| 
           
      
  
           
                
            
              
              
                - Thư Viện Chùa Dược Sư
 
                - PHẬT HỌC CƠ BẢN
 
                  
               
              
              
                
                   
                  - 
                  
                  Thiền  
 
                  
                
                
                   
                  - Phúc Trung
 
                  
                
                
                   
                  - --o0o--
 
                  
                
                - 
                
                 
 
                - 
                I -DẪN : 
                Thiền là một pháp môn tu tập được nhiều người ưa chuộng nhất,  
                bởi vì người ta thường hay nghe nói đến những quyến năng đạt 
                được của người tu thiền, chẳng hạn như có thể xuất hồn đi chỗ nọ 
                chỗ kia, đi đến những cõi khác, có thể chứng ngộ được nhanh 
                chóng trên đường tu học, trị được những tật bệnh... Nhưng cũng 
                có những người tu thiền không đạt được kết quả gì, trái lại có 
                những người bị bệnh tâm thần thường gọi là "tẩu hỏa nhập ma".  
                Cho nên chúng ta cần phải biết rõ về nguồn gốc, phương pháp tu 
                tập, kết quả một người tu thiền có thể chứng ngộ được, tránh 
                những sai lầm có thể nguy hiểm đến tính mạng. 
 
                
                - 
                II- Nguồn gốc thiền :  
                Đạo Bà La Môn hay gọi là Ấn Độ Giáo phát triển rất sớm ở Ấn Độ, 
                thời kỳ thứ nhất khoảng 1500 đến 1000 năm trước kỷ nguyên họ đã 
                có tư tưởng văn hóa ghi trong kinh điển Về Đà (Veda) , thời kỳ 
                thứ hai từ 1000 đến 800 năm trước kỷ nguyên là thời đại Phạm Thư 
                (Bràhmana) chia xã hội thành 4 giai cấp: fiea cấp Bà La Môn 
                (Brahmana) giữ việc tế lễ tôn giáo, kế đó là giai cấp Sắt Đế Lợi 
                (Ksatriya) gồm vua, quan nắm quyền thống trị, xuống nữa là giai 
                cấp Tỳ Xá (Baisya) gồm nông, công, thương và xuống đến cuối cùng 
                là giai cấp Thủ Đà La (Sùdra) là những người đời đời làm nô lệ.  
                Thời kỳ thứ ba, tư tưởng cuối cùng của Bà La Môn là Triết Học Áo 
                Nghĩa Thư (Upanishad)  từ 800 đến 600 năm trước kỷ nguyên, thời 
                kỳ này phát sinh ra phép tu Du Già (Yoga).  Khi Đức Thế Tôn ra 
                đời thì xã hội Ấn Độ có Ký Na giáo, Lục sư ngoại đạo phái, tư 
                tưởng của 6 nhà ngoại đạo và Kỳ na giáo không chịu ảnh hưởng Bà 
                La Môn, trong đó có phái Du Gíà chủ trương tu Thiền để mong giải 
                thoát. 
 
                
                - 
                          Đức Phật 
                dạy nhiều pháp môn tu học để thoát khỏi sanh tử luân hồi, về 
                Thiền có kinh An Bang Thủ Ý (Kinh Quán Niệm Hơi Thở), Kinh Quán 
                Vô Lượng Thọ, Đức Phật cũng dạy con của Ngài khi mới đi tu : " 
                Này ! La Hầu La, hãy tu tập về sự niệm hơi thở vào, hơi thở ra.  
                Này, La Hầu La, do tu tập niệm hơi thở vào, hơi thở ra, làm cho 
                sung mãn nên được quả lớn, lợi ích lớn...".  
 
                
                - 
                III - Định nghĩa : 
                Thuyền hay Thiền là từ đơn giản, nói cho đủ phải là Thiền Na, 
                phiên âm từ chữ Phạn Jhàna,  người Trung Hoa dịch là Tư duy tu 
                hay Tịnh Lự hay Định Huệ đẳng trì. 
 
                
                - 
                Tư duy tu có nghĩa là 
                tập luyện theo phương pháp tập trung tư tưởng và tâm niệm vào 
                một chỗ để quan sát, suy tư. 
 
                
                - 
                Tịnh lự là phương 
                pháp làm cho tâm lặng yên để suy nghĩ, quan sát chân lý.  Tịnh 
                có nghĩa là yên lặng, nó hàm chứa nghĩa DỪNG LẠI, trong thuật 
                ngữ Thiền gọi là CHỈ.  Lự có nghĩa là suy gẩm, phải dùng tâm trí 
                suy xét, tìm tòi cho ra ý nghĩa của một vấn đề mà thuật ngữ 
                Thiền gọi là QUÁN.  
 
                
                - 
                Định Huệ đẳng trì, 
                Định là chuyên chú, tức TÂM chuyên chú vào một vấn đề, không để 
                tán loạn, Huệ là sáng tỏ.  Lục tổ có dạy rằng : " Thiền định là 
                thể của trí huệ, trí huệ là dụng của Thiền định.  Trong lúc tới 
                trí huệ thì Thiền định ở Trí huệ, trong lúc tới Thiền định thì 
                Trí Huệ ở Thiền định.  Nếu biết nghỉa ấy, tức là sự học Thiền 
                Định, Trí Huệ bằng nhau." 
 
                
                - 
                Tóm lại, Thiền là 
                dừng các tạp niệm, tâm chuyên chú quan sát vào một vấn đề, để 
                đạt đến sự hiểu biết sáng suốt. 
 
                
                - 
                Trong Kinh Kim Cang, 
                ông Tu Bồ Đề có hỏi Phật :"Bạch Đức Thế Tôn ! Nếu có người phát 
                tâm bồ đề, muốn cầu qủa Phật, làm sao an trụ Chơn Tâm, làm sao 
                hàng phục Vọng Tâm ?"  Đức Phật đã trả lời :"Không nên trụ vào 
                Sắc mà sinh tâm.  Không nên trụ vào Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp 
                mà sinh tâm.  Không để tâm trụ vào cái gì hết thì sinh Tâm Bồ 
                Đề". 
 
                
                - 
                Còn trong kinh Lăng 
                Nghiêm Phật dạy :"Nếu các ông muốn biết cái "Câu sanh vô minh" 
                (vô minh chung cùng sanh tử từ vô lượng vô thỉ đến nay)  để trừ, 
                và "Quả vô thượng bồ đề" để tu chứng, vậy nay ta sể chỉ cho các 
                ông rõ. 
 
