ và nhiều thế kỷ. Ba yếu tố 
                nầy -- Đức Phật, người khai sáng đạo; Pháp, lời dạy của Ngài; và 
                Tăng, cộng đồng các tu sĩ -- lập thành Tam Bảo mà các Phật tử 
                tôn kính, và cũng là Ba Nơi Nương Tựa (Tam Quy Y) để hướng dẫn 
                người con Phật trên Con đường đưa đến hạnh phúc và an lành tối 
                hậu. Mỗi năm, vào ngày rằm tháng Tư âm lịch (ngày Vesakha), hằng 
                triệu tín đồ Phật giáo -- trong truyền thống Nguyên thủy -- trên 
                toàn thế giới cùng nhau cử hành đại lễ Tam Hợp, kỷ niệm ngày 
                sinh (Phật Đản), ngày Thành Đạo, và ngày Đại Niết Bàn của người 
                Cha Lành kính yêu.
 
                
                - 
                Căn bản đạo Phật
 
                - 
                Các ý tưởng chính yếu 
                của đạo Phật được thu gồm trong Bốn Sự Thật Cao Quý (Tứ Diệu Đế) 
                và Con Đường Trung Dung (Trung Đạo) mà Đức Phật đã giảng trong 
                bài pháp đầu tiên tại vườn nai sau ngày thành đạo. Bốn sự thật 
                đó là:
 
                
                - 
                1. Sự thật về Khổ 
                (Khổ đế): Đây là sự thật về các vấn đề của đời sống, qua sinh, 
                già, bệnh, và chết, và những ưu sầu, thất vọng. Dĩ nhiên những 
                điều nầy là bất toại ý và người ta luôn cố gắng tránh né, không 
                muốn dính vào chúng. Hơn thế, tất cả những việc gì trên đời, do 
                các điều kiện mà có, thường có mầm mống đau khổ vì chúng không 
                thường tồn, chỉ tạm bợ, xung khắc và giả tạo, không có một chủ 
                thể lâu bền. Chúng tạo sầu khổ và thất vọng cho những ai vì vô 
                minh mà chấp chặt vào chúng. Những ai muốn tự do thoát khỏi các 
                khổ đau cần có một thái độ đúng đắn, một tri kiến và trí tuệ để 
                nhìn mọi sự vật trên đời. Cần phải học tập để nhận định sự vật 
                đúng theo bản chất của chúng. Các sự cố bất toại ý của đời sống 
                cần phải được quán sát, nhận định và thông hiểu.
 
                
                - 
                2. Sự thật về Nguồn 
                gốc của Khổ (Tập đế): Trong sự thật nầy, Đức Phật quán xét và 
                giải thích sự khởi sinh của hoạn khổ từ nhiều nguyên nhân và 
                điều kiện. Đây là sự thật sâu xa về luật Nhân-Quả và Duyên 
                Nghiệp. Tất cả các loại hoạn khổ trên đời đều bắt nguồn từ lòng 
                tham thủ, và các tham muốn ích kỷ đều bắt nguồn từ si mê, vô 
                minh. Vì không biết rõ bản chất thật sự của mọi đối tượng trên 
                đời nên con người tham muốn chiếm đoạt và làm nô lệ chấp chặt 
                vào chúng. Vì các tham muốn đó không bao giờ được thỏa mãn và 
                qua những phản ứng không thích nghi, họ lại tạo ra sự buồn khổ 
                và thất vọng cho chính họ. Từ các tham thủ biểu hiện qua lời 
                nói, cử chỉ hoặc trong tâm ý, họ tạo ra các nghiệp hành gây đau 
                khổ cho chính họ và cho người khác, và đau khổ đó ngày càng 
                chồng chất.
 
                
                - 
                3. Sự thật về sự Diệt 
                Khổ (Diệt đế): Đây là sự thật về mục đích của người con Phật. 
                Khi vô minh hoàn toàn được phá tan qua trí tuệ chân thật và khi 
                lòng tham thủ và ích kỷ bị hủy diệt và thay thế bằng thái độ 
                đúng đắn của từ bi và trí tuệ, Niết Bàn -- trạng thái của an 
                bình tối hậu, hoàn toàn giải thoát khỏi mọi khổ đau và lậu hoặc 
                -- sẽ được thực chứng. Đối với những ai vẫn còn đang tu tập, 
                chưa đến giải thoát rốt ráo, họ sẽ thấy rằng khi sự vô minh và 
                tham thủ được giảm thiểu thì các phiền não cũng theo đó mà giảm 
                thiểu. Khi đời sống của họ được hướng về từ bi và trí tuệ, đời 
                sống đó sẽ tạo ra nhiều hạnh phúc và an lành cho chính họ và 
                những người chung quanh.
 
                
                - 
                4. Sự thật về Con 
                đường đưa đến tận diệt Khổ đau (Đạo đế):Đây là sự thật về con 
                đường hành đạo của mọi Phật tử, là đường hướng sinh hoạt của 
                người con Phật, bao gồm các căn bản chính yếu của lời Phật dạy 
                và đường lối thực hành để tiến đến Niết Bạn, giải phóng khỏi mọi 
                ràng buộc vào cuộc sống luân hồi trong thế gian. Con đường nầy 
                gọi là Con Đường Tám Chánh (Bát Chánh Đạo), gồm có 8 yếu tố chân 
                chánh và chia thành 3 nhóm (Tam vô lậu học, 3 nhóm học để diệt 
                trừ phiền não):
 
                
                - 
                - Giới: Chánh ngữ, 
                Chánh nghhiệp, Chánh mạng
 
                
                - 
                - Định: Chánh tinh 
                tấn, Chánh niệm, Chánh định
 
