| 
           
      
  
           
                
            
              
              
                - Thư Viện Chùa Dược Sư
 
                - PHẬT HỌC CƠ BẢN
 
                  
               
              
              
                
                   
                  - 
                  TÌM HIỂU VỀ GIỚI LUẬT (SÌLA)
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  TRONG PHẬT GIÁO
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  
                  Thích Quang Thạnh
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  
                  --o0o--
 
                  
                
                - 
                
                            
 
                - 
                Theo 
                quan điểm Phật Giáo, trong tất cả loại hữu tình chúng sanh, con 
                người luôn đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển tâm 
                linh (tu tập); vì thế, mục đích của Phật Giáo là nhắm vào đối 
                tượng con người để hướng dẫn họ có một cuộc sống hoàn toàn chơn 
                thiện mỹ, và trở thành người có nhân cách đạo đức hoàn thiện. 
                Đồng thời, Phật Giáo luôn dạy cho họ phương cách làm thế nào để 
                sửa đổi từ một con người có đức tánh xấu thành một con người có 
                đức tánh tốt, từ  đối tượng vô minh trở thành một đối tượng trí 
                thức, từ một con người có tư tưởng tiêu cực-bi quan-thụ động-và 
                xấu xa…trở thành con người có tư tưởng tích cực-lạc quan-năng 
                động-và tốt đẹp.
 
                - 
                
                          Đạo đức Phật Giáo là lối sống luôn mang lại an lạc và 
                hạnh phúc cho con người. Nó nêu bật vị trí quan trọng cao tột 
                của con người và chứng minh rằng con người có khả năng đạt được 
                chơn giá trị đạo đức tối thượng(giải thoát) nếu như vị ấy có đủ 
                ý chí vàsự nổ lực tự thân . Đặc biệt, Đạo đức Phật Giáo là lối 
                sống cao thượng dạy con người:
 
                - 
                “Tránh 
                làm các điều ác, tu tập các việc lành, giữ tâm ý trong sạch. Đó 
                là lời dạy của chư Phật.”(To eschew all evils, to perform good 
                actions, and to purify one’s mind. That is the teaching of the 
                Buddhas) (1)
 
                - 
                
                          Sống đạo đức có nghĩa là sống phù hợp với việc làm 
                thiện qua Thân-Khẩu-Ý(Tam nghiệp), sự tuân thủ giới luật(Sìla) 
                là một trong những phương pháp đạo đức Phật giáo huấn luyện 3 
                nghiệp của con người loại trừ các phiền não nhiễm ô ở đời, và 
                đạt được sự thanh tịnh về thân-khẩu-ý của chính mình:
 
                - 
                “ Người 
                luôn thận trọng lời nói, khéo phòng hộ tâm, không phạm điều ác 
                về thân, và giữ các phương pháp tu tập này thanh tịnh; sẽ chứng 
                được đạo của Thánh nhân dạy.” (He who guards his speech, 
                restrains his mind, commits no wrong by his body, and thus keeps 
                these roads of action clean, will achieve the way taught by the 
                wise) (2)
 
                - 
                
                          Bằng cách thực hành đúng đắn về giới được đức Phật 
                thiết lập, hàng giả diệt trừ tất cả những phiền não lậu hoặc: 
                Tham-Sân-Si, bẻ gãy những lạc thú trần tục, giải thoát tất cả 
                mọi khổ đau, và đạt đến sự thanh tịnh 3 nghiệp(thân-khẩu-ý) cùng 
                với tâm và tuệ giải thoát. Về phương diện thế gian, bất cứ xã 
                hội hay một tổ chức đoàn thể nào(như: trường học, cơ quan, xí 
                nghiệp, nhà máy…) muốn ổn định trật tự xã hội và hoạt động các 
                công việc của đoàn thể một cách có hiệu qủa cao, xã hội hay đoàn 
                thể đó phải tự ấn định cho riêng nó những quy tắc hay điều luật 
                đối với kỷ luật tập thể. Mặt khác, muốn thực hiện cuộc cách mạng 
                đạo đức xã hội và môi trường sống của con người, điều trước tiên 
                là phải cải tạo tư tưởng đạo đức cá nhân qua phương pháp tu tập 
                và sự thực hành giới. Điều này có nghĩa là nếu con người muốn 
                cải cách  lại nền đạo đức xã hội ngày càng trở nên tốt đẹp mà 
                không có sự chuyển hóa đạo đức cá nhân bằng sự thạnh lọc 
                thân-khẩu-ý trở nên thanh tịnh, cuộc 
                cải cách đó chỉ là sự cải tạo hình thức bề ngoài mà thôi.
 
                - 
                
                          Theo lời dạy cơ bản của đức Phật, sự tu tập giới là 
                một sự biểu lộ tình thương và lòng từ mẫn vô hạn đối với tất cả 
                chúng sanh. Lòng từ bi của Phật giáo được biểu lộ không chỉ 
                riêng đối với tất cả nhân loại mà còn được biểu hiện qua thái độ 
                Bất Hại(Ahimsà) đối với tất cả loài thú vật và thảo mộc. Với từ 
                ngữ “ Bất hại(Ahimsà)” không có nghĩa là “không va chạm”. Nó có 
                nghĩa là “ không tàn phá” và “ không hủy diệt” . Đó là một thái 
                độ truyền thống của đạo Phật được bắt nguồn từ lời dạy của đức 
                Phật cách đây hơn 25 thế kỷ. Thái độ này được biểu hiện qua các 
                nước Phật giáo bằng những phương pháp đặc biệt như là: trồng cây 
                để che bóng mát ở 2 bên đường, trồng các loại dược thảo khác 
                nhau để chữa bệnh, xây dựng các bệnh viện dành cho  người bệnh 
                cũng như  các trạm thú y dành cho thú vật,…dưới triều đại của 
                vua A Dục vào khoảng 300 trước công nguyên (planting trees for 
                shade on two road-sides, planting various kinds of medicinal 
                trees for curing, and building hospitals for the humans as well 
                as clinics for animals,ect…, under the reign of King 
                Asoka-300BC) (3)
 
                - 
                
                          Đối với Phật giáo, con người thuộc về tự nhiên, vũ trụ 
                được hình thành do các yếu tố nhân và duyên. Do đó, con người 
                được bao gồm trong thiên nhiên và ngược lại. Nếu con người cố ý 
                hủy hoại tự nhiên, điều đó có nghĩa là con người tự phá hủy 
                chính mình. Vì con người và tự nhiên luôn ảnh hưởng qua lại và 
                mối liên hệ lẫn nhau. Để chứng minh ý nghĩa này, nhà sinh thái 
                học người Anh, ông A.Macfadyen đã phát biểu rằng: “ Sinh thái 
                học tự nó liên quan đến mối quan hệ qua lại giữa sinh vật sống, 
                thảo mộc, hoặc loài động vật, và môi trường của chúng…” (Ecology 
                concerns itself with the interrelationship of living organism, 
                plants, or animals; and their environment…)(4)
 
                - 
                
                          Mặt khác, theo quan điểm Phật Giáo, sự đòi hỏi của con 
                người tiếp xúc với thiên nhiên giống như những chú ong tiếp xúc 
                với hoa ; dù  hút mật hoa, ong không bao giờ làm tổn hại hương 
                sắc của hoa : “Như ong hút mật hoa , ra đi không làm hại 
                hương và sắc, cũng vậy bậc Thánh đi vào làng” (As the bee 
                collects honey from flowers and departs without doing any harm 
                to their scent, so let a sage dwell in the village)
                (5) . Đó là 
                nguyên tắc sống đạo đức đối với các hàng đệ tử Phật được biểu lộ 
                bằng sự tuân thủ giới luật (Sìla).
 
