| 
           
      
  
           
                
            
              
              
                - Thư Viện Chùa Dược Sư
 
                - PHẬT HỌC CƠ BẢN
 
                  
               
              
              
                
                   
                  - Mười 
                  Phương Pháp Tu Hành
 
                  
                
                
                   
                  - Hòa 
                  Thượng Tuyên Hóa
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  --o0o--
 
                  
                
                - 
                 
 
                - 
                Đây là mười 
                phương-pháp dạy trong kinh Hoa-Nghiêm, nơi phần Trị-Địa-Trụ ở 
                phẩm Thập Trụ. Thật sự ra phương-pháp này không hạn cuộc nơi chư 
                Tăng Ni, mà dành cho mọi người tu Bồ-Tát Hạnh, tại gia và xuất 
                gia. Song nói rằng dành cho chư Tăng Ni là bởi chư Tăng Ni có 
                điều kiện, nhân duyên thù thắng để thực hiện phương-pháp này. 
                Đồng thời, sinh-hoạt của tăng chúng là sinh-hoạt hướng về sự 
                giác-ngộ, phù-hợp hoàn-toàn với mười phương-pháp của kinh nêu 
                ra. Phương-pháp ấy như sau:  
 
                
                - 
                1. Tụng tập đa văn
                
 
                
                - 
                Tức là học hỏi sâu 
                rộng Phật-Pháp. Học để biết rõ Phật-lý, chân lý. Học để tài bồi 
                đức-hạnh. Do đó đối tượng của việc học là chân lý, đưa tới sự 
                giải-thoát phiền-não, phá tan sự mê hoặc của bản ngã.  
                
 
                
                - 
                2. Hư nhàn tịch tịnh
                
 
                
                - 
                Đây là thái-độ tự tại 
                với đời. Nếu "đa văn" có nghĩa là chất chứa những tri-kiến, 
                chuyện thị-phi của thế-gian, thì mình chắc chắn chiêu-cảm lấy đủ 
                chuyện thị-phi, phiền-não ở đời; do đó mình sẽ kẹt trong vòng 
                luẩn quẩn của "việc đời". Nếu "đa văn" có nghĩa là huân-tập chân 
                lý trong kinh-điển, tiêu-hóa (internalize) đạo lý giải-thoát, 
                thì mình sẽ trở nên tự tại. Bởi thế, hư nhàn tịch-tịnh là 
                thái-độ vứt bỏ chuyện đời, chuyện hơn thua, tranh chấp, chuyện 
                lợi lộc cho mình. Mọi thứ tính toán cho mình đều không phải là 
                nhàn, là tịch.  
 
                
                - 
                3. Cận thiện tri thức
                
 
                
                - 
                Nghĩa là gần gũi 
                những bậc thầy có kiến-địa, giác-ngộ hay giải-thoát. Hoặc gần 
                gũi những bậc thầy có trí-huệ và đạo-đức để dắt dẫn mình tu 
                hành. Bậc thiện-tri-thức phải là bậc đi trước mình nhiều bước 
                trên đường tu, do đó có thể khiến mình phát bồ-đề tâm, dạy mình 
                trương dưỡng và thành-thục bồ-đề tâm; cứu giúp lúc mình gặp 
                bế-tắc; chỉ bảo lúc mình còn đầy khuyết điểm. Do gần gũi 
                thiện-tri-thức mình mới thành-tựu được đa văn, tức là nghe nhiều 
                những lời chỉ dạy của bậc thầy.  
 
                
                - 
                4. Pháp ngôn hòa 
                duyệt 
 
                
                - 
                Nghĩa là nói năng 
                ôn-hoà vui-vẻ. Lời nói chỉ có thể ôn-hoà, duyệt-lạc khi mà tâm 
                mình thật sự ôn-hoà. Do đó mình phải tập thái-độ không tranh: 
                không tranh-chấp với ai; bất kỳ việc gì, hãy sẵn sàng nhận lỗi, 
                chịu thua. Không đấu lý, không tự bào chửa. Khi tâm mình không 
                thấy ai là kẻ thù, không có thành-kiến về ai cả, cũng không cho 
                rằng mình hay mình giỏi, cách mình làm việc là độc nhất đúng đắn 
                thì mình rất dễ tự tại, ôn-hoà. Nếu chú ý kỹ mình sẽ thấy có 
                những lúc nhất định nào đó, mình hay thích lên giọng, cộc cằn. 
                Những lúc ấy, trí-huệ hay tâm mình không còn khống-chế làm chủ 
                lời nói nữa, bấy giờ thói quen hư xấu khống chế cái lưỡi mình. 
                Bởi vậy, phải tập lắng nghe lời mình nói, quán-sát và chú ý từng 
                lời, khiến lời không ngược lại với tinh-thần "Bất tranh". 
                