                
                - 
                Này A Nan ! Khiến cho 
                các ông nhiều kiếp sanh tử luân hồi, chỉ là sáu căn, mà làm cho 
                chứng quả Bồ Đề an vui giải thoát, cũng chỉ là sáu  căn của các 
                ông. Căn và Trần đồng một thể (Tâm) phiền trược và giải thoát 
                không hai (mê thì phiền trược, ngộ thì giải thoát), các thức hư 
                vọng cũng như hoa đốm giữa chốn hư không. 
 
                
                - 
                          - A-Nan ! 
                Vì có trần cảnh, nên ở nơi Căn mới khởi ra phân biệt.  Vì đã có 
                cái căn phân biệt ở nơi căn, nên mới hiện ra cái tướng bị phân 
                biệt là cảnh.  Căn và Cảnh đối đãi nhau vọng hiện, chớ không có 
                thật.  Cũng như hình câ lau gác nhau.  
 
                
                - 
                Thế nên khi THẤY, 
                NGHE hay BIẾT mà khởi vọng niệm phân biệt, đó là gốc vô minh.  
                Còn khi  THẤY, NGHE hay BIẾT mà không khởi vọng niệm phân biệt, 
                đó là Niết Bàn.  Ở trong CHơn Tâm thanh tịnh, không có dung chứa 
                vật gì tất cả!" 
 
                
                - 
                Đó là những gì căn 
                bản của phương pháp tu thiền. 
 
                
                - 
                IV - PHÂN LOẠI : 
                Thiền phân loại tùy theo phương pháp tu tập.  Thông thường, 
                người ta phân chia  Thiền ra làm 3 loại: 
 
                          - Như lai thiền  
                - 
                - Tổ sư thiền 
                
 
                - 
                - Ngoại đạo thiền
                
 
                
                - 
                         
                1.- Như lai thiền:  Thiền 
                theo phương pháp Phật chỉ dạy như Kinh Quán Niệm Hơi Thở, Quán 
                Vô Lượng Thọ hay theo Ngũ Đình Tâm Quán:
 
                
                - 
                          - Sổ tức 
                quán: Theo dõi hơi thở, để đối trị bệnh tán loạn của tâm. 
                
 
                
                - 
                          - Bất tịnh 
                quán: Tức tuántưởng thân không thanh tịnh, để đối trị lòng tham 
                sắc dục. 
 
                
                - 
                          - Từ bi 
                quán;  Xem tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, bình đẳng, không 
                thù ghét, thương yêu nhau, để đối trị lòng sân hận. 
 
                
                - 
                          - Nhân 
                duyên quán:  Qúan tưởng tất cả sự vật đều giả hợp, do duyên mà 
                có, không trường tồn, chân thật, để đối trị lòng si mê vật chất.
                
 
                
                - 
                          - Giới phân 
                biệt quán: phân biệt và quán tưởng 6 trần, 6 căn, 6 thức vị chi 
                18 giới đều không thật có "ngã, pháp" để đối trị chấp ngã.
                
 
                
                - 
                         
                2.-Tổ sư thiền: Thiền theo 
                phương pháp chư Tổ từ Ngài Bồ Đề Đạt Ma trở về sau, ấy là phương 
                pháp công án hay Khán thoại đầu.  Công án là một vấn đề mà thiền 
                sư đề ra cho người đệ tử giải quyết còn Khán thoại đầu, cái gì 
                ta nói ra đã là thoại vĩ, vậy thoại đầu là cái mé chưa sanh một 
                niệm, tức là chỗ không sanh không diệt, luôn luôn chăm chú nơi 
                "không sanh không diệt " ấy, gọi là khán thoại đầu. 
 
                
                - 
                Chư tổ thường dùng 
                phương pháp: Hỏi, hét, đánh, đạp cốt để đập vỡ cái võ cứng cố 
                chấp, hoài nghi làm cho người đệ tử bừng tỉnh sau một thời gian 
                đắm chìm trong suy tư về công án hay thoại đầu, sự bừng tỉnh ấy 
                có thể người đệ tử được " Khoát nhiên đại ngộ".  Chẳng hạn nhjư 
                sau khi Tổ Bồ Đề Đạt Ma tịch, vấn đề giải thoát được nêu lên với 
                tất cả tin thành của người Phật tử.  Người ta tham vấn biết bao 
                Thiền sư qua câu hỏi :" Như hà thị Tổ sư Tây lai ý ?" ( Ý nghĩa 
                tối yếu của Tổ Bồ Đề Đạt Ma qua Trung Hoa là gì ?) 
 
                
                - 
                Thiền sư Hương Lâm 
                đáp : "Ngồi lâu thấm mệt !"  
 
                
                - 
                Thiền sư Cửu Phong 
                đáp :" Một tấc lông rùa nặng chín cân"  
 
                
                - 
                Thiền sư Triệu Châu 
                đáp : " Cây Bách ở trước sân !" 
 
                
                - 
                Riêng Thủy Lão tham 
                kiến câu này với Mã Tổ Đạo Nhất, bị ngài Đạo Nhất đạp cho một 
                đạp té nhào, sau khi bò dậy, tỉnh cơn chấnđộng từ thể xác dến 
                tinh thần, Thủy Lão nói:" Kỳ thật, trăm ngàn món tam muội, vô 
                lượng ý nghỉa diệu huyền chỉ ở trên đầu một sợi lông và nhờ thế 
                mà tôi liễu ngộ được cội nguồn !" 
 
                
                - 
                Ở thiền viện kia, vị 
                thiền sư mỗi khi muốn nói ra một vấnđề gì quan trọng, thường đưa 
                ngón tay lên miệng, để cho mọi người im lặng.  Trong chùa có một 
                chú tiểu rất thông minh, thấy thiền sư làm như thế chú cũng bắt 
                chước, đưa ngón tay lên miệng khi muốn nói chuyện quan trọng.  
                Một hôm hầu chuyện thiền sư, chú tiểu sắp trình bày chuyện quan 
                trọng, ra vẻ trang nghiêm, chú đưa ngón tay lên miệng, thấy thế, 
                sẵn có con dao rọc giấy,  thiền sư bèn nắmlấy đè ngón tay chú 
                tiểu xuống bàn, tiện mất một đốt tay ấy.  Chú tiểu đau đớn và 
                hoảng sợ, kêu lên rồi bỏ chạy, thiền sư đuổi theo gọi : "Này 
                chú!"  Chú tiểu quay đầu nhìn lại, Thiền sư đưa ngón tay lên 
                miệng, quen tánh, thấy vậy, chú tiểu cũng đưa ngón tay lên.  
                Nhưng chợt nhận ra ngón tay mình đã mất, chú tiểu bỗng thấy tâm 
                trí bừng sáng, khoát nhiên đại ngộ. 
 