                - 
                
                          Trước khi thực hành giới luật Phật Giáo, chúng ta hãy 
                cùng nhau tìm hiểu và nghiên cứu về giới luật (Sìla) trong Phật 
                Giáo. Đó là đề tài mà người viết muốn giới thiệu đến với quý đọc 
                giả.
 
                - 
                I . 
                NGUYÊN TỪ CỦA  SÌLA (Etymology of Sìla) :
 
                - 
                1. 
                Định nghĩa về “Sìla”:
 
                - 
                
                          Từ “Sìla” không có nghĩa là những điều luật, quy luật, 
                hay những quy tắc… buộc con người phải tuân thủ như : trong nhà 
                trường, cơ quan, các ban ngành đoàn thể, các tổ chức xã hội, hay 
                ở các tôn giáo khác. Một vài học giả đã giải thích Sìla với ý 
                nghĩa khác qua nhiều phương diện khác nhau như : Về phương diện 
                quy tắc và lòng từ, “Sìla” có nghiã là: sự hướng dẫn về tư cách 
                đạo đức (guide for behavior)(6); 
                hoặc phép tắc để hành xử (rule for action)(7); 
                hay có nghĩa khác là lời dạy, mệnh lệnh, sự ngăn cấm, quy 
                luật,…v..v..(precept, command, prohibition, dicipline, 
                ect.) (8). Về phương 
                diện đạo đức, “Sìla” có nghĩa là: giới hạnh (Virtue), 
                như tác giả B.Buddhaghosa đã định nghĩa: “Giới hạnh là gì? Đó 
                là những trạng thái bắt đầu bằng sự hiện diện củ Tư tâm sở trong 
                một con người xa lánh việc Sát Sanh(không giết hại chúng 
                sanh),…v…v…; hoặc trong con người thực hành viên mãn các học 
                giới ” (What is Virtue? It is the states beginning with volition 
                present in one who abstain from killing living-beings,etc., or 
                in one who fulfils the practice of the duties)(9).
 
                - 
                
                          Đặc biệt, về phương diện tu tập, “Sìla” là từ ngữ của 
                Pàli được hiểu theo nhiều nghĩa như : “việc thực hành đạo 
                đức, đức tính tốt, đạo đức Phật giáo, và điều lệ về đạo đức” 
                (moral practice, good character, Buddhist ethic, and code of 
                morality)(10). 
                Trong Từ Điển Sanskrit-Anh, nó được định nghĩa như sau: “Theo 
                từ ngữ Phật học Sanskrit, Sìla được giải thích là: phong cách cư 
                xử theo đạo đức, là một trong 6 hoặc 10 pháp Ba-la-mật; hoặc 
                được giải thích là: giới điều về đạo đức. Theo Phật giáo, có 5 
                giới hay còn gọi là 5 phép tắc cơ bản về phong cách đạo đức” 
                (According to Sanskrit word of Buddhist “Sìla”, it is 
                explained as ‘Moral Conduct’, is one of the six or ten 
                perfection or Pàramitàs ; or ‘Moral Precept’. With Buddhism, 
                there are five fundamental precepts or rules of moral conduct)(11).
 
                - 
                
                          Theo quan điểm người viết, mặc dù từ “Sìla” thuộc Pàli 
                và từ “Sìla” thuộc Sanskrit có phần khác nhau một chút về hình 
                thức dấu, chúng có cùng một nghĩa tương đồng và luôn nhấn mạnh 
                về phương cách thực hành và ứng dụng về Sìla trong cuộc sống con 
                người, hầu mang đến cho họ một lối sống hoàn toàn chơn thiện mỹ 
                với niềm vô biên an lạc và hạnh phúc tối thượng. Theo quan điểm 
                Phật giáo, Sìla bao gồm 2 nghĩa: giới điều về đạo đức (theo 
                phương diện đạo đức), và phong cách cư xử về đạo đức (theo 
                phương diện tu tập). Với nghĩa đầu tiên, nó được xuất phát 
                từ lời dạy của đức Phật khuyên con người: tránh ác làm lành, tu 
                tập thân-khẩu-ý thanh tịnh, diệt trừ  tất cả những phiền não 
                tham-sân-si đưa đến sự an lạc giải thoát cho chính mình. Với 
                nghĩa thứ hai, không những nó khuyên con người qúy mến nhau, 
                thương yêu nhau, thông cảm cho nhau, đoàn kết và giúp đở nhau; 
                mà còn hướng dẫn con người làm thế nào để tu tập Sìla(Giới) 
                thích nghi với mọi tình huống xã hội hầu mang lại lợi ích, an 
                vui và hạnh phúc thật sự cho mình và người. Đây chính là ý nghĩa 
                Sìla tích cực và năng động trong giới Phật giáo. Ý nghĩa Sìla 
                như thế  mới có thể đóng góp vai trò quan trọng của nó về phương 
                diện đạo đức trong cuộc sống con người và cộng đồng xã hội ngày 
                nay.
 
                - 
                2. 
                Những điều luật của Sìla:
 
                - 
                
                          Như chúng ta biết rằng, cuộc sống của các hàng đệ tử 
                phật trong 5 chúng, như là: Tỳ-kheo(Bhikkhus), 
                Tỳ-kheo-ni(Bhikkhunìs), Sa-di(Sràmaneras), Phật tử 
                Nam(Upàsakas), Phật tử Nữ (Upàsikas), được tuân thủ những giới 
                điều của Phật giáo. Nền tảng cội nguồn của những quy điều này 
                truyền đến thế hệ chúng ta từ một hình thức rất sớm với tên gọi 
                là Ba-la-đề-mộc-xoa(Pàtimokkha), và được tập hợp lại từ những 
                quy điều tự viện khác nhau được bao gồm trong Luật Tạng (Vinaya 
                Pitaka).
 
                - 
                
                Ba-la-đề-mộc-xoa có 2 phần : một dành cho Tỳ-kheo bao gồm 227 
                giới(12), và một dành 
                cho Tỳ-kheo-ni bao gồm 311 giới(13). 
                Mặt khác, Ba-la-đề-mộc-xoa được phân chia thành 8 loại tội 
                lớn nhỏ khác nhau dành cho Tỳ kheo, và 7 loại tội cho 
                Tỳ-kheo-ni(vì không có 2 pháp Bất Định –Aniyatà) được trình bày 
                tóm tắt như sau:
 
               
              
                
                  
                  
                    - 
                    Số 
                    tt
 
                   
                   | 
                  
                  
                    - 
                    Các 
                    loại giới
 
                   
                   | 
                  
                  
                    - 
                    
                    Tỳ-kheo
 
                   
                   | 
                  
                  
                    - 
                    
                    Tỳ-kheo-ni
 
                   
                   | 
                 
                
                  
                  
                    - 
                    1
 
                   
                   | 
                  
                  
                    - 
                    
                    Ba-la-di (Pàràjika: Defeat Rules)
 
                   
                   | 
                  
                  
                    - 
                    4
 
                   
                   | 
                  
                  
                    - 
                    8
 
                   
                   | 
                 
                
                  
                  
                    - 
                    2
 
                   
                   | 
                  
                  
                    - 
                    
                    Tăng Tàn(Sanghàdisesa:Formal MeetingRules)
 
                   
                   | 
                  
                  
                    - 
                    13
 
                   
                   | 
                  
                  
                    - 
                    17
 
                   
                   | 
                 
                
                  
                  
                    - 
                    3
 
                   
                   | 
                  
                  
                    - 
                    Bất 
                    Định (Aniyatà: Undetermined Rules)
 
                   
                   | 
                  
                  
                    - 
                    2
 
                   
                   | 
                  
                  
                    - 
                    /
 
                   
                   | 
                 
                
                  
