| 
           
      
  
           
                
            
              
              
                - Thư Viện Chùa Dược Sư
 
                - PHẬT HỌC CƠ BẢN
 
                  
               
              
              
                
                   
                  - 
                  
                  Ba Bài Pháp Về Thiền Quán
 
                  
                
                
                   
                  - Thiền 
                  Sư Mahasi Sayadaw
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  --o0o--
 
                  
                
                - 
                 
 
                - 
                Dưới đây là ba bài 
                pháp ngắn do Ngài Thiền sư Mahasi Sayadaw giảng cho các cư sĩ 
                Phật tử tại vương quốc Nepal trong dịp Ngài sang dự lễ đặt viên 
                đá đầu tiên tại công trường Lâm Tì Ni vào tháng 11 năm 1980.
                
 
                - 
                Các 
                bài nầy do Bình Anson trích dịch từ quyển: "Mahasi Abroad -- 
                Lectures by Venerable Mahasi Sayadaw, 1980", Second Edition, 
                Buddhasasana Association, Myanmar, 1993.
                
 
                - 
                 
 
                
                   
                  - 
                  Bài Pháp Thứ Nhất
 
                  
                
                
                   
                  -  
 
                  
                
                
                   
                  - Giáo 
                  Pháp Của Đức Phật
 
                  
                
                
                   
                  - Thiền sư Mahasi Sayadaw
 
                  
                
                
                   
                  - Bình Anson lược dịch
 
                  
                
                
                   
                  - (Sau đây là một 
                  bài pháp ngắn của ngài Thiền sư giảng tại Nepal năm 1980)
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  -oOo-
 
                  
                
                - 
                "Đức Phật thị hiện 
                trên đời vì hạnh phúc của chư thiên và nhân loại" (Sutta Nipata 
                -- Kinh Tập)
 
                - 
                Có 
                nhiều chu kỳ thế giới mà trong đó Đức Phật chỉ xuất hiện trong 
                một vài tăng-kỳ (kappa). Trong những tăng kỳ mà Đức Phật xuất 
                hiện, có khi có hai, ba hay bốn Đức Phật xuất hiện trong cùng 
                một tăng kỳ, mà cũng có tăng kỳ chỉ có một Đức Phật. Trong 
                tăng-kỳ hiện tại, chỉ có tối đa là năm Đức Phật xuất hiện. Trong 
                đó, Đức Phật Di Lặc chỉ xuất hiện sau nhiều triệu năm khi Giáo 
                Pháp hiện nay của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni biến mất. Các lời dạy 
                của chư Phật đã xuất hiện từ trước trên thế gian này cũng biến 
                mất sau hằng trăm ngàn năm hoặc hằng vạn năm, sau khi chư Phật 
                nhập Bát Niết-bàn. Thời gian mà Giáo Pháp lưu hành trên thế gian 
                thay đổi theo từng thời kỳ, và có những thời kỳ đen tối không có 
                một Giáo Pháp nào cả. Theo các Chú giải, Giáo Pháp hiện nay của 
                Đức Phật Thích Ca chỉ kéo dài khoảng 5000 năm trước khi biến mất 
                khỏi thế gian. Bây giờ là 2524 năm (1980 CN) sau khi Đức Phật 
                nhập Niết Bàn. Số người trên thế gian này vốn thông hiểu, chấp 
                nhận và tôn kính Giáo Pháp chân chính ngày càng giảm thiểu. Và 
                chỉ còn khoảng 2500 năm nữa là Giáo Pháp sẽ biến mất. 
                
 
                - 
                Đức Phật Thích Ca Mâu 
                Ni xuất hiện trên địa cầu 25 thế kỷ trước. Trước Ngài, qua nhiều 
                triệu năm, không ai có cơ hội để nghe lời dạy chân chính của 
                Phật, để thông hiểu và hành trì. Con người trong các thời đại 
                đen tối đó là những chúng sinh không có phước duyên; và vì không 
                được nghe và hành theo Chân Pháp, có rất ít người được tái sinh 
                vào các cõi an nhàn và cao thượng.  
 
                - 
                Nghe Pháp và hành 
                theo Pháp 
 
                - 
                Với sự thị hiện của 
                Đức Phật, Chánh Pháp được giảng rộng. Do nghe lời dạy nầy, nhiều 
                người trong thời kỳ Đức Phật còn tại thế đã hành trì theo, làm 
                các nghiệp lành như Bố thí (Dana) và giữ gìn Giới hạnh (Sila), 
                và nhờ đó, họ được tái sinh vào các cõi trời. Rất nhiều người 
                khác đã giác ngộ, đắc quả A-la-hán, và chứng Niết-bàn. Có lẽ là 
                trong thời đó, đa số những người đã được tái sinh vào các cảnh 
                an nhàn hoặc chứng Niết-bàn là những dân cư của xứ Nepal và Ấn 
                Độ, bởi vì Bồ-tát Thái tử Sĩ-đạt-ta đã sinh ra trong xứ Nepal, 
                hành trì Chánh Pháp và thành đạo tại xứ Ấn Độ. Ngài đã hoằng 
                dương Chánh Pháp trong suốt 45 năm tại các vùng đó. Dân cư tại 
                hai quốc gia nầy đã có dịp được nghe và hành trì theo lời dạy 
                của Ngài. Vì thế, trong thời kỳ đó, có rất nhiều người hoặc là 
                được tái sinh vào các cõi trời an nhàn, hoặc đắc các quả Thánh, 
                hoặc chứng đạt Niết-bàn, hoàn toàn giải thoát khỏi các hoạn khổ. 
                  
 
                - 
                Bây giờ chúng ta cũng 
                cần phải hành trì theo Chánh Pháp 
 
                - 
                Mặc dù giờ đây Đức 
                Phật không còn tại thế, chúng ta vẫn là những người may mắn vì 
                chúng ta vẫn có đủ điều kiện để được nghe và học các lời giáo 
                huấn chân chính của Ngài. Vì thế, chúng ta phải thành kính hành 
                trì theo Giáo Pháp chân chính nầy. Các lời giáo huấn chân chính 
                đó là gì?   
 
                - 
                Chánh Pháp của Đức 
                Phật 
 
                - 
                Chánh Pháp của Đức 
                Phật có thể được tóm tắt qua câu kệ sau đây:
 
                - 
                "Không làm các điều 
                ác, 
                
 
                - 
                Gắng làm các điều 
                lành,
 
                - 
                Luôn giữ tâm trong 
                sạch,
                
 
                - 
                Đó là lời dạy của chư 
                Phật." -- (Kinh Pháp Cú, và Trường Bộ)
 
                - 
                Thân nghiệp 
                (Kaya-kamma) 
 
                - 
                Các hành động bất 
                thiện là (1) sát hại chúng sinh, (2) lấy của không cho, hay trộm 
                cắp, và (3) tà dâm. Ba việc này là các hành động bất thiện cần 
                phải luôn tránh.   
 
                - 
                Khẫu nghiệp 
                (Vaci-kamma) 
 
                - 
                Kế đó, bốn ác nghiệp 
                về lời nói là (1) nói dối để làm hại người khác, (2) nói đâm 
                thọc để tạo mối bất hòa, (3) nói lời thô lỗ, hung dữ, và (4) nói 
                về những sự hư ngụy như là chân lý -- liên quan đến sự truyền 
                giảng các tà thuyết. Bốn loại ngôn từ nầy là các khẫu nghiệp bất 
                thiện, cần phải tránh. 
 
                - 
                Tà mạng (Miccha-jiva)
                
 
                - 
                Cần phải tránh các 
                hành động và lời nói hư ngụy để tạo tư lợi bất chính, vì đó là 
                cách sinh sống không thiện lành. Lúc nào cũng phải tuân giữ năm 
                điều giới hạnh để hành trì theo lời Phật dạy là tránh làm các 
                điều ác, và có một đời sống thanh cao, trong sạch.   
                
 
                - 
                Thiện nghiệp (Kusala 
                kamma) 
 
                - 
                Một cách ngắn gọn, 
                thiện nghiệp bao gồm ba yếu tố là Bố thí (Dana), Giới hạnh 
                (Sila), và Tu tâm (Bhavana). Trong các yếu tố nầy, người Phật tử 
                lúc nào cũng phải có một lòng rộng lượng, chia xẻ. Người Phật tử 
                lúc nào cũng có lòng bố thí, sẵn sàng chia xẻ cho người khác 
                những gì mà họ có được, và vì thế, họ được người khác ngợi khen, 
                thương kính. Người nhận của bố thí sẽ có lòng kính mến người làm 
                chuyện bố thí, và họ sẵn sàng hợp tác, giúp đỡ khi hữu sự. Người 
                có lòng quảng đại sẽ tạo nhiều phước báu, và sẽ được tái sinh 
                trong các cõi thiện lành, thanh cao. 
 