                
                - 
                Nhưng mà thuật ngữ 
                Đại Ngộ là ngộ cái gì ? Thiền tông chủ trương : Giáo ngoại biệt 
                truyền, bất lập văn tự, trực chỉ minh tâm, kiến tánh thành Phật 
                ( Đặc biệt truyền riêng, không viết thành kinh sách, chỉ thẳng 
                vào tâm, thấy tánh là thành Phật), khoát nhiên đại ngộ đó Bất 
                khả tư nghi (Không thể nghĩ bàn được) một tiền đề của Ngộ. Vè 
                bất khả tư nghị, khi Phật còn tại thế, ở Hội Linh Sơn, Phật đưa 
                cành hoa sen lên, yên lặng không nói chi, Ngài Ca Diếp lĩnh hội 
                được ý Phật, ngài mỉm cười.  Sau này trở thành vị Đệ Nhất Tổ.
                
 
                
                - 
                Tổ Bồ Đề Đạt Ma một 
                hôm gọi các đệ tử đến hỏi :" Giờ ta ra đi sắp tới, vậy mỗi đệ tử 
                hãy nói cho ta nghe sở đắc của mình."  Nào Đạo Phỗ, Đạo Dục, 
                Tổng trì Ni mỗi người đều trình kiến giải của mình.  Sau rốt có 
                Huệ Khả làm lễ bái sư rồi đứng ngay một chỗ, im lặng không một 
                lời.  Qua đó Tổ truyền y bát cho Huệ Khả. 
 
                
                - 
                Không phải các thiền 
                sư đều thành công, truyện thất bại hết sức đau thương sau đây, 
                đã nói lên sự dụng công hết mức của Thiền Sư, người đệ tử vẫn 
                không tự phá vỡ nổi cái vỏ cứng của Công án, trường hợp này, 
                dưới mắt của thiền sư, chỉ một chút, còn một chút nữa thôi người 
                đệ tử sẽ đạt đến đại ngộ, nhưng về phía người đệ tử không thể 
                vượt qua, chỉ ở đây mới nói lên sự đòi hỏi quyết liệt của thiền 
                sư là mỗi người phải Tự chứng tự tri. 
 
                
                - 
                Có một đệ tử kia, sau 
                khi được thiền sư trao công án, nghiền ngẫm, nung nấu đã lâu mà 
                không ngộ được, thiền sư kiên nhẫn, thúc bách và khuyến khích:
                
 
                
                - 
                          - Chú về 
                thử ba tháng nữa xem. 
 
                
                - 
                          Ba tháng 
                sau, người đệ tử trở lại trình thiền sư chưa có kết quả, vị 
                thiền sư lại khuyến khích: 
 
                
                - 
                          - Chú về 
                thử ba tuần nữa. 
 
                
                - 
                          Ba tuần sau 
                trở lại, người đệ tử vẫn chưa có két quả. 
 
                
                - 
                          Thiền sư 
                thúc bách thêm:  
 
                
                - 
                          - Ba ngày 
                nữa mà không giác ngộ thì chết đi cho rồi, chớ tu nữa mà làm gì 
                ? 
 
                
                - 
                          Ba ngày 
                sau, khi đệ tử xuất hiện, vị thiền sư hỏi ngay: 
 
                
                - 
                          - Sao, công 
                án đi đến đâu rồi ? 
 
                
                - 
                          - Bạch 
                Thầy, con rất hổ thẹn, con vẫn chưa tìm ra được.  Con sẽ tự tử.
                
 
                
                - 
                          Thiền sư 
                quát: 
 
                
                - 
                          - Thì tự tử 
                đi. 
 
                
                - 
                          Người đệ tử 
                liền rút dao trong người ra, mổ bụng chớp nhoáng rồi ngả gục 
                xuống.  Thiền sư nhìn vào nét mặt của người đệ tử của mình và 
                thúc dục: 
 
                
                - 
                          - Tự tử thì 
                được rồi, nhưng công án đã tìm ra chưa? 
 
                
                - 
                          Thều thào 
                người đệ tử thưa: 
 
                
                - 
                          - Bạch thầy 
                chưa! 
 
                
                - 
                          Vị thiền sư 
                bồi thêm nhát búa cuối cùng: 
 
                
                - 
                          - Câm đi! 
                Người chết không có nói bao giờ. 
 
                
                - 
                          Nhát búa 
                cuối cùng ấy không chẻ được khối tư duy của người đệ tử.  Một 
                thất bại chua cay cho thiền sư, và cũng là một thảm cảnh cho 
                thiền viện về công án thiền. 
 
                
                - 
                Những câu chuyện 
                thiền, cho chúng ta thấy ở thiền viện, thiền sư có nhiệm vụ theo 
                dõi tiến trình tâm sinh lý của đệ tử, để dồn ép, xô đẩy người đệ 
                tử vào một xó góc không lối thoát, và chọn lựa đúng thời cơ để 
                bắt buộc người đệ tử phải vượt qua, cũng giống như xô đẩy người 
                đệ tử leo lên đầu của một cây sào trăm thước, leo như vậy đã 
                khó, khi đã lên tận đầu sào vẫn bị thúc đẩy phải leo lên nữa, 
                tức là vượt lên khỏi đầu sào, không còn được bám víu vào ngọn 
                sào một phương tiện dùng để vượt qua trăm thước.  
 
                
                - 
                Hiểu theo nghĩa thông 
                thường, một giới hạn mà thiền sinh phải vượt qua để đạt tới tới 
                hạn của thiền, ai đã tiếp tục leo lên nữa, sẽ rời khỏi đầu sào, 
                rơi từ trên cao trăm thước xuống, người ấy sẽ có một cảm giác, 
                một tới hạn tự chứng tri. 
 
                
                - 
                          3.- Ngoại 
                đạo thiền: Những phương pháp thiền khác, không chính thống Phật 
                giáo hay không thuộc một trong hai loại trên là ngoại đạo thiền.
                
 
                
                - 
                V.- Hành thiền: 
                Muốn tu tập pháp môn thiền, chúng ta phải nhận thức rằng vì vô 
                minh vọng động nên chúng ta bị vạn duyên ràng buộc, niệm niệm 
                sanh diệt, trói buộc chúng ta trong vòng sanh tử luân hồi, tập 
                thiền để tạp niệm không sanh, thoát khỏi luân hồi. 
 
                
                - 
                Đức Phật trải qua 
                hằng vô lượng vô số kiếp  tu tập, vì nhân duyên đại sự Ngài mới 
                thị hiện cõi ta bà này để giáo hóa chúng sanh, không phải Ngài 
                tu nhứt kiếp, ngộ nhứt thời.  Vậy điều cốt yếu là chúng ta phải 
                tu tập hàng ngày, loại bỏ các tạp niệm dần dần tự tánh sẽ sáng 
                suốt. 
 