                  
                    - 
                    4
 
                   
                   | 
                  
                  
                    - 
                    Xã 
                    đọa (Nissaggiyà Pàcittiya: Forfeiture Rules)
 
                   
                   | 
                  
                  
                    - 
                    30
 
                   
                   | 
                  
                  
                    - 
                    30
 
                   
                   | 
                 
                
                  
                  
                    - 
                    5
 
                   
                   | 
                  
                  
                    - 
                    Tội 
                    Đọa (Pàcittiya: Expiation Rules)
 
                   
                   | 
                  
                  
                    - 
                    92
 
                   
                   | 
                  
                  
                    - 
                    166
 
                   
                   | 
                 
                
                  
                  
                    - 
                    6
 
                   
                   | 
                  
                  
                    - 
                    
                    Hướng Bỉ Hối (Pàtidesaniyà: Confession Rules)
 
                   
                   | 
                  
                  
                    - 
                    4
 
                   
                   | 
                  
                  
                    - 
                    8
 
                   
                   | 
                 
                
                  
                  
                    - 
                    7
 
                   
                   | 
                  
                  
                    - 
                    
                    Chúng Học (Sekhiya: Training Rules)
 
                   
                   | 
                  
                  
                    - 
                    75
 
                   
                   | 
                  
                  
                    - 
                    75
 
                   
                   | 
                 
                
                  
                  
                    - 
                    8
 
                   
                   | 
                  
                  
                    - 
                    
                    Diệt Tránh (Adhikarana Samatha: Legal Question Rules)
 
                   
                   | 
                  
                  
                    - 
                    7
 
                   
                   | 
                  
                  
                    - 
                    7
 
                   
                   | 
                 
                
                  
                  
                    - 
                     
 
                   
                   | 
                  
                  
                    - 
                    
                    Tổng Cộng
 
                   
                   | 
                  
                  
                    - 
                    227
 
                   
                   | 
                  
                  
                    - 
                    311
 
                   
                   | 
                 
               
              
                - 
                
                          Đó là phần giới Pàtimokkha dành cho Tỳ-kheo và 
                Tỳ-kheo-ni. Tiếp theo là phần 10 giới dành cho vị 
                Sa-di(Sàmanera), đó là tránh xa :
 
                - 
                1. Việc 
                sát sanh (Destroying life)
 
                - 
                
                2. Việc  trộm cắp (Stealing)
 
                - 
                
                3.  Việc tà dâm (Impurity)
 
                - 
                4. Việc 
                nói dối (Lying)
 
                - 
                5. Việc 
                uống các chất say và rượu mạnh (Arrack and strong drink and 
                intoxicating liquors)
 
                - 
                6. Việc 
                ăn phi thời (Eating at forbidden times)
 
                - 
                7. Việc 
                ca múa hát xướng và xem nghe (Dancing, singing music and seeing 
                spectacles)
 
                - 
                8. Việc 
                đeo tràng hoa thơm và thoa phấn sáp (Garlands, 
                scent, unguents, ornaments, and finery)
 
                - 
                
                9.  Việc xử dụng giường cao và rộng lớn (The use of the high or 
                broad beds)
 
                - 
                
                10. Việc cầm giữ vàng bạc (Accepting gold and silver)(14).
 
                - 
                
                          Trong sự liên hệ về 10 giới này, tác giả H. Kern đã đề 
                cập về Sìla trong cách diễn đạt khác. Ông viết: “Tất cả10 
                giới này buột các thành viên trong Tăng đoàn tuân thủ, 5 giới 
                đầu dành cho Phật tử  là tránh xa: (1) việc sát sanh, (2) trộm 
                cắp, (3) tà dâm,(4) nói dối, (5) dùng các chất say; 5 giới sau 
                tránh xa: (6) ăn phi thời, (7) tham gia vào các trò chơi giải 
                trí ở đời, (8) dùng phấn sáp và hương thơm, (9) nằm giường trang 
                sức và rộng lớn, (10) giữ tiền bạc.”(15)
 
                - 
                
                          Về phương diện khác, một số sách  đã được  các tác giả 
                đề cập về 10 giới theo một trật tự khác, ví dụ như: trong quyển 
                “Đạo Đức Phật Giáo” của tác giả H. Saddhàtissa, ông ta đã 
                đổi lại vị trí của giới thứ 8 sang vị trí của giới?#7913; 9 và 
                ngược lại(16). Hay 
                trong sách giáo khoa “A Study of the Sphutàrthà 
                Srighanacarasangraha Tika” của Giáo sư  Sanghasen Singh, ông ấy 
                đã sắp xếp vị trí của giới thứ 6  sang vị trí của giới thứ 9 va 
                ngược lại.(17)
 
                - 
                
                          Chúng ta thấy rằng, tùy theo căn cơ cao thấp của con  
                người mà đức Phật  thiết lập ra các giới điều theo mỗi mức độ 
                khác nhau, nhằm giúp con người dễ dàng tu tập  tâm thanh tịnh 
                trên con đường tu tập phát triển tâm linh. Mặc khác, dù giới 
                luật (Sìla) có phân chia thành nhiều loại khác nhau, 5 giới đầu 
                và 10 giới đầu vẫn là những giới căn bản và chủ yếu cho tất cả 
                mọi người khi tu tập đạo đức tâm linh; những giới khác được hệ 
                thống hóa một cách chi tiết từ những 10 giới căn bản này. Đăc 
                biệt, 5 giới đầu là nền tảng cơ bản đạo đức chủ yếu trong sự tu 
                tập không những cho tất cả qúy vị Phật tử, mà còn cho tất cả mọi 
                người trong xã hội nếu họ muốn tìm một cuộc sống an lạc và hạnh 
                phúc thực sự, muốn thiết lập một xã hội có trật tự, và muốn xây 
                dựng một thế giới hòa bình. Đó là nền đạo đức luân lý cơ bản 
                được đức Phật thiết lập và hướng dẫn cho con người tu tập đạo 
                đức tâm linh với mục đích vì an lạc và hạnh phúc cho mọi người 
                trong cuộc sống hiện tại cũng như ở tương lai.
 
                - 
                II. 
                KHÁI NIỆM VÀ HIỆU LỰC CỦA SÌLA (Concept and Effect of Sìla) :
 
                - 
                1. Khái 
                niệm về Sìla:
 
                - 
                
                          Khi đề cập đến Sìla, đầu tiên chúng ta cần nhận thức 
                đúng đắn về khái niệm của Sìla. Như  được đề cập về Sìla trong 
                phần đầu giới thiệu, Sìla không có nghĩa là những điều lệ hay 
                những quy tắc như ở: trường lớp, cơ quan, xã hội, hay các tổ 
                chức đoàn thể…, nó cũng không có nghĩa là: chấm dứt, hay ngăn 
                cấm các hành vi bất thiện như cắt đứt cây cỏ thảo mộc… Sự tuân 
                thủ Sìla trong đạo Phật nhằm vào ý thức đạo đức cá nhân hầu giúp 
                con người giải thoát tất cả những phiền não ô nhiễm và khổ đau ở 
                đời, mang lại cho họ một cuộc sống hoàn toàn chơn thiện mỹ.
 