                - 
                Giới thiện (Sila 
                kusala) 
 
                - 
                Giới (Sila) có nghĩa 
                là xin nương tựa nơi Tam Bảo Phật-Pháp-Tăng và tuân giữ các điều 
                đạo đức như Ngũ Giới hoặc Bát Giới. Để trở thành Phật tử, chúng 
                ta phát nguyện có lòng thành tín và quy y Tam Bảo và tuân giữ 
                năm giới hoặc tám giới -- thường gọi là "Tam Quy, Ngũ Giới" cho 
                các Phật tử tại gia. Tuân hành theo như thế, chúng ta sẽ có được 
                một sự bảo đảm là trong các kiếp sau, chúng ta sẽ không rơi vào 
                các khổ cảnh như các cõi địa ngục, cầm thú, ngạ quỷ hoặc 
                a-tu-la. Thay vào đó, Phật tử chân chính sẽ có nhiều phước duyên 
                để tái sinh làm người hoặc trong các cõi trời an nhàn để có 
                nhiều dịp tiến tu.   
 
                - 
                Tu thiện (Bhavana 
                kusala) 
 
                - 
                Đây là cách tạo phước 
                cao thượng hơn, qua sự tu lọc tâm trí. Trong Đạo Phật, tu lọc 
                tâm được thực hiện qua pháp hành thiền: hành thiền An chỉ 
                (samatha bhavana) và hành thiền Minh quán (vipassana bhavana). 
                Có một cách nữa thường được gọi là Thánh Đạo Tu Tập (ariya magga 
                bhavana), tu tâm để đi vào con đường Thánh siêu thế. Thiền An 
                chỉ gồm có 40 đề mục: mười đề mục biến xứ (kasina), mười đề mục 
                bất tịnh (asubha), mười đề mục quán tưởng (anussati), và mười đề 
                mục linh tinh.   
 
                - 
                Niệm Phật 
                (Buddhanussati) 
 
                - 
                Trong các đề mục hành 
                thiền, Niệm Phật là phương cách quán tưởng và tôn kính các đức 
                tính cao quí của Đức Phật, bậc ng Cúng -- nghĩa là xứng đáng để 
                được sự tôn kính và cúng dường của chư thiên và nhân loại. Hành 
                trì qua phương cách nầy là như thế nào? Đó là suy niệm và quán 
                tưởng rằng Đức Phật là một đấng cao quí có đầy đủ các phẩm chất 
                thanh cao của Giới hạnh, Thiền định, và Trí tuệ. Khi ta thành 
                tâm tôn kính Ngài, ta sẽ có nhiều phước duyên để được tái sinh 
                vào nhàn cảnh. Ta quán suy về danh hiệu ng Cúng của một bậc giác 
                ngộ. Một đức tính của Ngài là Ngài đã tự mình thực chứng được 
                Bốn Sự Thật Cao Diệu (Tứ Diệu Đế), và đó là một đức tính mà chỉ 
                có Phật mới có được, và ta quí kính Ngài, bậc Chánh Đẳng Giác 
                (Samma Sambuddha). 
 
                - 
                Chính vì Ngài có một 
                trí tuệ siêu việt và có lòng Từ mẫn vô lượng để giảng dạy cho 
                chúng sinh, chỉ cho họ con đường thoát khỏi cõi Ta-bà hoạn khổ, 
                Ngài có đầy đủ phẩm hạnh của một vị Phật, bậc Thế Tôn. Điều nầy 
                cần phải được quán tưởng. 
 
                - 
                Hành trì qua niệm ân 
                đức Phật (Buddhanussati bhavana) cũng được thực hiện bằng cách 
                quán tưởng các phẩm hạnh khác của Ngài. Đối với người con Phật, 
                mỗi khi họ quy ngưỡng và quí kính Ngài, họ thực hành pháp Niệm 
                Phật. 
 
                - 
                Niệm Pháp 
                (Dhammanussati) 
 
                - 
                Tiếp theo, các lời 
                dạy của Đức Phật -- Giáo Pháp -- là kết quả của sự tu tập, hành 
                trì và kinh nghiệm của chính Ngài, và Ngài đã truyền lại một 
                cách đúng đắn, có lợi ích, cho các đệ tử. Nếu những lời dạy đó 
                được hành trì đúng đắn và quí kính, chúng sẽ giúp ta phát triển 
                các trí tuệ minh sát kỳ diệu. Mỗi khi ta quán tưởng đến các ích 
                lợi kỳ diệu về Giáo Pháp của Đức Phật và đặt trọn niềm tin của 
                ta vào đó, ta dưỡng nuôi các nghiệp thiện lành trong dạng Niệm 
                Pháp.   
 
                - 
                Niệm Tăng 
                (Sanghanussati) 
 
                - 
                Ta quán tưởng đến 
                phẩm hạnh cao quí đang được hành trì bởi các vị đệ tử tu sĩ của 
                Ngài, của các vị đệ tử đã đạt đạo quả Thánh, là phương cách quán 
                niệm ân đức Tăng Bảo.   
 
                - 
                Quán lòng Từ (Metta 
                Bhavana) 
 
                - 
                Khi ngay chính ta có 
                ước nguyện muốn thoát cảnh hoạn khổ, người khác cũng có ước 
                nguyện tương tự như thế. Vì vậy, Từ bi quán là thành tâm nguyện 
                cầu hạnh phúc và an lành cho từng chúng sinh và tất cả mọi loài 
                trong sáu cõi luân hồi. 
 
                - 
                Thực hành đề mục Niệm 
                Phật và Quán Từ Bi càng nhiều càng tốt, thường xuyên mỗi ngày, 
                là hành trì theo lời dạy của Đức Phật dành cho hàng cư sĩ tại 
                gia, để tạo nhiều phước lành cao đẹp.   
 
                - 
                Minh quán thiện 
                (Vipassana kusala) 
 
                - 
                Đây là phương cách 
                tạo phước lành qua con đường quán niệm liên tục về đặc tính Vô 
                thường, Bất toại nguyện, và Vô ngã của đời sống, qua các hiện 
                tượng tâm-vật-lý của mỗi người chúng ta, ngay trong chính mình 
                và ở người khác. Đây là đường lối hành thiền theo cách tu tập 
                của Đức Phật để thực chứng trực tiếp tính chất phù du, tạm bợ 
                (sinh rồi diệt) của hệ thống thân-tâm và sự chấp thủ vào đó -- 
                thường được gọi là Ngũ uẩn thủ (upadanakkhanda). Khi phước báu 
                nầy được chín muồi, thiện duyên về huân tu Thánh đạo (ariyam 
                maggabhavana kusala) sẽ trổ ra và giúp ta thực chứng Niết-bàn.
 
                - 
                Thanh lọc Tâm 
                
 
                - 
                Về lời dạy "Luôn 
                giữ tâm trong sạch" có nghĩa là sau khi thực chứng Niết-bàn 
                qua bốn Thánh Đạo (Ariya Maggas), Đức Phật tiếp tục phát triển 
                tâm qua bốn Thánh Quả (Ariya Phalas). Đây là tiến trình thanh 
                lọc tâm qua sự khởi hiện các chập tâm Thánh Quả (Ariya Phala 
                Cittas).   
 
                - 
                Tu tập để đưa đến 
                hạnh phúc 
 
                - 
                Đến đây, sư đã trình 
                bày tóm lược về phương cách thành kính hành trì lời Phật dạy. 
                Hành trì như thế, ta sẽ có được hạnh phúc mà ta hằng tìm cầu. Đó 
                là cách để đưa đến các cõi an nhàn của loài người và chư thiên 
                với các hạnh phúc rộng lớn; và thanh cao tốt đẹp hơn nữa, sẽ đưa 
                đến chứng đạt Niết-bàn, chấm dứt hoạn khổ, với hạnh phúc vĩnh 
                hằng. 
 
                - 
                Đó cũng là cách mà 
                chúng ta giúp duy trì và bảo tồn Giáo Pháp của Đức Phật, tạo 
                niềm vui hạnh phúc cho người khác tương tự như của chính chúng 
                ta. 
 
                - 
                Cầu mong quí vị hành 
                trì tốt đẹp như đã trình bày, đạt được niềm hạnh phúc mà quí vị 
                thường mong ước, và nhanh chóng chứng đạt được hạnh phúc tối hậu 
                của Niết-bàn.   
 