                
                - 
                         
                1.- Nhận thức: Muốn chấm dứt 
                nhân quả để thoát khỏi sanh tử luân hồi, người tu thiền phải giữ 
                cho 3 nghiệp được thanh tịnh: Thân nghiệp, khẩu nghiệp, Ý 
                nghiệp. 
 
                
                - 
                     
                     A) Hành vi tạo tác thân nghiệp : 
                Vì vậy chúng ta phải giữ chẳng những không sát sinh, trộm cắp, 
                tà dâm, mà còn tập mỗi mỗi hành động cẩn trọng, nhẹ nhàng khi 
                đi, đứng, nằm, ngồi.  Tâm chúng ta sẽ không thanh tịnh, nếu 
                chúng ta có những cử chỉ, hành động thô bạo. 
 
                
                - 
                     
                     B) Lời nói tạo tác khẩu nghiệp: 
                Chúng ta phải tránh nói dối, nói thêm bớt, chửi mắng, khen chê 
                người khác, nghe người ta nói rồi nói đi nói lại để gây thù oán 
                nhau... nên dùng lời lẽ êm ái, dịu dàng, khuyên can mọi người để 
                sống hòa ái với nhau.  Người xưa nói "Bệnh tòng khẩu nhập, họa 
                tòng khẩu xuất", nói chẳng những dễ gây họa mà tâm cũng dễ bị 
                phân tán. 
 
                
                - 
                    
                      C) Tư tưởng tạo tác ý 
                nghiệp: Chúng ta phãi 
                tránh tham, sân, si.  Phải giữ cho tâm thanh thịnh hoặc chỉ 
                tưởng nhớ đến những điều hay, tốt đẹp.  Bất cứ làm việc gì  cũng 
                phải chú tâm vào đó, không nên để thân làm một việc, còn tâm 
                nghĩ đến việc khác, đây cũng chính là thiền.   Luôn luôn giữ cho 
                Thân, Khẩu, Ý cho được thanh tịnh từ lúc buổi sáng cho đến khi 
                đi ngủ vào buổi tối. 
 
                
                - 
                         
                2.- Phương pháp: Về phương 
                pháp hành thiền thì phải: 
 
                
                - 
                -Điều thân 
                
 
                - 
                -Điều tức 
                
 
                - 
                -Điều tâm 
                
 
                
                - 
                     
                     A) Điều thân: 
                Có 3 phần:  
 
                
                - 
                          a) Trước 
                khi ngồi thiền: Phải giữ thân thể sạch sẽ, nên tắm rửa trước khi 
                ngồi thiền, không tắm được thì cũng phải rửa mặt, tay, chân.  Ăn 
                mặc quần áo phải rộng rãi và sạch, để tránh bị ngứa ngáy, khó 
                chịu.  Không ngồi thiền lúc bụng no, tối thiểu phải ngồi thiền 
                sau khi ăn độ 2 giờ.  Cũng không nên để bụng đói quá, nếu thiền 
                vào sáng sớm hay trước bữa ăn, nên uống một tách trà hay thức 
                uống. 
 
                
                - 
                          b) Trong 
                khi ngồi thiền: Ngồi trên bồ đoàn (hay cái gối thật mềm), hoặc 
                dùng gối chêm ở mông cho 2 mép đầu gối nằm sát xuống sàn nhà, 
                ngồi xuống rồi nới rộng lưng quần để cho bụng thoải mái trong 
                khi thở, xoay mình qua trái, qua phải vài cái rồi ngồi một trong 
                hai thế: 
 
                
                - 
                          - Ngồi bán 
                già: Đặt bàn chân trái lên đùi phải. 
 
                
                - 
                          - Ngồi kiết 
                già: Đặt bàn chân phải lẻn đùi trái, rồi đặt bàn chân trái lên 
                đùi phải (hai chân gài với nhau) 
 
                
                - 
                Hai tay, trước tiên 
                để lên hai đầu gối, để cân cho vai ngang, xương sống thẳng, rồi 
                lấy bàn tay trái để lên gót chân phải, bàn tay phải để lên bàn 
                tay trái, hai lòng bàn tay khum khum, kéo sát vào bụng, hai đầu 
                ngón tay cái giao nhau, ngay rún.  Ngồi giữ cho lưng (xương 
                sống) thật thẵng, lỗ tai và bả vai, chót mũi và rún phải ngay 
                nhau.  Mắt để hé,nhìn ngay chót mũi.  Miệng ngậm lại, răng trên 
                kề răng dưới, chót lưỡi cong lên đụng nướu răng trên.  Mặt nhìn 
                xuống, hướng mắt nhìn với thân hợp thành góc 30 độ (mắt nhìn 
                xuống một điểm ở sàn nhà, cách hai chân ta chừng một gang tay) 
                để giữ cho xương sống thật thẳng từ xương khu lên đến ót. 
                
 
                
                - 
                Trong suốt thời gian 
                ngồi thiền không được nhúc nhích, cục cựa do thân bị ngứa ngáy 
                hoặc bị kiến cắn hay muỗi đốt (tìm cách phòng ngừa trước như 
                phải giữ thân thể, quần áo sạch sẽ, không ngồi nơi có kiến, ngồi 
                trong mùng nơi không có muỗi) Khi bị ngứa ngáy buổi ban đầu, sau 
                dần sẽ không có nữa. 
 
                - 
                Lúc mới ngồi thiền có 
                thể bị ngủ gục, thân bị ngã qua ngã lại, tỉnh ngủ phải sửa thân 
                lại, đôi khi ngưng thiền để kiểm soát thân ngồi có đúng thế hay 
                không, dù không bị ngủ gục, thân đôi khi cũng bị nghiêng qua 
                lại, có thể nhờ người nhà thỉnh thoảng theo dõi sửa giùm. 
                
 
                
                - 
                Mặc dù phải thẳng 
                lưng, hai chân gác chéo nhau, hai tay khoanh ở trước nhưng không 
                được gồng các bắp thịt, phải để cho các cơ bắp ở thế nghỉ ngơi 
                hoàn toàn thoải mái. 
 
                
                - 
                Giữ cho được chỗ ngồi 
                thiền yên tịnh, trong lành cũng có thể đốt nhang thơm hay xông 
                trầm.  Không  nên ngồi nơi lạnh quá hay nóng quá.  Trong khi 
                ngồi thiền, yêu cầu người nhà giữ cho yên tịnh, đừng làm ồn ào, 
                đừng quấy rầy mình, nhứt là đừng làm kinh động có thể nguy hiểm 
                cho mình, cho nên cần lựa giờ giấc thích hợp nhất, ít ai lui 
                tới. 
 