                - 
                
                          Đức Phật, Ngài nhận rõ hoàn toàn sự đau khổ con người 
                bắt nguồn từ cội gốc phiền não Tham-Sân-Si; vì thế, Ngài đã dùng 
                phương tiện khéo léo bằng cách thiết lập các giới điều về đạo 
                đức cho con người tu tập ý thức cá nhân, và mang lại cho họ sự 
                an vui, hạnh phúc và giải thoát tâm. Từ quan điểm này, chúng ta 
                nhận thấy Sìla trong Phật giáo được bắt nguồn từ sự đau khổ của 
                con người, nó chỉ là phương tiện cho con người nương theo để tu 
                tập thoát khỏi mọi khổ đau khi con người vẫn còn đau khổ. Vì 
                vậy, đứng trên phương diện giải thoát mà nói, sự tuân thủ giới 
                không là cái gì cả, nó chỉ là phương tiện tạm thời để gíup con 
                người thoát khỏi mọi khổ đau. Từ đây, ta có thể nói rằng: Giới 
                (Sìla) là cội gốc của sự Giác ngộ, là nền tảng của Niết bàn, là 
                chiếc bè đưa người qua bể khổ, là chiếc cầu nối liền với bờ Giải 
                thoát.
 
                - 
                
                          Mặt khác, sự thực hành Giới (Sìla) có nghĩa là dạy con 
                người làm thế nào để tu tập đạo đức cá nhân, làm thế nào để nhận 
                rõ và thông cảm nổi khổ của con người như của chính mình. Hiểu 
                được khái niệm này, hành giả không những tu tập đạo đức chính 
                mình mà còn không gây đau khổ cho mình và người khác trong cuộc 
                sống cộng đồng xã hội.
 
                - 
                
                          Từ sự giải thích ở trên về khái niệm giới, chúng ta 
                hiểu được rằng: Giới trong Phật giáo là nhằm vào sự giải thoát 
                phiền não và sự tu tập đạo đức cá nhân của con người; do đó, sự 
                tuân thủ giới luật (Sìla) trong Phật giáo mang lối thực hành mới 
                mẽ, năng động và tích cực đối với mọi người, mọi xã hội, và mọi 
                thời gian vì tính chất giải thoát của nó. Đó là khái niệm đúng 
                đắn về Giới(Sìla) trong Phật giáo được trình bày như trên.
 
                - 
                2.Hiệu 
                lực của Sìla:
 
                - 
                
                          Khi nghiên cứu về Phật pháp, chúng ta  nhận thấy lời 
                dạy của đức Phật luôn khuyên con người: tu tập đạo đức cánhân, 
                cư  xử với nhau bằng tấm lòng nhân ái và vị tha, sống với sự 
                bình đẳng-bác ái-độ lượng-và khoan dung, không làm đau khổ cho 
                mình và người, xa lánh những phiền não và lạc thú ở đời bằng sự 
                tu tập Giới hầu giải thoát khổ đau và đạt được chơn hạnh phúc 
                tối thượng. Hơn nữa, sự tuân thủ giới luật trợ giúp con người 
                phát huy lốisống mẫu mực, thành tựu ý thức đạo đức cá nhân, và 
                đưa con người đến sự an lạc hạnh phúc và giải thoát giác ngộ. 
                Đặc biệt, giới Phật giáo dạy con người nhận thức đúng đắng về 
                phong cách cư xử đạo đức trong mối quan hệ giữa cha mẹ và con 
                cái, giữa thầy và trò, giữa chồng và vợ, giữa chủ và tôi tớ, và 
                giữa tình bạn với nhau như :
 
                - 
                a. 
                Giữa cha mẹ và con cái
                (18)
 
                - 
                
                          Đức Phật đã xác định và nhấn mạnh về mối liên hệ của 
                gia đình bằng cách khuyến khích tất cả mọi người nên duy trì mối 
                quan hệ ràng buột gia đình với nhau, sống với nhau bằng sự tôn 
                trọng nhân cách và được thể hiện qua trách nhiệm và bổn phận của 
                mình trong gia đình. Ngài đã đưa ra 5 điều giới mà người con cần 
                phải tuân thủ:
 
                - 
                Cấp 
                dưỡng cho cha mẹ (Supporting his parets now).
 
                - 
                Thực 
                hiện trách nhiệm và bổn phận của mình đối với cha mẹ (Performing 
                duties incumbent on them).
 
                - 
                Duy trì 
                nòi giống và truyền thống của gia đình (Keeping up the lineage 
                and tradition of the family).
 
                - 
                Làm 
                tròn công việc ma chay đối với người đã khuất (Making gifts in 
                due course to the dead).
 
                - 
                Ngược 
                lại, cha mẹ phải đối xử với con cái theo 5 điều :
 
                - 
                Ngăn 
                cản con cái làm những hành động bất chính (Restraining him from 
                evil action).
 
                - 
                Khuyến 
                khích con cái làm những việc có đạo đức (Exhorting him to 
                virtue).
 
                - 
                Hướng 
                dẫn cho con cái có nghề nghiệp ổn định (Training him to a 
                profession).
 
                - 
                Sắp xếp 
                việc cưới hỏi thích hợp cho con cái (Arranging a suitable 
                marriage for him).
 
                - 
                Trao 
                cho con di sản thừa kế đúng lúc (In due time, hanging overhis 
                inheritance)
 
                - 
                b. 
                Giữa Thầy và trò(19)
 
                - 
                Mối 
                quan hệ giữa thầy và trò được đánh giá rất cao trong Phật giáo. 
                Đức Phật dạy 5 cách được ứng dụng cho học trò đối với Thầy:
 
                - 
                Đứng 
                dậy chào Thầy (Rising from his seat in salutation).
 
                - 
                Hầu 
                Thầy (Waiting upon the teacher).
 
                - 
                Ham học 
                (Desiring to learn).
 
                - 
                Chăm 
                sóc thầy chu đáo (Rendering him personal service).
 
                - 
                Chú tâm 
                mỗi khi nghe lời dạy của Thầy (Paying attention when receiving 
                the teacher’s teachings).
 
                - 
                Ngược 
                lại 5 cách này, Thầy giáo phải có 5 bổn phận đốivới học trò:
 
                - 
                Dạy học 
                trò những điều mà Thầy đã được huấn luyện (Training the pupil in 
                that wherein the teacher has been trained).
 
                - 
                Làm cho 
                học trò nắm chắc những điều đã được học (Making the pupil hold 
                fast that, which is well held).
 
                - 
                Dạy bảo 
                học trò hết lòng bằng kiến thức khéo léo của mình (Thoroughly 
                instructing the pupil in the lore of every art).
 
                - 
                Nói tốt 
                cho học trò giữa những người bạn và đồng nghiệp (Speaking well 
                of the pupil among his friends and companies).
 
                - 
                Bảo vệ 
                sự an toàn cho học trò trong mỗi phương diện (Providing for his 
                safety in every quarter).
 
                - 
                c. 
                Bổn phận chồng đối với vơ/font>(20)
 
                - 
                Để giữ 
                được cuộc sống hạnh phúc gia đình giữa chồng và vợ được lâu dài, 
                Đức Phật dạy 5 bổn phận của người chồng đối với vợ:
 
                - 
                Tôn 
                trọng nhau (Respect).
 
                - 
                Lịch sự 
                nhã nhặn với nhau (Courtesy).
 
                - 
                Trung 
                thành (Faithfulness).
 
                - 
                Tôn 
                trọng quyền làm vợ (Hang over authority to her).
 
                - 
                Cung 
                cấp cho vợ những vật trang sức cần thiết (Providing her with 
                necessary adornment).
 
                - 
                Ngược 
                lại, vợ cũng phải biểu hiện 5 bổn phận của mình đối với chồng:
 
                - 
                Thể 
                hiện tốt trách nhiệm của mình đối với chồng (Well performing her 
                duties).
 
                - 
                Biểu 
                hiện lòng mến khách đối với dòng dõi giữa 2 gia đình (Showing 
                her hospitality to the skin of both families).
 
                - 
                Trung 
                thành (Faithfulness).
 
                - 
                Giữ gìn 
                kỷ lưỡng tài sản của chồng (Well watching over the husband’s 
                wealth)
 
                - 
                Khéo 
                léo và linh động thực hiện các việc kinh doanh.(Skill and 
                industry in discharging all her bussiness).
 