                
                - 
                - Tuệ: Chánh kiến, 
                Chánh tư duy
 
                
                - 
                Theo sự thật nầy, một 
                đời sống tốt đẹp không phải chỉ do gắng công cải thiện các yếu 
                tố ngoại vi liên quan đến xã hội và thiên nhiên. Cần phải phối 
                hợp với sự tu tập và cải thiện bản thân như trình bày qua Bát 
                Chánh Đạo, có liên quan đến việc giữ gìn giới hạnh, huân tập tâm 
                ý, và khai phát trí tuệ. Nói cách khác:
 
                
                - 
                - Không làm điều gì 
                gây đau khổ cho mình và cho người khác;
 
                
                - 
                - Nuôi dưỡng điều 
                thiện tạo an vui cho cá nhân và cho mọi người; và
 
                
                - 
                - Thanh lọc tâm ý, 
                loại trừ những bợn nhơ của tham lam, sân hận, và si mê.
 
                
                - 
                Con đường Tám Chánh 
                nầy gọi là Trung Đạo, vì đây là một đường lối thăng bằng, không 
                có những cực đoan của sự hành hạ xác thân hoặc nô lệ dục lạc. 
                Đây là con đường duy nhất để giác ngộ giải thoát. Đức Phật dạy 
                rằng nơi nào các đệ tử của Ngài luôn gắng công hành trì trên con 
                đường nầy thì nơi đó sẽ không bao giờ thiếu vắng các bậc thánh 
                trí giác ngộ. Sự phân tích thành 8 yếu tố hoặc 3 nhóm tu học là 
                để cho dễ hiểu. Tuy nhiên, các yếu tố đó cần phải được hành trì 
                đồng đều - không thiếu sót một yếu tố nào - để bổ sung, hỗ trợ 
                cho nhau, thì con đường đó mới trọn vẹn và mang đến ích lợi, 
                giải thoát thật sự.
 
                
                - 
                Trên đây là một thái 
                độ sống của đạo Phật, một con đường rộng mở cho tất cả mọi 
                người, không phân biệt màu da, giới tính, giai cấp. Đức Phật 
                tuyên bố rằng mọi người đều bình đẳng, và chỉ được đánh giá qua 
                hành động và phong cách của họ, qua những gì họ suy nghĩ và thực 
                hành, không phải qua màu da và quê quán. Mỗi người lãnh chịu hậu 
                quả về hành động của mình theo luật nhân quả. Mỗi người là chủ 
                của mình. Con đường tu học là con đường tự nỗ lực, không cần các 
                điều cầu xin thần linh hay mê tín dị đoan. Con người có khả năng 
                cải thiện cho đời sống của chính họ và đạt đến mục đích tối hậu 
                qua các cố gắng tinh tấn của chính họ. Ngay cả Đức Phật cũng 
                không bao giờ tuyên bố Ngài là đấng cứu rỗi. Ngài chỉ là người 
                tìm ra Con đường giải thoát, và Ngài chỉ dạy cho chúng ta về con 
                đường đó. Ngài hướng dẫn và khuyến tấn chúng ta, nhưng chúng ta 
                phải tự mình tiến bước trên con đường đó. Khi ta tiến bước được 
                trên những chặng đường thì ta có thể khuyến khích và hướng dẫn 
                những người bạn đồng hành của ta.
 
                
                - 
                Cho những ai đang đi 
                trên con đường thanh lọc bản thân, Đức Phật dạy rằng tri thức và 
                trí tuệ là chìa khóa quan yếu. Trí tuệ chỉ có thể được khai phát 
                qua hành trì thiền quán. Hành giả cần phải quán soi thâm sâu vào 
                nội tâm, để trạch vấn và thông hiểu cho chính mình. Các nguyên 
                tắc của đạo Phật là phải tự mình chứng ngộ, chứ không phải những 
                giáo điều để mù quáng tin theo.
 
                
                - 
                Phương pháp Đức Phật 
                dạy qua Tứ Diệu Đế có thể xem như là những lời dạy của một vị y 
                sĩ: định bệnh (Khổ đế), xác định nguyên nhân của bệnh (Tập đế), 
                mô tả trạng thái khi lành bệnh (Diệt đế), và cách thức trị bệnh 
                (Đạo đế).
 
                
                - 
                Có rất nhiều người ưa 
                thích bàn luận, dò đoán, bình giải về các lời dạy của Đức Phật, 
                qua lăng kính triết lý, luận lý, tâm lý, tâm linh, v.v. Tuy 
                nhiên, đó chỉ là những kiến thức đầu tiên, phiến diện, qua sách 
                vở và suy luận, thường gọi là Văn huệ và Tư huệ. Thêm vào đó, 
                đạo Phật cần phải được thực chứng để phát triển trí tuệ thật sự, 
                gọi là Tu huệ, chứ không phải chỉ để lý luận, tranh cãi suông. 
                Đạo Phật là những hướng dẫn để chúng ta thực hành, tu tập thanh 
                lọc tâm ý, để chúng ta thấy được lợi ích qua kinh nghiệm thực tế 
                của chính bản thân trong đời sống hằng ngày. Đức Phật đã từng 
                dạy rằng:
 
                
                - 
                --"Giáo pháp của Như 
                Lai được giảng rõ ràng, để thực chứng với kết quả hiện tiền, 
                vượt thời gian, mời mọi người đến xem, đưa đến giải thoát, được 
                người trí thông hiểu, tự mỗi người phải thực hiện cho chính 
                mình".
 
                
                - 
                Tỳ 
                kheo Bodhicitto, "Introducing Buddhism"
 
                - 
                (Bình 
                Anson lược dịch, tháng 01-1999. Hiệu đính tháng 02-1999)
 
               
              
              
                - --o0o--
 
               
              
              
             
             | 
   
           
               
       
       |