                
                - 
                          c) Sau khi 
                ngồi thiền: Phải giữ các cử động đi từ tế đến thô, tránh cử động 
                mạnh và đột ngột ngay sau khi ngồi thiền, cho nên trước tiên ta 
                ý thức mình đang ngồi thiền vừa mới xong, từ từ đưa hai tay ra 
                để trên đầu gối, rồi thở vài hơi thở dài sau đó thở sâu, dùng 
                hai tay xoa vào nhau cho nóng rồi úp lên hai mắt, rồi lấy tay 
                xoa trán và vổ trán vài cái (có thể dùng hai bàn tay đan vào 
                nhau chà xát vài lần) tiếp theo xoay mình vài cái rồi thả hai 
                chân ra, dùng tay bóp chân từ vế đến đùi, cuối cùng mới đứng lên 
                và từ từ đi. 
 
                
                - 
                Trong khi ngồi 
                thiền,  đạt được cảm giác thoãi mái nên giữ cảm giác này suốt 
                ngày.  Ngoài thời gian ngồi thiền, luôn luôn phải giữ cho thân 
                cùng ý hợp nhau, nghĩa là ta hành động gì thì tâm ta phải chú ý 
                vào đó.  Những lúc không làm gì, không để tâm miên man vào vấn 
                đề nầy hay vấn đề kia, tưởng nghĩ đến việc thiện hay hình tượng 
                Phật thì tốt nhất. 
 
                
                - 
                     
                     B) Điều tức : 
                Ai cũng biết rằng động tác của phổi dùng để hút oxy trong không 
                khí vào cơ thể nuôi dưỡng máu huyết, tống thán khí đã xử dụng ra 
                ngoài, ngày nay khoa học cho thấy rằng thở càng dài hơi càng 
                tốt, vừa để hít nhiều oxy vào, tống hết thán khí ra, nhưng có đủ 
                thời gian để trao đổi hết oxy hút vào càng tốt hơn, trong một 
                phút, bình thường phổi làm việc 18 lần, nếu chúng ta thở dài hơi 
                phổi sẽ làm việc chừng 10 lần, như vậy đời sống của phổi dài ra 
                tức nhiên tuổi thọ con người cao hơn. 
 
                
                - 
                Chúng ta biết rằng 
                con người có hành động ý thức và vô ý thức, thí dụ ta dơ tay lấy 
                cây bút để viết, hành động đó có ý thức do tâm chúng ta điều 
                khiển, khi ta đi từ chỗ này sang chỗ kia, có khi ta điều khiển 
                cho chân ta bước đó là hành động có ý thức, có lúc ta quên điều 
                khiển nhưng chân ta tự bước đi, đó là hành động vô thức hoặc khi 
                ta đi, hai tay tự nó đánh  đồng xa (đưa tới, đưa lui) hành động 
                này ta không điều khiển, hoàn toàn vô thức.  Nay ta tập thiền 
                với mọi hoạt động đều có ý thức, có sự chú ý, cột tâm ý ta với 
                hành động thành một.  Những thiền viện ở Thái Lan, Miến Điện họ 
                luyện tập về tập trung tư tưởng như sau. Ví dụ muốn dơ tay phải 
                lên, người ta nghĩ trong đầu óc : dơ, dơ,dơ, tay, tay, phải, 
                phải, lên, lên, lên...từ từ họ dơ tay phải lên.  Làm như vậy để 
                tâm ta luôn luôn gắn chặt vào hành động. Lói thiền nầy gọi là 
                Thiền Minh Sát Tuệ. 
 
                
                - 
                Thở còn dùng để tập 
                trung tinh thần (Sổ tức quán), dùng làm kinh nghệm do thời gian 
                trong bước đầi khi ngồi thiền.  Thí dụ: Khi áp dụng Sổ tức quán, 
                người ta đếm được 300 hơi thở trong 30 phút, như vậy, cứ 100 hơi 
                thở la 10 phút.  
 
                
                - 
                Chúng ta có thể phân 
                biệt 3 loại thở: 
 
                
                - 
                          - Thở sâu:  
                Khi thở phải hít vào dài hơi, ngực nở, bụng phình ra, khi thở ra 
                co thót bụng lại để tống hết thán khí ra ngoài. 
 
                
                - 
                          - Thở dài 
                hơi :  Thời gian thở kéo dài hơn bình thường. 
 
                
                - 
                          - Thở 
                thường :  Thở thường nhưng dều đặn. 
 
                
                - 
                          Thở có 3 
                nhịp: 
 
                
                - 
                          - Nhịp 2 : 
                Hít vào rồi thở ra. 
 
                
                - 
                          - Nhịp 3 : 
                Hít vào, ngưng lại giữ hơi, thở ra (hay hít vào, thở ra, ngưng 
                giữ hơi). 
 
                
                - 
                          - Nhịp 4 :  
                Hít vào, ngưng giữ hơi, thở ra, ngưng. 
 
                
                - 
                Thường thường người 
                ta áp dụng thở sâu với nhịp thở 4 hay 3, thở dài hơi với nhịp 
                thở 3 và thở thường với nhịp thở 2.  Hầu hết thiền đều áp dụng 
                thở thường mà thôi. 
 
                
                - 
                Thở phải hết sức từ 
                từ, thong thả, nhẹ nhàng, giữa hít vào và ngưng thở hay từ hít 
                vào cho đến thở ra đều phải biến đổi từ từ gần như không có giới 
                hạn.  Hít vào thờ ra chỉ dùng lỗ mũi mà thôi.  Bắt đầu buổi ngồi 
                thiền phải thở 3 hơi thật sâu vừa để tống thán khí ra vừa để 
                nương theo hơi hít vào làm cho xương sống thẳng đứng. 
                
 
                
                - 
                     
                     C)  Điều tâm :
                
 
                
                - 
                Đây là phần chính 
                trong buổi tập thiền.  Mục đích điều tâm là "Buông bỏ hết mọi 
                suy nghĩ phân biệt". Người xưa thường nói "Tâm viên, ý mã" nghĩa 
                là Tâm của ta như con vượn, nhảy nhót lăng xăng, còn ý của ta đi 
                nhanh chóng như ngựa phi nước đại.  Ví dụ chúng ta đang ở Mỹ đây 
                mà nghe ai nóiđến Việt Nam thì ta liền liên tưởng đến cảnh nào 
                đó ở Việt Nam, vậy ý tưởng của ta đi nhanh hơn ngựa chạy, có thể 
                nói nhanh như điện tử vậy.   Cho nên điều tâm là làm sao cho tâm 
                dừng lại, không suy nghĩ gì hết, làm được việc này thật là khó.  
                Có 2 phương pháp: 
 
                
                - 
                          * Thiền hữu 
                chủng:  Thiền có đè mục hay vấn đề để chúng ta tập trung tư 
                tưởng vào đó, không để cho tâm buông lung, muốn nghĩ gì thì 
                nghĩ, phương pháp này có 3 giai đoạn: 
 
                
                - 
                          - Định tâm: 
                (Tập trung tư tưởng)  giữ tư tưởng cho được yên tịnh, tâp trung 
                vào một sự việc. 
 