                - 
                d. 
                Bạn bè với nhau 
                (21)
 
                - 
                Trong 
                phần  này, đức Phật đãđưa ra 5 phương pháp để cư xử trong tình 
                bạn. Vị ấy phải tự mình làm tròn trách nhiệm của mình đối với 
                bạn theo 5 điều:
 
                - 
                Rộng 
                lượng với bạn (Generosity).
 
                - 
                Nhã 
                nhặn với bạn của mình (Courtesy).
 
                - 
                Có lòng 
                nhân từ (Benevolence).
 
                - 
                Cư xử 
                với bạn giống như cư xử với chính mình (Treating them as he 
                treats himself).
 
                - 
                Nói lời 
                tốt đẹp (Being as good as his word).
 
                - 
                Ngược 
                lại, người bạn của vị ấy cũng đáp lại cho vị ấy theo 5 cách:
 
                - 
                Bảo vệ 
                bạn khi bạn không kịp đề phòng (Protecting him when he is off 
                his guard).
 
                - 
                Giữ gìn 
                của cải cho bạn (Guarding his property).
 
                - 
                Là nơi 
                nương tựa cho bạn trong lúc nguy hiểm (Becoming a refuge in 
                danger).
 
                - 
                Không 
                từ bỏ bạn trong lúc khó khăn (Not forsaking him in his family).
                
 
                - 
                Quan 
                tâm đến gia đình của bạn (Showing consideration for his family).
 
                - 
                e. 
                Bổn phận giữa chủ đối với đầy tớ
                (22)
 
                - 
                Đức 
                Phật dạy người chủ phải cư xử với người đầy tớ của mình theo 5 
                cách:
 
                - 
                Phân 
                công việc phải tùy theo sức khẻo và khả năng của đầy tớ 
                (Assigning their work according to their strength and 
                capabilities).
 
                - 
                Cung 
                cấp đầy đủ thức ăn và lương bổng cho họ(Supplying them with food 
                and wages).
 
                - 
                Chăm 
                sóc họ khi bệnh hoạn (Looking after them in sickness).
 
                - 
                Thỉnh 
                thoảng chia sẽ cho họ những món ăn ngon (Sharing withthem 
                occasional delicacies).
 
                - 
                Cho 
                phép họ nghỉ ngơi đúng lúc (Granting leave at time).
 
                - 
                Ngược 
                lại, người tớ phải thể hiện 5 bổn phận trách nhiệm của mìng đối 
                với chủ như:
 
                - 
                Thức 
                dậy trước người chủ của mình (Rising before the owner).
 
                - 
                ?  Đi 
                ngủ sau chủ của mình (Going to rest after the owner).
 
                - 
                Bằng 
                lòng với công việc được giao (Contenting themselves with what is 
                given to them).
 
                - 
                Làm 
                việc hết lòng (Well working).
 
                - 
                Làm tốt 
                thanh danh của chủ (Establishing a good reputation for the 
                owner).
 
                - 
                
                          Đặc biệt đối với Tăng-ni, bằng sự tuân thủ giới 
                tiểu-trung và giới đại , vị ấy thận trọng những hành vi thiện 
                trong lời nói và việc làm của mình. Sống trong sạch, phẩm hạnh 
                tốt, phòng hộ các căn, vị ấy chánh niệm tĩnh giác. Vị ấy đạt 
                được sự thanh tịnh về thân-khẩu-ý (By the observance of Sìla 
                with the Culla Sìla(Minor Precepts, Majjhima Sìla(Medium 
                Precepts), and Maha Sìla(Major Precepts), one encompasses 
                himself with good deeds in act and word. Pure are his means of 
                livelihood, good is his conduct, guarded the door of his senses, 
                he is mindful and seft-possessed. He attains the purification of 
                body-speech-and mind) 
                (23). Với sự hòan hảo giới hạnh, vị ấy tẩy trừ tâm tham 
                ái, ác ý, yếu ớt và biếng nhác, trạo cử và hối tiếc, và tâm nghi 
                ngờ (with fulfilment of moral conduct, he purifies his mind 
                of lusts, of malevolence, of weakness and of sloth, of flurry 
                and reget, and of doubt)(24). 
                Khi 5 phiền não đã được tẩy trừ, tâm vị ấy an tịnh chứng và trú 
                vào Tứ thiền. Sau đó, tâm vị ấy hướng đến Thắng trí, và chứng 
                đắc Tam minh và Lục thông. Đây là kết quả dị thục của đời sống 
                Sa môn trong cuộc đời.
 
                - 
                
                          Từ vấn đề được đề cập ở trên, chúng ta có thể nói 
                rằng: sự tuân thủ giới là nhằm vào sự tẩy trừ những hành vi bất 
                thiện, xây dựng một con người đạo đức và gương mẫu trong xã hội, 
                hình thành một xã hội hòa bình và hạnh phúc cho con người. Đây 
                là nguyên tắc đạo đức cơ bản được đức Phật thiết lập vì an lạc 
                hạnh phúc và giải thoát cho mình và người trong cuộc sống hiện 
                tại cũng như trong tương lai.
 
                - 
                3.Sự 
                tu tập Giới (Sìla):
 
                - 
                
                          Trước khi đề cập về sự tu tập giới, chúng ta không 
                quên đề cập đến công năng và nhiệm vụ của nó. Nhiệm vụ của giới 
                gồm có 2 nghĩa: hành động để chấm dứt tà hạnh và thành tựu đức 
                không lỗi nơi người có giới. Bởi thế khi gọi là Giới, cần hiểu 
                rằng nó có nhiệm vụ chặn đứng các tàhạnh là nhiệm vụ của nó theo 
                nghĩa hành động, và bản chất không lỗi kể như nhiệm vụ của nó 
                trong nghĩa thành tựu. Vì ở đây, chính hành động hoặc sự thành 
                tựu được gọi là nhiệm vụ. Còn công năng và lợi ích của việc trì 
                giới là “phòng phi chỉ ác”(tức là ngăn chặn những việc 
                làm sai trái và đình chỉ các việc ác. Chính nhờ hành trì đúng 
                đắn các giới điều đức Phật chế ra, hành giả đạt được sự thanh 
                tịnh về thân-khẩu-ý và đạt được sự vô uý).
 
                - 
                
                          Theo quan điểm của đạo Phật, Giới được đặt trên nền 
                tảng tình yêu thương rộng lớn và lòng thương xót đối với tất cả 
                chúng sanh. Vì thế, muốn thành tựu giới trọn vẹn, chúng ta cần 
                phải sống với sự chế ngự của giới bổn Patimokkha, đầy đủ oai 
                nghi chánh hạnh, thấy nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt. Nhờ 
                vậy, 3 nghiệp được thanh tịnh: 
 
                - 
                “Thân 
                khẩu ý thanh tịnh, thị danh Phật xuất thế
                Thân khẩu ý bất tịnh, thị danh Phật diệt độ”
 
                - 
                
                          Thân khẩu ý thanh tịnh tức là: thân tránh xa những 
                điều xấu ác như sát sanh-trộm cắp-tà dâm….; miệng không nói dối, 
                nói 2 lưỡi, nói lời độc ác…; ý không móng khởi lên tham-sân-si 
                và tà kiến. Trong khi thực hành giới , chúng ta cần nhất phải 
                giữ gìn thân và miệng bề ngoài cho đúng với giới luật thì tâm 
                trí bên trong mới được trong sạch . Trong và ngoài đều trong 
                sạch, tức nhiên dung nhiếp nhau từ chỗ mê đến chỗ ngộ . Muốn đạt 
                đến chỗ ngộ , hành giả cần phải hướng về những giới điều như : 
                nhiếp luật giới, nhiếp thiện pháp giới, nhiêu ích hữu tình giới( 
                Tam Tụ Tịnh Giới) … Nếu thực hành đúng Giới học như trên , tức 
                nhiên thân  tâm giải thoát được mọi sự ràng buộc và không sanh 
                khởi những hành vi bất thiện. Nhờ có sức mạnh của việc trì giới, 
                chúng ta có thể vượt lên sư chi phối của ngoại cảnh,  của nội 
                tâm; hầu tìm đến sự an tịnh cho chính mình ngay trong cuộc đời.
 