                - 
                Thực tập thiền quán 
                trong ba phút 
 
                - 
                Bây giờ, sư sẽ hướng 
                dẫn quí vị để thử thực hành Thiền Quán Vipassana trong vài ba 
                phút. 
 
                - 
                Thiền Quán là pháp 
                hành ghi nhận sự phát khởi và diệt tận của các hiện tượng 
                tâm-vật-lý để giúp chúng ta nhận thức rõ bản chất thật sự của 
                chúng. Mỗi khi ta nhìn, nghe, nếm, ngửi, chạm xúc hoặc nhận 
                biết, các hiện tượng nầy liên tục hiện ra rồi mất đi. Điều quan 
                trọng là phải ghi nhận chúng và nhận thức về chúng mỗi khi chúng 
                hiện ra. Tuy nhiên, trong lúc ban đầu, ta không thể nào ghi nhận 
                tất cả những gì ta nhìn, nghe, ngửi, nếm, chạm, hoặc biết. Vì 
                thế, ta cần phải giới hạn tập trung vào một ít hiện tượng thôi. 
                
 
                - 
                Mỗi khi ta thở vào và 
                thở ra, bụng chúng ta di chuyển theo dạng phồng rồi xẹp rất rõ 
                ràng, dễ theo dõi. Đây là biểu hiện của một yếu tố chuyển động 
                mà ta thường gọi là Gió (Vayo dhatu, phong đại) -- một trong bốn 
                yếu tố chính: đất, nước, lửa gió -- và là một đối tượng dễ quan 
                sát, ghi nhận. Bây giờ, chúng ta hãy thử thực tập trong ba phút, 
                sau khi ta có một thế ngồi vững vàng...  
 
                - 
                Trong thời gian nầy, 
                ta không cần phải nhìn gì cả, do đó, chúng ta nên nhắm mắt lại. 
                Hãy chú tâm vào bụng... Khi bụng phồng lên, ghi nhận là "phồng". 
                Khi bụng xẹp xuống, ghi nhận là "xẹp". Không cần phải tự nói 
                thầm là "phồng" và "xẹp". Chỉ ghi nhận điều đó trong tâm, một 
                cách tỉnh thức... 
 
                - 
                Nếu tâm phóng đi nơi 
                khác, hãy ghi nhận sự phóng tâm như thế, ghi nhận "phóng tâm". 
                Rồi trở về đề mục chính là sự phồng-xẹp của bụng. Nếu cảm thấy 
                mệt mỏi hay đau đớn, chỉ ghi nhận hai hay ba lần: "đau, đau, 
                đau", rồi đem tâm trở về đề mục ghi nhận sự chuyển động của 
                bụng. Nếu có nghe một âm thanh nào đó, chỉ ghi nhận hai hay ba 
                lần: "nghe, nghe, nghe", rồi chú tâm trở lại vào sự phồng-xẹp 
                của bụng... Hãy cố gắng tiếp tục như thế trong một thời gian 
                ngắn là ba phút...             
                Kết luận 
 
                - 
                Bây giờ ba phút đã 
                trôi qua... Trong mỗi phút, ta có thể ghi nhận 50 hoặc 60 chuyển 
                động. Trong ba phút, ta có thể ghi nhận được 150 đến 180 lần. 
                Tất cả các hành động ghi nhận như thế là phương cách tu tập Minh 
                Quán Thiện (Vipassana Kusala) theo đúng lời dạy của Đức Phật. 
                Khi định lực (samadhi) được phát triển theo công phu tu tập, ta 
                sẽ nhận biết được Tâm và Thân, hay Danh và Sắc, một cách phân 
                minh và nhận thức được mối tương duyên của chúng. Ta sẽ tự thực 
                chứng được sự sinh-diệt của chúng, nghĩa là trực nhận được đặc 
                tính Vô thường (anicca) của chúng. Trong tiến trình tu tập như 
                thế, dần dần ta sẽ phát triển được tuệ minh sát, và cuối cùng sẽ 
                thành tựu được sự thực chứng Niết-bàn với tuệ tri về Đạo và Quả.
                
 
                - 
                Sư cầu mong quí vị 
                tinh tấn hành thiền quán để sớm thực chứng Niết-bàn. 
                
 
                - 
                Lành thay! Lành thay! 
                Lành thay!   
 
                - 
                Thiền sư Mahasi 
                Sayadaw
                
 
                - 
                Nepal, 27-11-1980
                
 
                - 
                (Trích dịch: "Mahasi 
                Abroad -- Lectures by Venerable Mahasi Sayadaw, 1980", 
                
 
                - 
                Second Edition, 
                Buddhasasana Association, Myanmar, 1993)
                
 
                - 
                 
 
                
                   
                  - 
                  
                  Bài Pháp Thứ Hai
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  
                   
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  
                  Pháp Hành Thiền Của Đức Phật
 
                  
                
                
                   
                  - Thiền sư Mahasi 
                  Sayadaw
 
                  
                
                
                   
                  - Bình Anson lược dịch
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  (Sau đây là một bài pháp ngắn của ngài Thiền sư giảng tại 
                  Nepal năm 1980)
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  -oOo-
 
                  
                
                - 
                "Sau khi thực hành và 
                thực chứng Chánh Pháp, Đức Phật truyền giảng Giáo Pháp cho chúng 
                sinh để mọi người có thể tự mình hành trì và thực chứng Chánh 
                Pháp như Ngài, trong khả năng của họ". (Trường Bộ)
 
                - 
                Giáo 
                Pháp của Đức Phật không phải để thảo luận lý thuyết suông. Ngài 
                đã tự hành trì theo đó, đã thấm nhập Chân Lý, rồi truyền giảng 
                cho mọi người. Cho nên, chúng sinh nào có khả năng tư duy, đều 
                cần phải hành trì theo đó một cách thành kính và nghiêm túc.
                
 
                - 
                Đức Phật hành trì và 
                giảng dạy như thế nào? Trước khi Thành Đạo, ngài Bồ-tát qua trí 
                tuệ siêu việt đã nhận thức được rằng tất cả chúng sinh, kể cả 
                Ngài, đều phải tái sinh luân hồi triền miên vì nghiệp quả và 
                lòng tham thủ. Vị Bồ-tát qua đôi mắt thần đã thấy chúng sinh sau 
                khi chết, tái sinh vào những nơi theo nghiệp quả của họ. 
                
 
                - 
                Mỗi lần chúng ta 
                thấy, nghe, ngửi, nếm, chạm xúc và nhận biết, khởi sinh lòng 
                tham đắm và chấp thủ vào các hiện tượng vật lý và tâm lý. Vì có 
                lòng tham thủ nầy mà có sự hiện sinh, và vì có hiện sinh nên mới 
                có già lão, bệnh hoạn, tử diệt, và cứ thế tiếp diễn mãi mãi... 
                Tuy nhiên, khi ta thấy, nghe, ngửi, nếm, chạm xúc và nhận biết 
                điều gì, nếu ta ghi nhận được bản chất sinh-diệt của chúng, thì 
                ngay lúc ấy, không còn có lòng tham đắm và chấp thủ khởi ra, và 
                từ đó, sẽ không còn có tái sinh, già lão, bệnh hoạn, tử diệt, 
                v.v... Như thế, sẽ dập tắt được đám lửa phiền não, hoạn khổ. 
                
 
                - 
                Ngài Bồ-tát sau khi 
                nhận chân được như thế, gia công tinh tấn hành trì thiền quán về 
                bản chất sinh-diệt của năm nhóm chấp thủ. Và phương cách mà Ngài 
                đã hành trì để đạt được sự Giác Ngộ Viên Dung sẽ được trình bày 
                sau đây.   
 
                - 
                Phương pháp Thiền 
                Quán (Vipassana) 
 
                - 
                "Ngài Bồ-tát sau khi 
                suy niệm về diễn trình sinh-diệt của phiền não, hành trì thiền 
                quán về sự sinh khởi và tàn diệt của các hiện tượng tâm-vật-lý. 
                Khi thiền quán như thế, tâm Ngài trở nên xả ly hoàn toàn, và 
                Ngài đạt được giải thoát khỏi các lậu hoặc, thành đạt Đạo-Quả 
                Tuệ, trở thành bậc ng Cúng, Chánh Đẳng Giác". (Trường Bộ)
 
                - 
                Trên đây là một đoạn 
                văn trích từ kinh điển Pali để cho thấy rằng chư Phật, từ Phật 
                Tỳ-bà-thi đến Phật Cồ-đàm, đều hành trì giống nhau trên đường 
                thành Phật Quả. Ngay các vị Phật trước thời Phật Tỳ-bà-thi cũng 
                hành trì cùng một pháp như thế. 
 