                
                - 
                          - Tham 
                thiền:  Suy nghĩ  một vấn đề, đi từ thỉ cho đến chung, đi từ 
                nhân cho đến quả. 
 
                
                - 
                          - Nhập 
                định:  Nhập vào cái rốt ráo của vấn đề, hòa mình vào đó, không 
                còn suy nghĩ phân biệt. 
 
                
                - 
                Ba giai đoạn này, 
                phải đi từng bước như khi nhỏ, ta phải học mẫu giáo rồi mới vào 
                tiểu học, trung học, đại học.  Vậy bước đầu phải tập định tâm: 
                Có rất nhiều cách, nhưng có 2 cách dễ dàng áp dụng: 
 
                
                - 
                     
                     1.- Sổ tức quán : 
                Dùng phương pháp thở dài hơi nhịp 2, tập trung tư tưởng theo hơi 
                thở và đếm số, khi hít vào thì đếm, khi thở ra không đếm, chúng 
                ta đếm từ 1 tới 10 rồi trở lại từ 10 cho tới 1,  hoặc từ 1 đến 
                100 rồi trở lại từ 100 cho đến 1.  Khi hít vào, thở ra phải thật 
                nhẹ nhàng và đều đặn, phải đếm thầm  và ghi nhớ rõ ràng, nếu 
                quên nửa chừng phải đếm lại từ đầu,  bắt buộc phải có kỷ luật 
                như vậy, tâm ta mới chú ý vào hơi thở, trí ta mới định.  
                
 
                
                - 
                     
                     2.- Quán tưởng : 
                Để tâm hướng vào một vật, hình dạng thật đơn giản.  Thí dụ ta vẽ 
                một vòng tròn đường kính chừng 2 tấc, sơn màu vàng, nhìn nó cho 
                kỹ rồi khi ngồi thiền ta cứ hình dung và giữ hình ảnh vòng tròn 
                màu vàng ấy luôn luôn hiện ra trong tư tưởng của ta, không suy 
                nghĩ gì khác và cứ giữ như thế suốt buổi ngồi thiền. 
                
 
                
                - 
                Đấy là những phương 
                pháp Định tâm đơn giản, sau khi ngồi thiền ta cũng phải giữ tâm 
                ta luôn luôn chú ý vào hành động ta đang làm, chẳng hạn như khi 
                rửa chén trong chậu, ta để tâm vào công việc rửa từng cái chén, 
                từng cử động của chúng ta, khi quét nhà tâm ta phải theo dõi 
                từng động tác quét của ta với từng cọng rác.  Khi tập lái xe, 
                tập trung chú ý vào những gì  ở trước mắt ta, đừng để tư tưởng 
                nghĩ gì khác.  Tóm lại, nhất nhất, THÂN và TÂM là MÔT giữ cho 
                được từng giờ, từng phút, ấy là Định tâm. 
 
                
                - 
                Định được tâm lâu mau 
                tùy theo căn cơ, tùy theo nguyện lực của mỗi người,  có thể vài 
                tháng, có thể vài năm, cái tâm ta vốn nhiều kiếp lăng xăng lộn 
                xộ đã quen rồi,nay ta mới tập cho nó định cho nên khó.  Chúng ta 
                thấy con khỉ, người ta xích nó lại, dù 5 hay 10 năm, nó vẫn nhảy 
                nhót, leo lên tuột xuống lăng xăng, cái tâm của ta cũng y như 
                vậy mà thôi.  Sau khi định tâm được rồi ta mới bắt đầu tham 
                thiền về một vấn đề gì đó, trong một buổi chỉ tham thiền về một 
                vấn đề mà thôi.  Ví dụ ta tham thiền về câu đầu trong  Ma Ha Bát 
                Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh : Quán tự tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhã 
                Ba La Mật Đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết 
                khổ ách.  Đọc thầm từng chữ rồi tìm hiểu ý nghĩa  từng chữ, từng 
                câu và cả đoạn kinh.  Tham thiền là giai đoạn Tham Công Án hay 
                Khán Thoại Đầu trong thiền viện. 
 
                
                - 
                Và cuối cùng là chúng 
                ta xem xét đến tận cùng của vấn đề, để ta với nó chỉ là một, ấy 
                là nhập định, cứu cánh của thiền.  
 
                
                - 
                Đừng bao giờ tham 
                thiền khi tâm ta chưa định, phải định tâm cho được mới qua tham 
                thiền dù phải mất 5 hay 10 năm hay cả đời cũng phải kiên nhẫn 
                thành công từng bước mới đến nhập định được. 
 
                
                - 
                          * Thiền vô 
                chủng:  Ngồi thiền nhưng giữ cho tâm không suy nghĩ điều gì hết, 
                đạt được tâm thanh tịnh tức đạt đến cứu cánh của thiền.  Nhưng 
                mà điều này hết sức khó khăn, phương pháp cơ bản để thực hành 
                như sau: 
 
                
                - 
                          - Theo dõi 
                tư tưởng: Ngay từ đầu cứ để cho tư tưởng tự do muốn tưởng chi kệ 
                nó, để dần dần xem coi cách nthế nó tưởng tượng ra sao, tìm ra 
                quy luật của sự tưởng tượng rồi dần dần loại trừ những tư tưởng 
                sai quấy, rồi dần dần cả những tư tưởng tốt cũng dừng lại, nghỉa 
                là để cho tâm được yên tịnh, biết có vọng niệm nổi lên liền 
                không cho nó tiếp tục.  Thí dụ đương không ta bị nghĩ tới bãi cỏ 
                xanh ở trước sân, nếu ta không biết, ta sẻ nghĩ tới những cây 
                bông hồng ta trồng ở đó, có cành đã ra hoa, có cành có nụ, ta 
                nghỉ muốn cho hồng tốt, chiều nay sẻ vun phân tưới nước ... tự 
                nhiên ta bị lôi cuốn vào đó, nếu ta biết mình đang ngồi thiền, 
                khi có hình ảnh cỏ trước nhà, ta liền không nghĩ tới nó nữa để 
                giữ tâm thanh tịnh. Vì phương pháp thiền vô chủng rất khó, nên 
                thường người ta dùng các phương pháp định tâm của thiền hữu 
                chủng, sau khi tâm định rồi, người ta mới bước sang thiền vô 
                chủng. 
 