 
                
                - 
                5. Ngữ tất tri thời
                
 
                
                - 
                Tức là nói cho đúng 
                lúc. Cổ-nhân dạy rằng khi nói chuyện, hãy xem mặt đối phương. 
                Nếu người ta tỏ thái-độ khó chịu, không muốn nghe, buồn-bực thì 
                chớ nói nữa. Gặp lúc đối phương không chú ý, đang bận rộn, đang 
                nói, thì chớ ngắt lời, chớ nói. Biết đối phương không thích, 
                không muốn nghe một đề tài gì đó thì chớ đem nó ra nói, bàn 
                luận. Biết đối phương không có thì giờ đàm luận, thì chớ giông 
                dài. Việc vô-ích, vô nghiã, việc thế-tục thì người tu không nên 
                nói. Người xuất gia nếu thích đàm luận chuyện thế-tục, chuyện 
                tranh-chấp, lợi lộc riêng tư thì chỉ khiến người tại gia khinh 
                thường và chỉ-trích. Chỉ nên nói những việc khiến người nghe 
                phát khởi lòng tin, phát bồ-đề-tâm, hoặc giải-trừ được bế-tắc và 
                phiền-não trong đời sống. Nên tập quán-sát thời-cơ, nhân-duyên 
                rồi hãy phát biểu.  
 
                
                - 
                6. Tâm vô khiếp bố
                
 
                
                - 
                Tức là tâm không sợ 
                hãi , bố-úy. Không sợ hãi rằng pháp quá thâm sâu, mình không thể 
                thọ nhận. Không bố-úy rằng pháp quá khó tu, mình không thể 
                thực-hành. Khi tâm có hy-vọng, có mong cầu thì tâm ấy lúc nào 
                cũng có bố-úy sợ hãi. Bởi vậy tập luyện tâm thái không khiếp-bố 
                là tập luyện tính không cầu. Hễ được dạy pháp nào thì tu pháp 
                ấy, không mong cầu quả báo, không nghĩ tới mình sẽ được lợi-ích 
                gì.  
 
                
                - 
                7. Liễu đạt ư nghĩa
                
 
                
                - 
                Tức là dùng trí-huệ 
                tư-duy, giải đạt thâm nghiã. Đây không phải là hiểu bề ngoài, 
                hay học thuộc làu. Liễu đạt nghiã-lý tức là thấy được sự thể 
                hiện của nghiã-lý ấy trong cuộc sống. Ví như khi nghiên-cứu 
                đoạn: "Thế-gian vô-thường, quốc độ nguy thuý..." mình cần phải 
                thấy sự vô-thường ấy, không phải chỉ qua mặt chữ, lời văn, mà là 
                qua trực-giác và sự cảm nhận thực tại cảnh vô-thường ở 
                trần-gian.  
 
                
                - 
                8. Như pháp tu hành
                
 
                
                - 
                Trong quá trình liễu 
                đạt thâm nghiã, sẽ có những lúc mình không dùng suy nghĩ để hiểu 
                rõ, cũng không thể dùng cảnh-giới bên ngoài để minh chứng, những 
                lúc ấy, đòi hỏi mình phải dùng cảnh-giới thiền-định để giải đáp. 
                Bởi vậy người tu cần phải "Như pháp tu hành" để phát triển 
                năng-lực thấu hiểu chân-lý bén nhạy hơn khả-năng của đầu óc suy 
                tư này. Như pháp có nghiã là làm đúng theo sự chỉ dẫn, đúng với 
                chân-lý, đúng với giới-luật, hợp với đạo đức nhân nghiã. Khi tu 
                không như pháp thì tức là tu không đúng theo lời thiện-tri-thức 
                chỉ dạy, hoặc giả không phù hợp với tinh thần của kinh Phật, 
                hoặc là tự mình sáng tác ra phương-pháp cách thức hoàn-toàn 
                không theo một tiền-đề, hệ-thống hay quy củ, giới-luật nào cả. 
                Có kẻ ở trong chúng nhưng tự mình làm ra vẽ khác biệt, lập dị; 
                Khi không cùng tu, không hoà-đồng với đại-chúng, mình phải 
                quan-sát, xem mình có tu như pháp hay chăng. Hễ như pháp tu hành 
                thì không bao giờ có "cái mình", "cái tôi" đặc biệt "nổi" hơn kẻ 
                khác cả.  
 