                - 
                Trong pháp hành nầy, 
                chúng ta phải biết ghi nhận bản tính chân thật về sự sinh-diệt 
                của các hiện tượng tâm lý và vật lý xảy ra trong thân thể của ta 
                ngay khi chúng vừa hiện hữu. Nếu không kịp thời ghi nhận như 
                thế, chúng ta sẽ dễ có một ý niệm sai lầm rằng chúng là thường 
                còn, hạnh phúc và có tự ngã. Bởi vì không có ghi nhận ngay tại 
                thời điểm của sự nghe, nhìn, ngửi, nếm, chạm xúc và tư duy, 
                chúng ta không thể trực nhận đúng đắn các hiện tượng tâm-vật-lý 
                nầy, và nhận thức sai lầm rằng đó là hạnh phúc và là cái Ngã; và 
                vì thế, lòng tham đắm vào các hiện tượng đó sẽ sinh ra. Sự tham 
                đắm nầy trong thuật ngữ Pali gọi là "Upadana". Các hiện tượng 
                tâm-vật-lý làm đối tượng cho sự tham đắm nầy gọi là 
                "Upadanakkhandhas" (ngũ uẩn thủ). 
 
                - 
                Bởi vì không có một 
                sự ghi nhận đúng đắn các hiện tượng tâm-vật-lý khi chúng vừa 
                phát khởi, tham thủ sinh ra và tạo dựng nên các nghiệp hành 
                thiện và bất thiện. Ngay trong lúc cận tử, khi cái chết đến kế 
                cạnh, nghiệp (kamma) qua một hình tướng (nghiệp tướng -- kamma 
                nimitta) hay một chỉ hướng về đời sống kế tiếp (sinh tướng, 
                gati-nimitta) trở thành đối tượng trong tâm thức của người hấp 
                hối và có ảnh hưởng lên sự tái sinh của người đó. Qua tái sinh, 
                người đó lại trở vào vòng hoạn khổ của già lão, bệnh hoạn, rồi 
                chết, v.v... Khi suy tư về các điều này, chúng ta cảm thấy thật 
                là vô vọng, hãi hùng. 
 
                - 
                Vì vậy, để tận diệt 
                lòng tham thủ, để chấm dứt sự chấp dính vào ngũ uẩn, và từ đó 
                thoát ra vòng phiền não, vị Bồ-tát hành thiền quán về sự 
                sinh-diệt của các hiện tượng tâm-vật-lý khi chúng vừa hiện hữu. 
                Khi thiền quán như thế, tri kiến phi thường khởi hiện trong 
                Ngài, và sau khi đắc Trí Tuệ về Đạo và Quả của bậc A-la-hán, 
                Ngài trở thành một vị Chánh Đẳng Giác, vị Phật. 
 
                - 
                Sau khi Thành Đạo, 
                Đức Phật giảng bài pháp đầu tiên, Kinh Chuyển Pháp Luân, để 
                chúng sinh có thể hành trì theo, thực hành thiền quán về sự sinh 
                diệt của Ngũ Uẩn Thủ, và sau khi phát triển Tuệ Minh, chứng đạt 
                Niết-bàn qua sự phát khởi Đạo Tuệ và Quả Tuệ, tiến đến giải 
                thoát tối hậu như Ngài. 
 
                - 
                Trong bài kinh Chuyển 
                Pháp Luân, có đề cập đến Trung Đạo do Đức Phật tìm ra để phát 
                sinh Pháp Nhãn. Pháp Nhãn nầy chính là sự phát triển các tuệ 
                minh, Đạo Tuệ và Quả Tuệ. Trung Đạo đó có nghĩa là Bát Chánh 
                Đạo, con đường Tám Chánh. Sự giác tỉnh nhận thức đúng đắn khi 
                nghe, thấy, ngửi, chạm, v.v... cũng là Bát Chánh Đạo.   
                
 
                - 
                Phát triển Bát Chánh 
                Đạo 
 
                - 
                Để giải thích tóm tắt 
                về sự phát triển và hành trì Bát Chánh Đạo, các nỗ lực đ? ghi 
                nhận sự thấy, nghe, chạm, v.v... là Chánh Tinh Tấn. Sự giác 
                tỉnh, ghi nhớ về sự thấy, nghe, chạm, v.v... là Chánh Niệm. Luôn 
                luôn chú tâm vào đề mục hành thiền là Chánh Định. Cả ba yếu tố 
                nầy hợp thành nhóm "Định" trong Tam Học (Giới-Định-Tuệ). 
                
 
                - 
                Và khi định lực trở 
                nên vững mạnh, các tuệ minh sẽ khởi sinh. Kinh Niệm Xứ 
                (Satipatthana Sutta) có ghi rằng khi chúng ta có giác niệm về sự 
                đi, đứng, ngồi, nằm, chuyển động, sờ đụng, v.v... ta có thể phân 
                biệt rõ ràng các hiện tượng vật lý và tâm lý, và như thế phân 
                tích được Danh và Sắc. Từ đó đưa đến Tuệ Phân Biệt Danh Sắc 
                (namarupa pariccheda nyana). Tuệ nầy phát khởi khi bắt đầu có 
                một định lực tốt. 
 
                - 
                Tiếp theo, ta có thể 
                biết được rằng bởi vì có ý định di chuyển, di chuyển khởi sinh; 
                bởi vì có ý định ngồi xuống, động tác ngồi khởi sinh; bởi vì có 
                hơi thở vào, nên có sự phồng nơi bụng; bởi vì có hơi thở ra, nên 
                có sự xẹp nơi bụng; bởi vì có đối tượng sờ đụng, nên có xúc cảm; 
                bởi vì có đối tượng để ghi nhận, nên sự ghi nhận xảy ra; bởi vì 
                có tác ý ghi nhận, nên có sự ghi nhận, v.v... Đó là sự hiểu biết 
                sâu sắc về mối tương duyên của nhân và quả. Đây là tuệ minh thứ 
                hai, gọi là Tuệ Phân Biện Nhân Duyên (paccaya pariggaha nyana).
                
 
                - 
                Khi định lực trở nên 
                mạnh hơn trong mỗi sự ghi nhận, sự sinh diệt của đề mục được tức 
                thời nhận biết một cách rõ ràng. Khi ta nhận thức trực tiếp được 
                như thế, sẽ khởi sinh ý niệm rằng: "Mọi vật đều vô thường và 
                không có gì lạc thú, mà chỉ là phiền não. Đời sống chỉ là một 
                hiện tượng mà không có một cái Ngã bất biến trong đó". Đây là 
                một nhận thức khởi ra từ kinh nghiệm cá nhân, và gọi là Tuệ Thấu 
                Đạt (samasana nyana), cũng còn gọi là Tuệ Minh Sát Thế Tục.
                
 
                - 
                Sau đó, sẽ phát sinh 
                tri kiến ghi nhận tức thời sự sinh diệt của bất cứ đối tượng nào 
                trong mỗi hành động ghi nhận. Đó là Tuệ Tri Kiến Sự Sinh Diệt 
                (udayabbaya nyana). Khi có được tuệ nầy, hành giả có thể thấy 
                các ánh sáng chói lòa dù trong đêm tối. Thân thể có cảm giác nhẹ 
                bổng, và thân tâm rất là thoải mái. Sự ghi nhận trở nên tốt hơn 
                và các cảm thọ hỷ lạc phát sinh. 
 
                - 
                Tiếp theo, sẽ phát 
                khởi một tuệ minh mà qua đó, chỉ có các tàn diệt tức thời của 
                mọi đối tượng là được thấy rõ ràng trong mọi sự ghi nhận. Tuệ 
                minh phi thường nầy được gọi là Tuệ Diệt (bhanga nyana). 
                
 
                - 
                Tiếp theo đó là các 
                tuệ minh trong mỗi hành động ghi nhận, đối tượng ghi nhận được 
                thấy như đáng kinh sợ, khổ sở, chán chường. Đây là các Tuệ Kinh 
                Sợ (bhaya nyana), Tuệ Khổ Sở (adinava nyana) và Tuệ Chán Chường 
                (nibbida nyana). 
 
                - 
                Kế đó, nảy sinh một 
                tuệ minh khác biệt khi thân hành và tâm hành được nhận thấy dễ 
                dàng, một cách bình thản. Đây là Tuệ Hành Xả (Sankhara-upekkha 
                nyana). 
 