                
                - 
                VI. - Thời gian:  
                Người ta ngồi thiền vào các giờ Tý (12 giờ đẻm) , Ngọ (12 giờ 
                trưa), Mão (6 giờ sáng), Dậu (6 giờ chiều).  Giờ giấc như vậy 
                theo Đông phương có Âm, Dương, 6 giờ sáng và 6 giờ chiều là giao 
                thời trong ngày, không khí hòa bình, 12 giờ trưa cực dương, 12 
                giờ đêm cực âm, thường người ta hay ngồi thiền vào 6 giờ sáng va 
                6 giờ chiều, thuận cho giờ giấc đi làm việc. 
 
                
                - 
                Về thời gian mới đầu 
                nên ngồi 10 đến 15 phút sau tăng dần lên, phương pháp tăng dần 
                như sau: ngồi 15 phút được 3 hay 4 tuần cho quen rồi tăng thêm 5 
                phút.  Tóm lại mỗi lần chỉ tăng chừng 5 phút, phải tập cho quen 
                với thời gian đã tăng từ 3 đến 4 tuần mới tăng thêm 5 phút nữa.
                
 
                
                - 
                VII.- NƠI CHỐN: 
                Ở nhà ta tìm vị trí trang nghiêm,  khoảng khoát, không khí trong 
                lành và yên tịnh, có thể xông trầm hay đốt hương thơm, cho nên 
                ngồi thiền trước bàn thờ là hay nhất.  Khi thiền không nên để 
                đèn sáng, không để tối, có ánh sáng lờ mờ, êm dịu là tốt, nơi 
                này mùa đông không lạnh quá, mùa hè không nóng quá.  Nều có muỗi 
                nên ngồi thiền trong cái màn (mùng) nên tránh ngồi thiền trên 
                giường ngủ. 
 
                
                - 
                VIII.- Các trở ngại 
                và cách đề phòng: 
                
 
                
                - 
                          -Trở ngại 
                thứ nhất là sự nản chí, vì không đạt được như ý muốn rồi bỏ 
                cuộc. 
 
                
                - 
                          - Trở ngại 
                thứ hai là sự lười biếng.  Thể xác của chúng ta thích được ăn 
                ngon, ngủ kỹ, được nghe người ta tâng bốc bằng lời dịu ngọt, 
                thích nhìn cảnh quyến rũ đẹp đẻ... nuông chìu theo những ý muốn 
                đó ta sẽ ngày tập ngày không, dần dần rồi cũng bỏ cuộc.  Phải 
                ngồi thiền hàng ngày, dù có đau ốm cũng phải ngồi thiền, ngồi 
                thiền có thể trị bớt bịnh, thân thể cảm thấy khỏe khoắn hơn.
                
 
                
                - 
                Thiền là sự tinh lọc 
                tinh thần, đươong nhiên phải tinh lọc thể xác, cho nên bắt buộc 
                phải giữ gìn giới hạnh cho nghiêm mật, phải tu tâm sửa tánh, gìn 
                lời giữ ý từng giây từng phút.  Có những người ngồi thiền có kết 
                qủa, nhưng tâm không tu sửa sẽ bị bệnh hoạn, có hại hơn là có 
                lợi cho bản thân.  Không nên hút thuốc và uống rượu.  Vì đau ốm 
                phải uống thuốc có ngâm rượu, phải ngưng tập thiền trong ngày 
                hôm đó. 
 
                
                - 
                Trong khi ngồi thiền, 
                bị tức ngực ấy là do hơi thở không suông sẻ, trong lúc thiền bị 
                nhức đầ phải xả (ngưng) một chút rồi tập lại, nếu vẫn bị thì xả 
                thiền, không tập thêm nữa, hôm sau sẽ tập lại, hôm sau tập vẫn 
                còn bị nhức đầu, nên ngưng vài hôm rồi tập trở lại, nhức đầu do 
                ta chú tâm quá mức.  Bị ngủ gục, đó là do mới tập, chưa quen.
                
 
                
                - 
                Mới tập trong 6 tháng 
                đầu, tâm sinh lý bị thay đổi, đôi khi tánh nóng nỗi lên bất 
                thường, đó là do sự dồn nén tâm lý, nên tập hạnh huỷ xả và từ bi 
                với mọi người chung quanh.  Chừng 5, 7 năm trở đi tâm ta thay 
                đổi nhiều, tánh chúng ta sẽ hiền hòa, thuần thục hơn. 
                
 
                
                - 
                Tập bỏ bớt các ưóc 
                muốn, sống bình dị, đương nhiên cần phải thực hành hạnh bố thí.
                
 
                
                - 
                Những người cư sĩ tại 
                gia như chúng ta, đừng bao giờ nghĩ rằng " Tu nhất kiếp, ngộ 
                nhất thời ", phải có lòng tin vững chắc khi tâm ta thanh tịnh 
                thì trí tuệ được sáng tõ, như lời Phật dạy "Ưng vô sở trụ nhi 
                sanh kỳ tâm" để trả lời ông Tu Bồ Đề hỏi: " Làm sao an trụ chơn 
                tâm, làm sao hàng phục vọng tâm ? " 
 
                
                - 
                IX .- Vài mẫu chuyện 
                thiền: Năm 
                1989 và 1990, chúng tôi có đến viếng thượng tọa Thích Thông Lạc 
                ở Trảng Bàng, Tây Ninh.  Mặc dù hai làn đó đều là ngày chủ nhật 
                nhưng người đến viếng Thượng Tọa không hơn 10 người, đều là 
                những người ở Aaigon lên.  Nơi Thượng Tọa tu gồm có một chánh 
                điện cất đơn sơ, mỡi bề chừng 6 thước, một dãy nhà khách chừng 8 
                thước, rộng độ 3 thước, một dãy nhà bếp bằng nhà khách, xung 
                quanh có những cái cốc lợp bằng tranh, mái đan tre, nền đất, bên 
                trong chỉ có một cái giường nằm cũng bằng tre, đơn sơ hết sức.
                