                - 
                
                          Trong thời đại hiê䮠nay, 
                người đệ tử Phật ( nói chung) và Tăng - Ni  trẻ (nói riêng) cần 
                phải tu tập giới như thế nào để hoà hợp với cuộc đời khi chúng 
                ta thực hiện nhiệm vụ “Truyền trì đạo mạch” của đức Thế 
                Tôn ?
 
                - 
                
                          Trong kinh Kim cang, có câu : 
 
                - 
                “Nhất 
                thiết hữu vi pháp 
 
                - 
                Như 
                mộng , huyễn, bào ảnh    
                
 
                - 
                Như lộ 
                diệc như điển
 
                - 
                Ưng tác 
                như thị quán”.
 
                - 
                
                          Thật vậy, vạn vật trên cuộc đời này đều do các duyên 
                hoà hợp mà sinh khởi và hoại diệt khi duyên tan rã. Các pháp đều 
                không trường tồn, luôn sanh diệt diệt sanh, sanh sanh diệt diệt, 
                sanh để rồi diệt, diệt để rồi sanh … cứ như thế luôn đổi thay 
                biến hoá từ tình trạng này sang tình trạng khác. Chúng như chiêm 
                bao, như huyễn hoá, như bọ bào, như bóng nắng, sương mai, như 
                điện chớp … nên gọi là vô thường, giả tạm, không thật có … Người 
                học cần phải biết phân biệt như vậy mà quán sát rằng : con người 
                do Thất đại (Địa, Thủy, Hoả, Phong, Không, Kiến, Thức) giả hợp 
                mà thành. Hay nói khác, do duyên của 5 Uẩn (Sắc, Thọ, Tưởng, 
                Hành, Thức) giả hợp mà thành một con người, mọi sự vật trên cuộc 
                đời đều do Tứ Đại (Đất, Nước, Gió, Lửa) giả tác thành mà hiện 
                hữu. Tất cả luôn bị sức búa của thời gian tàn phá, tiêu diệt và 
                hủy hoại theo quy luật tất yếu của cuộc sống . Dòng đời luôn vận 
                chuyển theo thời gian mà thay đổi, sanh diệt và không bao giờ 
                đứng yên một chổ. Mọi thứ trên cuộc đời đều phải vận động để 
                tiến hoá, đấ?anh để sinh tồn. Vì vậy Đức Phật đã từng nói : 
                “Tất cả những lời dạy của Ngài như ngón tay chỉ mặt trăng” . 
                Chúng ta chớ lầm tưởng ngón tay là cứu cánh, nó chỉ là “phương 
                tiện” để chỉ cho mọi người hướng đến mặt trăng mà thôi! Mọi giáo 
                điều của Ngài chỉ là phương tiện để giúp cho con người nương 
                theo đó vượt thoát mọi khổ đau, hầu hướng đến sự an lạc giải 
                thoát cho chính mình. Cũng vậy, giáo điều của Phật chỉ tạm chế 
                ra khi có người trong Tăng đoàn phạm lỗi , nếu không ai có lỗi 
                thì Ngài không chế. Do đó, giới điều của Phật chỉ là phương tiện 
                làm cho con người thuần thục về tư tưởng, về lối sống và ứng xử 
                với nhau một cách tốt đẹp. Nếu con người vốn thuần thục trong 
                giới, họ trở thành những người mẫu mực, chân chánh, thân tâm 
                luôn thanh tịnh thì cần gì phải giữ gìn giới điều. Khi cây chưa 
                bén rễ, chúng ta cần phải có hàng rào (giới) để ngăn cản loài 
                chó, gà không bươi phá. Khi nó bén rễ, phát triển cao lớn, cfnh 
                lá sum xuê thì dù cho không có hàng rào chăng nữa, gà chó cũng 
                chẳng làm tổn ại gì đến cây.
 
                - 
                
                          Trong tạng kinh Phật giáo đức Phật có đề cập đến 5 sự 
                lợi ích cho người trì giới và sống đúng giới luật:
 
                - 
                a. Tiền 
                của dồi dào qua công việc làm đứng đắn (Acquirement of great 
                wealth  through his industry and of strong rectitude)
 
                - 
                
                b. Tiếng lành đồn xa (Good report of him are spread aboard)
 
                - 
                c. Khi 
                vào trong bất kỳ hội chúng nào , hoặc xã hội, hoặc giới thượng 
                lưu, hoặc giới Bà la môn, hoặc gia chủ, hoặc những thành viên 
                trong cộng đồng tôn giáo (Sa môn) … tâm vị ấy không sợ hãi và 
                bối rối. (His entering into whatever society, Nobles, Brahmins, 
                Householders, or members of a religious order,etc., with his 
                confident and self-possessed mind.)
 
                - 
                d. Chết 
                không sợ hãi (Death without anxiety)
 
                - 
                e. Sau 
                khi chết, vị ấy được  thác sanh vào cõi thiên giới (Rebirth into 
                some happy state in heaven after death)(25)
 
                - 
                
                          Và ngược lại, đức Phật cũng đề cập 5 sự hãm hại và mối 
                nguy hiểm đến với những ai không tuân thủ giới :
 
                - 
                a. Tài 
                sản bị hao hụt ( Falling from great property through sloth and 
                devoid of rectitude)
 
                - 
                
                b. Tiếng ác đồn xa (His evil repute gets noised abroad)
 
                - 
                c.Khi 
                vào trong bất kỳ hội chúng nào, hoặc xã hội, hoặc giới thượng 
                lưu, hoặc giới Bà la môn, hoặc gia chủ, hoặc những thành viên 
                trong cộng đồng tôn giáo (Sa môn) … tâm vị ấy luôn sợ hãi và bối 
                rối. (His entering into whatever society, Nobles, Brahmins, 
                Householders, or men of a religious order,etc., with shy and 
                confused mind)
 
                - 
                d. Chết 
                với tâm đầy sợ hãi (Death with full anxiety)
 
                - 
                e. Sau 
                khi chết, vị ấy bị thác sanh vào cõi ác thú (Rebirth into some 
                unhappy state of suffering or woe after death)(26)
 