                
                - 
                9. Viễn ly ngu mê
                
 
                
                - 
                Gốc ngu mê là ở lòng 
                dục-vọng, phiền-não, chấp-trước. Khi tu mình hãy nhớ mục tiêu là 
                dứt trừ những thứ ấy. Càng tu phải càng bớt phiền-não, bớt nóng 
                giận, bớt cống cao, bớt dục-vọng. Do đó sẽ thêm sáng-suốt, nên 
                Phật dạy phải "siêng tu giới, định, huệ để dứt trừ tham, sân. 
                si". Phải để ý năm thứ mà dục-vọng thèm khát nhất: 1/ Tiền tài, 
                vật chất, tivi, video. 2/ Sắc đẹp trai gái: cửa sắc dục mà không 
                thoát được thì tu pháp môn cao siêu tới đâu cũng vô-ích, không 
                thể giải-thoát. Kinh Lăng-Nghiêm dạy: "Dâm tâm không trừ, không 
                thể thoát trần". 3/ Danh vọng, địa vị, tên tuổi: Mong được kẻ 
                khác cung kính, trọng vọng cũng là hình-thức mê-muội vô cùng. 4/ 
                Ăn uống: Thích ăn ngon, ăn sang cũng là một dục vọng đáng sợ; 
                bởi vì thực dục chỉ là biến hoá từ sắc dục mà ra. 5/ Ngủ nghỉ: 
                Hay nói đúng hơn là lòng ưa thích hưởng thụ, sung-sướng, làm 
                biếng, ngồi không cho qua ngày. Khi lòng ưa thích này biến thành 
                nghiện thì càng nguy hại hơn nữa, ví dụ như ngày nay nhiều người 
                nghiền thuốc, rượu, bài bạc, chơi computer hay xem phim bộ, 
                v.v.. Năm thứ trên đều cần phải lánh xa.  
 
                
                - 
                Nói về duyên của sự 
                ngu mê thì có lẻ nên nói thêm về những thứ khiến mình nẩy sinh 
                tà-kiến: 1/ Tivi, video với những chương-trình đầy dẫy bạo lực, 
                dâm-dục, ô-nhiễm. 3/ Bạn xấu hay kẻ thiếu tri-kiến về chân-lý; 
                Nếu người bạn có quá nhiều thói hư tật xấu thì khó thể giúp đở, 
                gây ảnh hưởng tốt cho mình, mà mình nếu không đủ trí huệ và 
                phương tiện, cũng không giúp đở gì y được.  
 
                
                - 
                10. An trụ bất động
                
 
                
                - 
                Tâm chỉ bất động khi 
                nào tâm an-trụ hay thấy được sự thật, chân-lý bất biến. Bởi vậy 
                trong mọi chuyện, mọi việc, mình phải phát-triển con mắt biết 
                thẩm-thấu sự thật hay chân-lý, gọi là Trạch-Pháp-Nhãn. Phải biết 
                nhìn xuyên thủng hiện-tượng hay hình-tướng để biết đặng chân-lý. 
                Khi ấy tâm mình lúc nào cũng an-định, dù ở bất cứ hoàn-cảnh 
                trắc-trở, xáo-động nào đi chăng nữa. Khi tâm không còn bị 
                tình-dục, phiền-não, vọng tưởng quấy nhiểu, thì lúc ấy tâm mới 
                thật sự an-trụ bất động. Mười phương-pháp trên, đa số đều dùng 
                trí-huệ để dẫn dắt, từ đó khởi thêm lòng đại bi thì mới tới được 
                chỗ viên mãn. Song những phương-pháp trên, có thể nói, vô cùng 
                thực tiển cho những ai sống trong tùng lâm: cứ tu tập theo chúng 
                thì đường đạo ắt phải tiến-bộ.  
 
                
                - 
                (From: 
                Bo De Hai Online, January 19
 
                - 
                
                http://saturne.info.uqam.ca/~nguyent/)  
 
                
                - 
                
                Source: Buddhasasana Homepage
 
               
              
              
                - --o0o--
 
               
              
              
             
             | 
   
           
               
       
       |