 
                
                - 
                          Trả lời 
                những câu hỏi về tu chứng,  Thượng Tọa cho biết, trước Thượng 
                Tọa có tu với Thiền sư Thanh Từ một năm, sau đó Thượng Tọa ra 
                các hòn ở Rạch Giá để tu, nhưng không kết quả.  Cuối cùng Thượng 
                Tọa trở về quê ở Trãng Bàng, cất thảo am. làm ruộng, trồng tiêu, 
                trồng điều láy hoa lợi để tu, một ngày kia Thượng Tọa quyết định 
                nhập thất, người mới nhờ bà mẹ mỗi ngày đem đến thất thức ăn và 
                yẻu cầu, nếu người có dùng thức ăn thì không phải lo chi cả, nếu 
                thấy thức ăn mà người không dùng thì phải vào thất xem còn sống 
                hay đã chêt, nếu chết thì nhờ hàng xóm lo chôn cất dùm.  Trong 7 
                ngày nhập thất này, Thượng Tọa đã nhập đươc đại định, sau đó 
                ngài ra thất vẫn ăn uống đi lại bình thường nhưng tâm trí vẫn 
                còn trong Đại định, một hôm người công phu, lúc thắp nhang, đi 
                lại va chạm mạnh vào cạnh bàn thờ Phật, cơn đau đó mới làm cho 
                người thức tỉnh, xuất khỏi cơn Đại định. 
 
                
                - 
                Sau đó người đi trình 
                chứng đắc với thiền sư Thanh Từ.  Thiền sư mới dùng ý nghĩa kinh 
                để hỏi Thượng Tọa, sau khi Thiền sư công nhận những chứng đắc 
                của Thượng tọa, Thiền sư có yêu cầu thượng Tọa hiệu chỉnh lại 
                kinh Pháp Hoa, theo sự chỉ dẫn của Thượng Tọa, chúng tôi  thấy 
                trong tủ có chừng 30 quyển tập 100 trang, đó là kinh thượng tọa 
                hiệu đính nhưng chưa in.  Thượng Toạ cho biết, ai muốn tu thiền, 
                hãy đến tu với Thượng Tọa trong 100 ngày, Thượng Tọa sẽ chỉ dẫn 
                và theo dõi diễn tiến, nếu tu đươc thì tiếp tục, nếu ai muốn sẽ 
                ở đó tu trong 10 năm để sau khi chứng đắc sẽ viết , dịch một số 
                kinh điển, ai không tu Thiền được thì trở vè tu Thập thiện.  
                Trong thời gian tu, ở trong cốc đã có, mọi sự ăn uống do Thượng 
                Tọa cung cấp. 
 
                
                - 
                Tôi có quen biết anh 
                Nguyễn văn Ân, trong ban nhạc không quân ở Tân sơn Nhất, anh ta 
                ở Biên Hòa, theo đạo Công Giáo.  Khoảng năm 1970, anh ta tu 
                thiền, một hôm tuyên bố với bạn bè, sẽ nhập thất trong 49 ngày 
                và lần này anh sẽ gặp Đức Chúa, nhưng khoảng gần đến 49 ngày, 
                bạn bè phát hiện anh đả chết trong cô-néc nơi đó anh đã nhập 
                thất.  Sau nầy hỏi lại nhạc sĩ Ngô Mạnh Thu, bạn đờng ngũ với 
                anh ta, anh Thu cho biết khi phát hiện anh ta chết, dưới giường 
                nằm của anh ta còn để một cái bếp điện, có lẽ anh ta bị lạnh quá 
                nên dùng bếp điện sưởi ấm, đúng hơn anh ta đã bị "tẩu hỏa nhập 
                ma".  Hơn thế nữa, 6 thất trước, có lẽ anh được thầy dạy nên 
                không sao, còn thất thứ 7 anh tự động thực hành nên bị Tẩu hỏa 
                nhập ma. 
 
                
                - 
                Khoảng năm 1980, 
                trong câu chuyện với anh Phạm Văn Tài, người tiền nhiệm của 
                chúng tôi, nguyên hiệu trưởng trường Trung học Kỹ Thuật Nguyễn 
                Trường Tộ Sài gòn, lúc đó anh cho tôi biết rằng anh có tu thiền, 
                theo môn phái kia, khi tiếp chuyện với ai anh có thể nhìn thấy 
                hào quang của người ấy lớn hay nhỏ, rõ hay mờ.  Sau anh đọc Kinh 
                Duy Ma Cật, anh biết đó là tà đạo nên anh đã bỏ ngồi thiền theo 
                môn phái đã học. Khoảng năm 1985, anh Tài đi làm Họa viên cho 
                Hợp tác xã cơ khí Quang Minh ở Gò Vấp, người phó chủ nhiệm gặp 
                tôi cho biết hình như anh Tài đã bị "mát", sau đó tôi đến thăm 
                anh, tôi thấy anh vẫn bình thường, nhưng chị vợ trước mặt anh 
                nói với tôi là anh ta ban đêm không ngủ được, đi lại nói lảm 
                nhảm suốt đêm (chỉ có hai vợ chồng ở trọn trường Việt Nam Học 
                Đường ở Tân Định). Năm 1990, vào dịp Vía Đức Phật A Di Đà, chúng 
                tôi lại gặp nhau ở Nhất Nguyên Bửu Tự, gần chợ Lái Thiêu, vợ anh 
                Tài cho biết, căn bệnh của anh ta đã giảm, có người đoán cuối 
                năm sẽ hết.  Những lần gặp nhau như thế, anh cũng vẫn nói chuyện 
                với tôi như thường, những gì vợ anh ta nói trước mặt anh ta, anh 
                ta đều không xác nhận hay phủ nhận điều gì cả. 
 
                
                - 
                X .- Kết luận: 
                Thiền rất hấp dẫn mọi người, nó rất hữu ích cho chúng ta, nhưng 
                tập thiền phải đúng phương pháp, có người chỉ dẫn, theo dõi 
                thường xuyên thì tốt hơn, tuyệt đối không nên luyện thứ chi hết, 
                đã tu tâm thì phải sửa tánh tức là phải giữ giới cho nghiêm mật, 
                dù không thành Phật trong kiếp này thì ít ra tâm ta cũng được 
                thanh thịnh, trí huệ được sáng tỏ và sức khỏe chúng ta tốt hơn.
                
 
                
                - 
                 
 
                - 
                Sách 
                Tham Khảo: 
 
                
                - 
                Đoàn văn An, Triết 
                học Zen, Đông Phương xuất bản, Saigon, 1963. 
 
                - 
                Tâm Quán, Tình Người, 
                Lá Bối, Saigon, 1964. 
 
                - 
                Trần Hơn, Từ Quang 
                Tạp Chí, Hội Phật Học Nam Việt, số 221-222, Saigon, 1971. 
                
 
                - 
                Thích Thanh Từ, Yếu 
                Chỉ Thiền Tông, Tu Viện Chơn Không, quay Rone.
 
                
                - 
                 
 
                
                   -  
 
                
               
              
              
                - --o0o--
 
               
              
              
             
             | 
   
           
               
       
       |