                - 
                
                          Nói tóm lại, người Tăng Ni trẻ chúng ta sống trong một 
                thời đại văn minh tiến bộ , cần phải hiểu biết thâm sâu về sự tu 
                tập giới. Chúng ta không nên đóng kín những giới điều của Phật 
                trong một khuôn mẫu nhất định mà phải dùng trí quán sát “Tuỳ 
                Duyên Bất Biến” trong khi tu tập . Dẫu biết rằng giới lànền 
                tảng của trí tuệ, là thềm thang của sự giải thoát, là cửa ngõ 
                của Niết Bàn; song chúng ta phải biết thực hành giới trong từng 
                hoàn cảnh, tình huống khác nhau khi tu tập; miễn là tâm hồn định 
                tĩnh, không tham đắm với ngoại cảnh xung quanh. Giống như cây to 
                lớn phải nảy cành thay lá nhưng không bao giờ rời gốc của nó. 
                Chúng ta cũng vậy, luôn uyển chuyển về sự tu tập giới trong từng 
                hoàn cảnh thích hợp với mình không nên quá khắc khe hoặc phóng 
                khoáng trong việc tu tập giới. Chủ yếu là làm sao thân tâm chúng 
                ta được an tịnh, tướng mạo đoan trang trong một thái độ thoải 
                mái, lịch lãm. Có như vậy, ta mới hoà nhập vào lối sống cuộc đời 
                một cách dễ dàng khi hoá độ. Tinh thần này đã được các vị thiền 
                sư, tổ sư vận dụng nó làm “kim chỉ nam” trong qúa trình hành 
                đạo, cũng như ngài Tùng Thẩm Pháp sư vì muốn khai ngộ cho đệ tử 
                mà tự tay mình bóp chết con mèo trước mặt các hàng đệ tử với một 
                tâm trạng lắng đọng vô tư; như vậy đối với ngài có sát sanh 
                chăng? Ngài Thiền Lão Thiền sư làm cố vấn, ngài Thảo Đường làm 
                quốc sư, ngài Đỗ Thuận Thiền sư được vua Lê Đại Hành mời vào 
                cung bàn luận việc chính trị ngoại giao của nước nhà … Như vậy, 
                các ngài đã tham đắm danh lợi, hoặc mất tính chất một tu sĩ, hay 
                phá giới chăng?
 
                - 
                
                          Là đời hậu tấn, chúng ta phải noi theo tinh thần của 
                các vị tiền bối, luôn “phóng khoáng” trong một “trật tự nề nếp” 
                khi tu học giới mà không chấp chặt ở một giới điều nào cả. Điều 
                quan trọng nhất là luôn duy trì và giữ vững thân tâm mình được 
                thanh tịnh, an lạc; chánh niệm tĩnh giác trong khi 
                đi-đứng-nằm-ngồi-nói năng-cư xử … một cách lịch thiệp, ôn hoà và 
                nhã nhặn. Như vậy, ta đã biết tực hành giới một cách trọn vẹn. 
                Chúng ta đừng qua niệm rằng: giữ giới tức là mắt thấy sắc không 
                nhìn, tai không dám nghe tiếng, mũi không dám ngửi mùi hương, 
                lưỡi không chịu nếm hương vị, thân không dám va chạm, ý không 
                dám suy nghĩ; đó là những người giữ giới theo sự cố chấp trong 
                từng giới điều. Là con người, lẽ dĩ nhiên chúng ta luôn cần 
                những món ăn vật chất để nuôi cơ thể và những cuộc vui giải trí 
                hầu làm thoải mãn tinh thần của con người khi mệt mỏi. Song, là 
                một tu sĩ Phật giáo, chúng ta phải ăn uống như thế nào để khỏi 
                bị bội thực; tiếp xúc với ngoại cảnh như thế nào hầu không bị ô 
                nhiễm, tham đắm và đừng để mọi người chê bai. Đó mới là người 
                biết sống, biết tu trì giới luật trọn vẹn của Phật. Đạo Phật 
                chúng ta luôn luôn hoà mình vào cuộc đời, mãi mãi là bông sen 
                mang hương thơm đến cho đời và mọi người mà không bị tổn hại đến 
                hương sen. Vì vậy, hoa sen là một hình ảnh tượng trưng cho tinh 
                thần nhập thế của Đạo Phật, tượng trưng một lối sống “tuỳ duyên 
                bất biến” của người tu sĩ trong thời hiện đại với sứ mạng :
                
 
                - 
                “Truyền 
                trì đạo mạch, tục diệm truyền đăng, xiển dương Chánh pháp, lợi 
                lạc quần sanh, báo Phật ân đức” 
                trên 
                tinh thần “Đạo pháp – Dân tộc –CNXH”. “Hương Chiên đàn 
                Già la – Hương Sen và Vũ quý, Ngần ấy loại hương vị – 
                Không sánh bằng Giới hương” (Sandalwood or Tagara, a 
                lotus flower or a vasiki, Among these kinds of perfume, 
                the perfume of virtue is unsurpassed )(27)
 
                - 
                Hay:
                
 
                - 
                “Ít giá 
                trị hương này – Hương già-la, chiên đàn,
                Chỉ hương ngườiđức hạnh– Tối thượng toả thiên giới” 
                (Scanty is the scent that comes from Tagara and sandalwood but 
                the perfume of those who possess virtue rises up to the gods as 
                the highest.)(28)
 
                - 
                III. 
                KẾT LUẬN: (Conclusion)
 
                - 
                Đề tài 
                : “Tìm hiểu về Giới Luật (SìLa) trong Phật giáo.” Là một phần 
                nhỏ trong phạm vi Tạng luật Phật giáo, vì thế theo phạm vi của 
                đề tài, người viết không thể diễn đạt toàn bộ Tạng luật một cách 
                chi tiết, mà chỉ đề cập một phần nhỏ trong phần luật mà thôi. Đó 
                là sự nghiên cứu về: Nguyên từ Sìla (định nghĩa và giới thiệu 
                các giới điều của Sìla) , cũng như đề cập đến khái niệmvà hiệu 
                lực của Sìla trong sự tu tập .
 
                - 
                Như 
                trên đã đề cập, Sìla của Phật giáo luôn dựa trên đạo đức 
                (morality) và lòng từ (compassion) . Sự tuân thủ giới luật 
                (Sìla) là nhằm vào sự tu tập ý thức đạo đức cá nhân hầu làm cho 
                con người thoát khỏi mọi khổ đau ở đời . Vì thế, đức Phật đã sử 
                dụng nhiều phương tiện thiện xảo bằng cách tạm thiết lập các 
                giới điều cho các đệ tử tuân hành hầu mang lại sự an lạc và hạnh 
                phúc cho con người.
 
                - 
                Mặt 
                khác, Sìla của Phật giáo được bắt nguồn từ nỗi đau khổ của con 
                người. Có nghĩa là sự tuân thủ giới luật (Sìla) không là gì cả ; 
                nó chỉ là những phương tiện tạm thời hầu giải thoát con người từ 
                những phiền não vô minh và tham ái, đạt được sự thanh tịnh thân 
                và tâm (giác ngộ giải thoát) .
 
                - 
                Sống 
                trong thời đại văn minh tiến bộ, chúng ta cần phải hiểu và thực 
                hành giới(sìla) một cách chính xác trong khi tu tập. Có nghĩa là 
                chúng ta không nên cố chấp vào những giới điều của Phật như là 
                một khuôn khổ ấn định không bao giờ thay đổi, mà hãy quan sát nó 
                bằng trí tuệ sâu xa của chính mình trong khi tu tập giới. Mặc dù 
                Sìla là nền tảng của trí tuệ, là thềm thang của sự giải thoát, 
                là cách cửa của sự Niết bàn, chúng ta phải nhận thức như thế nào 
                khi tu tập giới trong nhiều điều kiện và hoàn cảnh khác nhau với 
                tâm an tịnh của chính mình. Hay nói cách khác vị ấy nên uyển 
                chuyển để tu tập giới trong những tình huống thích hợp với chính 
                mình và không nên giữ một thái độ quá khắc khe hoặc quá lỏng lẻo 
                trong khi tu tập giới. Dĩ nhiên, là một con người, chúng ta cần 
                phải thưởng thức những món ăn ở đời để giữ gìn thân thể và vui 
                chơi nhiều trò chơi giải trí để thoải mái tinh thần; Nhưng điều 
                quan trọng là chúng ta ăn uống như thế nào để không bị bội thực, 
                và làm thế nào để thưởng thức những thú vui ở đời mà vẫn luôn 
                giữ tâm an tịnh và giải thoát. Đó làngười biết tuân thủ giới 
                luật một cách đúng đắn và hợp lý.
 