                - 
                Từ Tuệ Phân Biệt Danh 
                sắc đến Tuệ Hành Xả, tâm ý được gắn chặt vào đối tượng ghi nhận 
                để có được một sự nhận thức đúng đắn về chúng, là Chánh Kiến và 
                Chánh Tư Duy trong mỗi hành động ghi nhận. Đây là phần "Tuệ" của 
                Tam Học. 
 
                - 
                Phát triển các tuệ 
                minh cho đến Tuệ Hành Xả là dựa theo ba chi trong phần Định và 
                hai chi trong phần Tuệ của Tam Học Giới-Định-Tuệ, thuộc Bát 
                Chánh Đạo. Đây là tương ứng với lời dạy trong Kinh Chuyển Pháp 
                Luân, trong đó có dạy rằng hành trì theo Trung Đạo là để giúp 
                phát khởi Pháp Nhãn. 
 
                - 
                Chánh Ngữ, Chánh 
                Nghiệp, và Chánh Mạng thuộc về phần "Giới". Qua hành thiền 
                nghiêm túc, phần Giới nầy được hoàn tất. 
 
                - 
                Ba chi của Định, hai 
                chi của Tuệ, và ba chi của Giới hợp lại thành Trung Đạo, hay Bát 
                Chánh Đạo. Bằng cách liên tục ghi nhận mỗi tác động của sự nghe, 
                nhìn, ngửi, nếm, chạm, biết, chúng ta hành trì Bát Chánh Đạo. 
                Kết quả là sự phát triển từ Tuệ Phân Biệt Danh Sắc cho đến Tuệ 
                Hành Xả, đưa đến sự khởi sinh Pháp Nhãn. Khi Pháp Nhãn được phát 
                triển tròn đủ, Niết-bàn sẽ được tri kiến qua Đạo Tuệ và Quả Tuệ 
                (magga nyana, phala nyana). Ngài Bồ-tát qua pháp hành Trung Đạo, 
                đã phát triển tuệ minh sát và sau khi đắc đạo quả A-la-hán, trở 
                thành vị Phật Toàn Giác. Sau khi thành đạo, Ngài đã thuyết giảng 
                Kinh Chuyển Pháp Luân để người khác, cũng như Ngài, có thể thực 
                chứng Niết-bàn qua Đạo Tuệ và Quả Tuệ bằng cách thiền quán về sự 
                sinh-diệt của các hiện tượng tâm-vật-lý. 
 
                - 
                Trong Kinh Niệm Xứ, 
                pháp hành Thiền Quán được giải thích chi tiết. Một cách tóm 
                lược, pháp nầy có thể được chia làm bốn phần chính: (1) Quán 
                niệm về Thân, nghĩa là giác niệm về các động tác của thân như 
                đi, đứng, ngồi, nằm, v.v...; (2) Quán niệm về Thọ, nghĩa là giác 
                niệm về các cảm thọ lạc, khổ, trung tính, v.v...; (3) Quán niệm 
                về Tâm, nghĩa là giác niệm về sự suy nghĩ, nhận thức, phân tích, 
                v.v...; (4) Quán niệm về Pháp, nghĩa là giác niệm về sự thấy, sự 
                nghe, sự chạm xúc, v.v... 
 
                - 
                Đức Phật dạy rằng Tứ 
                Niệm Xứ là con đường duy nhất để đạt Đạo Quả Tuệ và chứng đắc 
                Niết-bàn. Vì thế, không có con đường nào khác để đưa đến Đạo, 
                Quả, và Niết-bàn. Để tiến đến giải thoát khỏi vòng luân hồi hoạn 
                khổ, mỗi người chúng ta phải nỗ lực thực hành thiền Quán Niệm. 
                Để hành trì, sư xin giải thích sơ lược như sau.   
 
                - 
                Thực tập Thiền Quán 
                trong năm phút 
 
                - 
                Bây giờ, xin hãy ngồi 
                tréo chân, hay một thế ngồi thích hợp. Vì không cần phải nhìn gì 
                cả, xin hãy nhắm mắt lại... Chú tâm vào đề mục hành thiền. Trong 
                lúc ban đầu, rất khó ghi nhận tất cả mọi hiện tượng sinh diệt, 
                và vì thế, hãy bắt đầu bằng cách chỉ chú tâm vào sự di chuyển 
                phồng xẹp nơi bụng... 
 
                - 
                Hãy chú tâm vào bụng. 
                Khi bụng phồng, ghi nhận "phồng". Khi bụng xẹp, ghi nhận "xẹp". 
                Không nên ghi nhận bằng lời nói thầm, mà chỉ ghi nhận trong tâm. 
                Không nên cho rằng "phồng" và "xẹp" là hai từ ngữ, mà ghi nhận 
                đó là hai tiến trình thật sự của cử động nơi bụng. Hãy cố gắng 
                theo dõi sự phồng từ lúc bắt đầu cho đến lúc cuối, và cũng như 
                thế trong cử động xẹp. 
 
                - 
                Tỉnh giác theo dõi 
                các cử động nầy -- bằng cách ghi nhận rõ ràng -- là phương cách 
                trực nhận yếu tố chuyển động, yếu tố Gió, trong thực thể tuyệt 
                đối của nó. Theo Kinh Niệm Xứ, đây là Quán niệm về Thân. 
                
 
                - 
                Khi theo dõi sự phồng 
                xẹp nơi bụng, nếu có một ý nghĩ nào xuất hiện, ta lại ghi nhận 
                nó. Đó là Quán niệm về Tâm. Rồi trở về tiếp tục chú tâm vào 
                chuyển động nơi bụng. 
 
                - 
                Khi có sự đau nhức, 
                ta ghi nhận nó. Đây là Quán niệm về Thọ. Sau khi ghi nhận hai, 
                ba lần, ta quay về chú tâm nơi bụng. 
 
                - 
                Nếu có nghe một âm 
                thanh nào đó, ghi nhận hai hay ba lần, rồi quay về nơi bụng. Nếu 
                có thấy vật chi, chỉ ghi nhận hai hay ba lần. Đây là Quán niệm 
                về Pháp, đối tượng của Tâm. Rồi quay về chú tâm nơi sự cử động 
                của bụng.
 
                - 
                Bây giờ, chúng ta hãy 
                thử tập thiền quán như thế trong năm phút...   
 
                - 
                Kết luận 
 
                - 
                Bây giờ, chúng ta đã 
                tập thiền quán xong sau năm phút. Trong mỗi phút, ta có thể ghi 
                nhận 50 đến 60 lần. Trong 5 phút, ta ghi nhận tối thiểu là 250 
                lần. Như thế, chúng ta phát triển một hành động rất tốt trong 
                pháp hành Thiền Quán theo đúng lời dạy của Đức Phật. Khi ta ghi 
                nhận trong pháp hành thiền như vậy, với sự phát triển tâm định, 
                dần dần ta sẽ phát triển được Tuệ Phân Biệt Danh Sắc, Tuệ Phân 
                Biện Nhân Duyên, Tuệ Tri Kiến Sinh Diệt, Tuệ Tri về Vô thường, 
                Khổ và Vô ngã sẽ phát khởi, và một ngày nào đó, ta có thể thực 
                chứng Niết-bàn qua Đạo Tuệ và Quả Tuệ. 
 
                - 
                Bằng pháp hành Thiền 
                Quán Niệm như đã trình bày với sự nỗ lực tinh tấn của mỗi cá 
                nhân, sư cầu mong quí vị chứng đạt Niết-bàn trong một tương lai 
                rất gần.   
 
                - 
                Thiền sư Mahasi 
                Sayadaw
                
 
                - 
                Nepal, 28-11-1980
                
 
                - 
                (Trích dịch: "Mahasi 
                Abroad -- Lectures by Venerable Mahasi Sayadaw, 1980", 
                
 
                - 
                Second Edition, 
                Buddhasasana Association, Myanmar, 1993)
                
 
                - 
                 
 
                
                   
                  - 
                  
                  Bài Pháp Thứ Ba
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  
                   
 
                  
                
                
                   
                  - Thiền 
                  Quán & Bốn Sự Thật Cao Diệu
 
                  
                
                
                   
                  - Thiền Sư Mahasi Sayadaw
 
                  
                
                
                   
                  - Bình Anson lược dịch
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  (Sau đây là một bài pháp ngắn của ngài Thiền sư giảng tại 
                  Nepal năm 1980)
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  -oOo-
 
                  
                
                - 
                Chân 
                lý mà chúng ta phải thực chứng là chân lý có liên quan đến Tứ 
                Diệu Đế, Bốn Sự Thật Cao Diệu. Đó là: (1) Sự Thật về Khổ (Khổ 
                đế), (2) Sự Thật về Nguồn Gốc của Khổ (Tập đế), (3) Sự Thật về 
                sự Diệt Khổ (Diệt đế), và (4) Sự Thật về Con Đường đưa đến Diệt 
                Khổ (Đạo đế). 
 
                - 
                Sự thật về Khổ có 
                liên quan đến bản chất của năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, 
                thức). Theo Kinh Chuyển Pháp Luân, chúng ta phải thấu triệt sự 
                khổ nầy để thông hiểu một cách đúng đắn. Cần phải ghi nhận sự 
                thấy, nghe, ngửi, nếm, chạm xúc và suy nghĩ ngay lúc chúng hiện 
                khởi để hiểu biết chính xác về chúng. Nếu không ghi nhận ngay 
                tại thời điểm đó, ta sẽ không thông hiểu tường tận bản chất 
                sinh-diệt của chúng, và từ đó, lòng tham đắm vào các hiện tượng 
                tâm-vật-lý hư ảo nầy sẽ sinh ra, và đó là Nguồn gốc của Khổ. Bởi 
                vì có tham đắm, sự chấp thủ vào các hiện tượng đó sẽ xảy ra, và 
                tạo ra các nghiệp hành. Chính các nghiệp hành nầy sẽ tạo ra sự 
                tái sinh, và từ đó tiếp tục vòng luân hồi khổ não của già lão, 
                bệnh hoạn, tử diệt, v.v... 
 
                - 
                Nếu chúng ta liên tục 
                ghi nhận các hành động của thấy, nghe, ngửi, v.v..., những hiện 
                tượng tâm-vật-lý nầy sẽ được thông hiểu đúng đắn, và từ đó sẽ 
                giảm thiểu lòng tham ái trong một cấp độ nào đó. Đây chính là 
                công phu để Diệt trừ Nguồn gốc của Khổ. Khi chúng ta hoàn toàn 
                ghi nhận kịp thời mỗi một tác động của sự thấy, nghe, ngửi, 
                v.v... khi chúng vừa khởi hiện, lúc đó có thể xem như ta đã hoàn 
                tất công tác diệt trừ cội nguồn của Khổ, theo như tinh thần của 
                các lời dạy trong bài Kinh Chuyển Pháp Luân. 
 
                - 
                Mỗi một động tác ghi 
                nhận như thế sẽ giúp giảm thiểu phiền não, có nghĩa là làm giảm 
                bớt các điều kiện để tạo tái sinh. Như thế, qua phương pháp ghi 
                nhận, hoạn khổ được diệt trừ từng chập, và pháp hành nầy là Con 
                Đường Tại Thế để phát triển tuệ minh. Đây là pháp hành trì theo 
                đúng lời dạy trong kinh là sự Diệt Khổ cần phải được thực chứng, 
                và Con Đường Diệt Khổ cần phải được triển khai. Sư sẽ giảng thêm 
                về Con Đường Diệt Khổ Siêu Thế -- để thực chứng Niết-bàn -- và 
                Bát Chánh Đạo. Tuy nhiên, trước hết, sư sẽ giải thích về việc 
                thực chứng Niết-bàn qua con đường tại thế như Đức Phật đã giảng 
                cho thầy tỳ-kheo Malukyaputta (Kinh Malukyaputta, Tương Ưng, 
                iv-72) như sau:   
 
                - 
                Niết-bàn ở xa khi 
                không có Chánh Niệm 
 
                - 
                "Thấy sắc, niệm mê 
                say,
                
 
                - 
                Tác ý đến ái tướng,
                
 
                - 
                Tâm tham đắm cảm thọ,
                
 
                - 
                Tham luyến sắc an 
                trú.
                
 
                - 
                Vị ấy, thọ tăng 
                trưởng,
                
 
                - 
                Nhiều loại, từ sắc 
                sinh,
                
 
                - 
                Tham dục và hại tâm,
                
 
                - 
                Não hại tâm vị ấy,
                
 
                - 
                Như vậy, khổ tích 
                lũy,
                
 
                - 
                Được gọi: xa 
                Niết-bàn"
                
 
                - 
                (Hòa thượng Thích 
                Minh Châu dịch Việt)
 
                - 
                Có nghĩa là: ngay khi 
                mắt nhìn thấy một hình sắc, nếu ta quên quán niệm về sự thấy, và 
                nếu đó là một vật đẹp đẽ, ta sẽ vui thích với nó và tham luyến 
                sinh ra, nhất là đối với một đối tượng mà ta hằng ưa thích. 
                
 
                - 
                Một khi có sự tham 
                luyến, các cảm thọ về đối tượng liền nẩy sinh. Nếu đó là một đối 
                tượng ưa thích, ta sẽ có thọ lạc, rồi sinh ra tham luyến. Nếu đó 
                là một đối tượng xấu xa, cảm thọ khổ sinh ra, rồi tiếp theo là 
                lòng sân hận, oán ghét. Chính sự tham luyến hay oán ghét nầy làm 
                cho tâm trở nên chao động, mất chánh niệm. Từ đó sẽ đưa đến sự 
                khổ não, tạo ra nghiệp hành, đưa đến tái sinh trong vòng luân 
                hồi ưu phiền. Như thế, càng lúc ta càng rời xa Niết-bàn. 
                
 
                - 
                Niết-bàn ở gần khi có 
                Chánh Niệm 
 
                - 
                "Vị ấy không tham 
                sắc,
 
                - 
                Thấy sắc, không ái 
                luyến,
 
                - 
                Tâm không dính cảm 
                thọ,
                
 
                - 
                Không luyến sắc an 
                trú.
                
 
                - 
                Theo sắc, vị ấy thấy,
                
 
                - 
                Tùy sắc, thọ cảm 
                giác,
                
 
                - 
                Tiêu mòn, không tích 
                lũy,
                
 
                - 
                Như vậy, chánh niệm 
                hành,
                
 
                - 
                Như vậy, khổ không 
                chứa,
                
 
                - 
                Được gọi: gần 
                Niết-bàn."
                
 
                - 
                (Hòa thượng Thích 
                Minh Châu dịch Việt)
 
                - 
                Bây giờ, nếu chúng ta 
                có chánh niệm trong lúc nhìn, Đức Phật gọi là lúc đó, ta ở gần 
                Niết-bàn. Ngay chính lúc ta nhìn, nếu ta quán niệm vào sự nhìn, 
                lòng luyến ái vào đối tượng sẽ không khởi sinh. Đúng như thế. 
                Mỗi khi có sự nhìn, nếu ta ghi nhận "thấy, thấy, thấy" một cách 
                liên tục, tham đắm vào đối tượng nhìn sẽ không sinh khởi và cũng 
                sẽ không có suy tưởng về lòng tham đắm đó. Khi ta thấu triệt 
                được bản chất sinh-diệt của sự nhìn và đối tượng nhìn, ta sẽ 
                không có lòng ưa thích hay oán ghét kèm theo. Vì thế, khi ta có 
                chánh niệm tỉnh giác, tâm ta sẽ không bị vướng mắc vào lòng tham 
                thủ và sân hận. Lúc đó ta chỉ có một cảm giác thụ động, có nghĩa 
                là chỉ thuần một cảm giác mà không có một phản ứng hay một cảm 
                tính nào đi kèm theo đó. Hình dạng của đối tượng chỉ được nhận 
                thấy mà không trở thành một đối tượng cho lòng tham thủ. 
                
 
                - 
                Nhờ có chánh niệm, ta 
                chỉ ghi nhận mọi hiện tượng một cách đơn thuần với một cảm giác 
                thụ động, và do đó, phiền não không có cơ hội để sinh khởi và sẽ 
                bị trừ diệt. Điều này có nghĩa là nếu không có chánh niệm ngay 
                khi nhìn, tham thủ vào đối tượng nhìn sẽ sinh ra và chắc chắn 
                phiền não sẽ tiếp tục tái diễn vô tận. Ngược lại, nếu ta có 
                chánh niệm, phiền não sẽ bị trừ diệt vì nó không có điều kiện để 
                sinh khởi. Cho nên, nếu người nào muốn thoát khỏi hoạn khổ và 
                thực chứng hạnh phúc thì nguời ấy phải luôn luôn chánh niệm khi 
                có tác động nhìn xảy ra. Công phu phát triển tuệ tri nầy qua 
                pháp hành thiền gọi là Sơ Đạo, con đường sơ khởi (pubba bhaga 
                magganga). Qua con đường sơ khởi nầy, hành giả tiến đến mục đích 
                thực chứng Niết-bàn, dập tắt mọi phiền não, qua sự chứng đắc Con 
                Đường Siêu Thế. 
 
                - 
                Trong kinh 
                Malukyaputta, Đức Phật dạy rằng để thoát khỏi hoạn khổ, thầy 
                tỳ-kheo phải hành thiền quán như trên, và khi biết được bản chất 
                thật sự của mọi hiện tượng tâm-vật-lý trên đời thì vị ấy được 
                xem như là đã đến gần Niết-bàn. Tại sao như thế? Nếu chúng ta 
                thực hành thiền quán, tuệ minh sát sẽ ngày càng phát triển, và 
                một ngày nào đó, ta sẽ có đủ duyên lành để thực chứng được 
                Niết-bàn qua Đạo Tuệ và Quả Tuệ (Magga nyana và Phala nyana). 
                Nếu một vị hành giả thấu đạt Đạo Tuệ và Quả Tuệ lần đầu tiên, vị 
                ấy trở thành bậc Dự Lưu hay Tu-đà-hườn (Sotapanna) và sẽ không 
                bao giờ tái sinh vào bốn cảnh khổ: A-tu-la, Ngạ quỷ, Cầm thú, và 
                Địa ngục. Vị ấy chỉ tái sinh tối đa là bảy lần, trong nhàn cảnh 
                của cõi Người hay cõi Trời, và tối hậu sẽ đắc đạo quả A-la-hán, 
                hoàn toàn giải thoát khỏi cõi Ta-bà phiền não luân hồi của sinh, 
                lão, bệnh, tử.  
 
                - 
                Trên đạo quả Dự Lưu 
                là đạo quả Nhất Lai (Tư-đà-hàm, Sakadagami). Gọi là Nhất Lai vì 
                vị ấy chỉ phải trải qua hai đời sống nữa -- đời nầy và đời sau 
                -- là có thể chứng đạt đạo quả A-la-hán giải thoát tối hậu.
                
 
                - 
                Trên đạo quả Nhất Lai 
                là đạo quả Bất Lai (A-ha-hàm, Anagami). Bậc Bất Lai sẽ không tái 
                sinh vào cõi người hoặc cõi trời dục giới, mà sẽ tái sinh vào 
                các cõi trời của Phạm thiên. Ở đó, vị ấy sẽ thành đạt đạo quả 
                A-la-hán. 
 
                - 
                Như đã vừa trình bày, 
                khi quí vị hành trì thiền quán để ghi nhận mọi hiện tượng khi 
                chúng vừa sinh khởi, và với tiến trình phát triển tuệ minh, khi 
                phước duyên chín muồi, quí vị sẽ trở thành một bậc A-la-hán. Khi 
                nghiệp lực đã hết, vị ấy sẽ đắc Bát Niết-bàn (Niết-bàn vô dư y), 
                và lúc đó là một sự dập tắt hoàn toàn mọi hoạn khổ. 
 
                - 
                Vì thế, để dập tắt 
                mọi phiền não khổ đau khi đời sống nầy chấm dứt, quí vị cần phải 
                tận lực thực hành pháp thiền quán để ghi nhận thẩm thấu mọi hiện 
                tượng khi chúng sanh khởi. Ít ra, xin quí vị hãy nỗ lực để thành 
                đạt cho được đạo quả Dự Lưu để không còn phải tái sinh vào các 
                cảnh khổ.  
 
                - 
                Những gì sư đã trình 
                bày có liên quan về sự nhìn thấy cũng áp dụng cho pháp hành 
                thiền quán về sự nghe, ngửi, nếm, chạm xúc, và suy nghĩ. Nếu 
                không có chánh niệm thì ta còn ở xa Niết-bàn. Nếu có chánh niệm 
                là ta ở gần Niết-bàn. Như thế, ta cần phải áp dụng pháp thiền 
                quán vào từng động tác trong đời sống của chúng ta.   
                
 
                - 
                Tóm lược pháp hành 
                thiền quán niệm 
 
                - 
                "... Nầy thầy tỳ-kheo 
                Malukyaputta, đối với các pháp được thấy, được nghe, được ngửi, 
                được nếm, được chạm xúc, được ý thức, thầy chỉ nên thấy với 
                những vật thấy được, chỉ nghe với những vật nghe được, chỉ ngửi 
                với những vật ngửi được, chỉ nếm với những vật nếm được, chỉ ý 
                thức với những vật ý thức được. Do đó, thầy không có luyến ái 
                khởi sinh. Do không có luyến ái nên không còn có đời nầy, đời 
                sau, và giữa hai đời ấy. Đây là sự chấm dứt khổ đau."
 
                - 
                Đó là lời dạy vắn tắt 
                của Đức Phật cho thầy tỳ-kheo Malukyaputta. Sau khi nghe lời 
                giảng của Đức Phật, thầy tỳ-kheo Malukyaputta bạch với Ngài rằng 
                thầy đã hiểu được là nếu người nào không có chánh niệm ngay lúc 
                nhìn, nghe, ngửi, nếm, chạm, nghĩ, thì người ấy sẽ chịu hoạn khổ 
                và ở xa Niết-bàn. Trái lại, nếu người ấy có chánh niệm thì người 
                ấy sẽ giải thoát khỏi hoạn khổ và ở gần Niết-bàn. Đức Phật xác 
                nhận điều đó bằng các kệ ngôn nêu ra ở trên. 
 
                - 
                Tiếp theo, thầy 
                tỳ-kheo Malukyaputta đi sống biệt cư, nỗ lực tinh tấn hành thiền 
                quán niệm về sự thấy, nghe, ngửi, v.v... ngay khi chúng vừa sinh 
                khởi, và chẳng bao lâu thầy đắc đạo quả A-la-hán. 
 
                - 
                Cho nên, nếu quí vị 
                muốn đắc các đạo quả Dự Lưu, Nhất Lai, v.v..., xin quí vị hãy 
                hành thiền quán liên tục vào sự thấy, nghe, ngửi, nếm, chạm xúc, 
                suy nghĩ ngay khi chúng vừa sinh khởi. Nếu quí vị hành trì như 
                thế và khi định lực đủ mạnh, quí vị sẽ phát triển tuệ tri để 
                trực nhận được sự khác biệt của danh và sắc, nhân và quả, đặc 
                tính vô thường, bất toại nguyện, và vô ngã. Đó là phương pháp 
                hành trì đúng với câu "Samadhito yathabhutam pajanati", nghĩa là 
                "Chánh Định đưa đến Chánh Kiến".   
 
                - 
                Chánh kiến trong 
                Thiền quán 
 
                - 
                Khi định lực đủ mạnh, 
                trong mỗi động tác ghi nhận về sự nhìn thấy, quí vị sẽ phân biệt 
                được đối tượng nhìn, mắt, và sự nhìn. Đối tượng nhìn và cặp mắt 
                là Vật chất hay Sắc, không có thức. Nhãn thức và sự ghi nhận là 
                thuộc về Tâm hay Danh, có thức. Như thế, trong mỗi động tác ghi 
                nhận sự nhìn, quí vị sẽ nhận thức được rằng đây chỉ là Thân và 
                Tâm, hay Danh và Sắc, mà không có một cái Ngã hay một Linh hồn 
                nào cả. Đây là Tuệ Phân Biệt Danh Sắc (nama rupa pariccheda 
                nyana). 
 
                - 
                Cũng vậy, khi quí vị 
                quán niệm về nghe, quí vị sẽ biết đuợc rằng tai và âm thanh là 
                vật chất, và nhĩ thức cùng với sự ghi nhận là tâm. Như thế, chỉ 
                có Danh và Sắc. 
 
                - 
                Khi quí vị quán niệm 
                về ngửi, quí vị sẽ biết đuợc rằng mũi và mùi hương là vật chất, 
                và tỉ thức cùng với sự ghi nhận là tâm. Như thế, chỉ có Danh và 
                Sắc. 
 
                - 
                Khi quí vị quán niệm 
                về nếm, quí vị sẽ biết đuợc rằng lưỡi và vị nếm là vật chất, và 
                thiệt thức cùng với sự ghi nhận là tâm. Như thế, chỉ có Danh và 
                Sắc. 
 
                - 
                Khi quí vị ghi nhận 
                "đi, đứng, ngồi, nằm, đụng, lên, xuống, v.v...", quí vị sẽ biết 
                đuợc rằng thân thể và vật chạm xúc là vật chất, và thân thức 
                cùng với sự ghi nhận là tâm. Như thế, chỉ có Danh và Sắc. 
                
 
                - 
                Khi quí vị ghi nhận 
                về sự suy tư, suy nghĩ, v.v..., quí vị sẽ biết được rằng ý và 
                đối tượng của ý là vật chất, và ý thức cùng với sự ghi nhận là 
                tâm. Như thế, chỉ có Danh và Sắc. Trong trường hợp nầy, đối 
                tượng của ý có thể là sự suy tưởng, ý nghĩ, quan niệm, phân 
                tích, v.v... có thể đánh giá, liệt kê được, nên được gọi là vật 
                chất (sắc, rupa) trong ý nghĩa tương đối. 
 
                - 
                Thông thường, Tuệ 
                Phân Biệt Danh Sắc xảy ra nhiều hơn đối với một hành giả thông 
                minh. Tuy nhiên, dù có kém thông minh, một hành giả vẫn có thể 
                phát triển được một vài cấp độ của tuệ nầy. 
 
                - 
                Sau khi phát được tuệ 
                nầy, hành giả tiếp tục hành thiền quán và với sự phát triển của 
                định lực, hành giả có thể đạt được Tuệ Phân Biện Nhân Quả qua 
                phương cách sau đây: 
 
                - 
                Trong lúc ghi nhân sự 
                đi, hành giả biết được rằng mỗi khi có tác ý để đi thì sẽ có tác 
                động đi. Khi đứng hay ngồi cũng thế, vì có ý định ngồi nên mới 
                có tác động ngồi, vì có ý định đứng nên mới có tác động đứng 
                lại. Khi ghi nhận phồng và xẹp, hành giả nhận thức được rằng vì 
                có hơi thở vào ra nên m?i có phồng xẹp. Khi ghi nhận sự nhìn, 
                hành giả biết được vì có cảnh nhìn nên mới có sự nhìn, vì có mắt 
                nên mới có nhìn. Khi nghe, ngửi, nếm, v.v... cũng tương tự như 
                thế. Dần dần, khi ghi nhận và thông hiểu như thế, hành giả sẽ 
                nhận thức được rằng các động tác nầy không phải do chủ động của 
                một cái Ngã, cái Tôi nào cả, mà chỉ là kết quả của các tương 
                quan của nhân và quả như vừa trình bày. Đây là Tuệ Phân Biện 
                Nhân Quả. 
 
                - 
                Kế đến, khi ghi nhận 
                "đi, đứng, ngồi, nằm, phồng, xẹp, thấy, nghe, ngửi, nếm, cứng, 
                tê, đau, buồn, vui, v.v..." trong từng hành động, hành giả sẽ 
                thấy được cả đối tượng được ghi nhận và sự ghi nhận sinh khởi 
                mới mẻ rồi tàn lụn. Ban đầu, hành giả chỉ ghi nhận được chặng 
                đầu và chặng cuối của từng giai đoạn, chẳng hạn như lúc phồng 
                của bụng. Dần dần, với sự gia tăng của định lực và tuệ tri, hành 
                giả sẽ ghi nhận được từng đoạn nhỏ hơn. Qua tri kiến trực tiếp, 
                hành giả thông hiểu rằng "Mọi sự kiện nầy không thường hằng mà 
                cũng không lạc thú, chỉ là phiền não thôi! Đời sống chỉ là một 
                chuỗi các hiện tượng, mà không có một cái Ngã hay một Linh hồn 
                nào cả!" Đây là sự trưởng thành của Tuệ Minh Sát thật thụ, gọi 
                là Tuệ Minh Sát về Vô Thường (Aniccanupassana Nyana), Tuệ Minh 
                Sát về Khổ (Dukkhanupassana Nyana), và Tuệ Minh Sát về Vô Ngã 
                (Anattanupassana Nyana). 
 
                - 
                Với sự chín muồi của 
                các Tuệ Minh, Niết-bàn được thực chứng qua Thánh Đạo Tuệ (Ariya 
                Magga Nyana) và Thánh Quả Tuệ (Ariya Phala Nyana). Lúc đó, hành 
                giả trở thành bậc Dự Lưu và không còn tái sinh vào bốn cảnh khổ. 
                Vị ấy sẽ tái sinh trong những điều kiện tốt lành ở cõi Người hay 
                cõi Trời, và trong bảy kiếp sẽ thực chứng Niết-bàn tối hậu qua 
                Đạo Quả A-la-hán. Vì vậy, điều cần thiết là mỗi người chúng ta 
                phải nỗ lực hành thiền để tối thiểu phải đạt được quả đầu tiên 
                là quả Dự Lưu. 
 
                - 
                Tới đây, sư sẽ hướng 
                dẫn quí vị thực hành thiền quán trong một thời gian ngắn. 
                
 
                - 
                Xin quí vị ngồi vững 
                vàng, trong một tư thế thích hợp và thoải mái. Hãy nhắm mắt 
                lại... Hãy chú tâm vào bụng, và ghi nhận động tác phồng và xẹp 
                của bụng...Nếu quí vị không nhận thấy rõ, thì có thể đặt tay lên 
                bụng để dễ theo dõi... 
 
                - 
                Hãy ghi nhận chuyển 
                động phồng, từ lúc bắt đầu cho đến lúc cuối, một cách chăm 
                chỉ... Hãy theo dõi chuyển động xẹp một cách tương tự như thế... 
                Chỉ ghi nhận thầm trong tâm mà thôi... 
 
                - 
                Trong khi ghi nhận 
                như thế, nếu có phóng tâm, thì ghi nhận "phóng tâm", rồi đem tâm 
                trở về nơi sự phồng xẹp của bụng... Nếu tai nghe tiếng động, ghi 
                nhận "nghe, nghe, nghe" hai hay ba lần, rồi quay về chú tâm nơi 
                chuyển động của bụng... Nếu có đau nhức, ghi nhận "đau, đau, 
                đau" hai hay ba lần, rồi quay về chú tâm nơi chuyển động của 
                bụng... Xin hãy tiếp tục ghi nhận như thế trong năm phút...  
                
 
                - 
                Kết Luận 
 
                - 
                Bây giờ, chúng ta đã 
                tập hành thiền được năm phút. Trong mỗi phút, chúng ta làm được 
                50 đến 60 hành động thiện lành qua sự ghi nhận. Trong 5 phút, ta 
                thực hiện được tối thiểu là 250 hành động như thế. Trong mỗi sự 
                ghi nhận, nỗ lực chú tâm là Chánh Tinh Tấn. Nhận thức rõ ràng 
                khi ghi nhận là Chánh Niệm. Liên tục chú tâm vào đối tượng thiền 
                quán là Chánh Định. Ba chi nầy tạo thành phần "Định" (Samadhi). 
                Với nỗ lực thiền quán như thế, định lực gia tăng, và ta sẽ có 
                Chánh Kiến trong mỗi động tác ghi nhận. Chủ ý để đưa tâm vào đối 
                tượng thiền quán là Chánh Tư Duy. Hai chi nầy tạo nên phần "Tuệ" 
                (Panna). Ba chi Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng được phát 
                triển trong lúc hành thiền, hợp thành phần "Giới" (Sila). Đó là 
                Tam Học Giới-Định-Tuệ. 
 
                - 
                Mỗi khi ta hành trì 
                pháp Thiền Quán theo dõi và ghi nhận sự phồng xẹp nơi bụng là ta 
                thực hành Bát Chánh Đạo. Đây là Trung Đạo do Ngài Bồ-tát 
                Sĩ-đạt-ta khám phá để Thành Đạo. Trung Đạo nầy giúp phát triển 
                các Tuệ Minh và đưa đến Đạo Tuệ và Quả Tuệ. Vì thế, sư thành 
                thật khuyên quí vị cố gắngtận lực hành thiền ngay cả khi trở về 
                nhà và sống với gia đình. 
 
                - 
                           
                Sư cầu mong quí vị qua pháp hành nầy sẽ có nhiều tiến bộ phát 
                triển định lực, và trong một tương lai gần sẽ được thực chứng 
                Niết-bàn qua Đạo Tuệ và Quả Tuệ.   
 
                - 
                Thiền 
                sư Mahasi Sayadaw
                
 
                - 
                
                Nepal, 
                
                30-11-1980
                
 
                - 
                (Trích dịch: "Mahasi 
                Abroad -- Lectures by Venerable Mahasi Sayadaw, 1980", 
                
 
                - 
                Second Edition, 
                Buddhasasana Association, Myanmar, 1993)
                
 
                - 
                 
 
                
                   -  
 
                
               
              
              
                - --o0o--
 
               
              
              
             
             | 
   
           
               
       
       |