                - 
                “Hương 
                các loài hoa thơm – Không bay ngược chiều gió,
                Nhưng hương người đức hạnh – Ngược gió khắp tung bay, 
                Chỉ có bậc Chân nhân – Toả khắp mọi phương trời”
 
                - 
                (The 
                scent of flowers does not travel against the wind, nor that of 
                Sandalwood, or of Tangara and Malika flowers. But the fragance 
                of good people travels even against the wind, a good man 
                pervades every quarter)(29)
 
                - 
                Đặc 
                biệt chúng ta nhận thấy rằng : Bất kỳ xã hội nào muốn phát triển 
                và tồn tại lâu dài trong cuộc đời cần phải có những con người xã 
                hội đứng đắn. Con người xã hội đứng đắn là con người hoàn hảo về 
                ý thức đạo đức cá nhân với sự vắng mặt của tham sân si ở nội tâm 
                . Sự tuân thủ giới luật không phải là một cái gông cùm áp đặt 
                con người làm điều này không làm điều kia, nó chỉ giúp cho con 
                người quay về với ý thức đạo đức cá nhân của chính họ và diệt 
                tận mọi phiền não khổ đau. Con người sống trong sự thực hành 
                giới có nghĩa là sống trong ý thức đạo đức của chính mình vì 
                thế, mục đích của giới trong Phật giáo là giáo dục con người trở 
                thành người xã hội gương mẫu, người lý tưởng , và người hoàn hảo 
                trong xã hội .
 
                - 
                Vai trò 
                của giới Phật giáo là làm cho con người giải thoát tất cả mọi 
                ràng buộc ở đời cũng như cải tạo những hành vi bất thiện mà con 
                người gây ra trong xã hội. Khi con người sống trong giới (Sìla) 
                và thân tâm trở nên an tịnh không còn phiền não tham sân si, xã 
                hội trở nên an bình, không còn những vấn đề sát sanh, trọm cắp, 
                v.v.; hoặc xung đột, thù oán cũng như những vấn đề xuống cấp đạo 
                đức cá nhân. Về quan điểm môi trường sinh thái, con người xã hội 
                không những giữ gìn môi trường, cây cối, thảo mộc, đường xá sạch 
                và xanh ; mà còn bảo vệ và chăm sóc chúng bằng ý thức đạo đức 
                của chính mình. Kết quả là xã hội và môi trường sinh thái ngày 
                càng phát triển và tồn tại lâu dài từ trong ánh mắt và trái tim 
                của chúng ta. Đối với giáo dục, giới Phật giáo có một nền giáo 
                dục tâm lý vượt hẳn trên nền giáo dục ở đời vì tính siêu việt 
                của nó . Điều này có nghĩa là giới Phật giáo có một phương pháp 
                giáo dục tuyệt vời diệt tận mọi phiền não hầu mang lại an lạc 
                hạnh phúc tối thượng cho con người. Từ quan điểm này, vai trò 
                của giới Phật giáo có sự đóng góp to lớn đói với sự phát triển 
                xã hội hiện nay trong nhiều phương diện khác nhau.
 
                - 
                Bên 
                cạnh , vì tầm quan trọng về vai trò của giới (Sìla) trong giai 
                đoạn hiện nay, người viết chỉ hy vọng rằng chúng ta nên có những 
                công trình nghiên cứu rõ ràng về giới của Phật giáo qua hai quan 
                điểm Nam truyền và Bắc truyền Phật giáo, hoặc  nên có sự nghiên 
                cứu nghiêm túc về Sìla dựa theo lời dạy nguyên thủy của đức Phật 
                mà không dựa theo tư tưởng của các trường phái khi các nhà học 
                giả Phật giáo muốn thực hiện công trình của mình . Tại sao? Vì 
                mỗi trường phái đều có những khái niệm về Sìla riêng biệt và 
                khác nhau;  do đó, nguyên từ của Sìla ngay càng xa rời với ý 
                nghĩa nguồn gốc của nó , cũng như mất đi vai trò quan trọng của 
                nó trong cuộc sống con người hiện nay.
 
                - 
                Ta có 
                thể nói: với tính uyển chuyển năng động và tích cực của việc 
                thực hành Sìla, giới Phật giáo luôn thích nghi với mọi tình 
                huống hoàn cảnh xã hội, và luôn hiện hữu trong cuộc đời như là 
                một sự cần thiết của xã hội ngày nay. Có như vậy đạo Phật mới 
                đứng vững và hiện hữu được lâu dài ở mọi thời gian và không bao 
                giờ bị mai một, như lời phát biểu của cựu thủ tướng Srilanka 
                Bandaranaike đã nhấn mạnh:
 
                - 
                “Phật 
                giáo sẽ trường tồn như mặt trời, mặt trăng và loài người hiện 
                hữu trên mặt đất; vì Phật giáo là tôn giáo của con người, của 
                nhân loại nói chung” (Buddhism will last as long as the sun and 
                moon last and the human race exists upon the earth, for it is 
                the religion of man, of humanity as a whole)(30)
 
                - 
                
                Bibliography
 
                - 
                
                I. PRIMARY SOURCES:
 
                - 
                
                1.       Rhys Davids, T.W.  (trans), Sacred Books of the 
                Buddhists: Dialogues of the Buddha, and F.Max Muller (ed), 
                vol. II, part I, the fifth edition reprinted, Oxford: P.T.S., 
                1992.
 
                - 
                
                2.       Rhys Davids, T.W and C.A.F.  (trans), Sacred Books 
                of the Buddhists: Dialogues of the Buddha, vol. III-IV, part 
                II-III, the fourth edition reprinted, Oxford: P.T.S., 1989.
 
                - 
                
                3.       Horner, I.B.  (trans), The Book of the Discipline - 
                Vinaya Pitaka, vol. III, Oxford: PTS, 1993.
 
                - 
                
                4.       Rhys Davids, T.W.,  and Hermann Oldenberg (trans), 
                The Sacred Books of the East: Vinaya Texts, and F. Max 
                Muller (ed), vol. 13, Delhi: Motilal Banarsidass Publishers Pvt. 
                Ltd., 1996.
 
                - 
                
                5.       Buddhaghosa, B. The Path of Purification, trans. 
                by Đànamoli, the 4th edition, Sri lanka : Buddhist Publication 
                Society, 1979.
 
                - 
                
                II. SECONDARY SOURCES:
 
                - 
                
                1.       Vincent A. Smith, The Edicts of Asoka, Delhi: 
                Munshiram Manoharlal Publishers Pvt. Ltd., 1992.
 
                - 
                
                2.       Edward J. Kormondy, The Concept of Ecology, 3rd 
                edition, Delhi: Prentice - Hall of India Pvt. Ltd., 1994.
 
                - 
                
                3.       Kern, H.,  Manual of Indian Buddhism, Delhi: 
                Motilal Banarsidass, 1989.
 
                - 
                
                4.       Prof. Sanghasen Singh, A Study of the Sphutàrthà 
                Srighanaca-rasangraha Tika, Delhi: Buddhist Text Society, 
                1975.
 
                - 
                
                5.       Saddhàtissa, H., Buddhist Ethics: Essence of 
                Buddhism, London: George Allen and Unwin Ltd., 1970.
 
                - 
                
                6.       Nikunja Vihari Banerjee (trans), The Dhammapada, 
                Delhi: Munshiram Manoharlal Publishers Pvt. Ltd., 1989.
 
                - 
                
                III. DICTIONARIES:
 
                - 
                
                1.       Rhys Davids, T.W.,  and William Stede, Pali - 
                English Dictionary, Delhi: Motilal Banarsidass Publishers 
                Pvt. Ltd., 1997.
 
                - 
                
                2.       Monier - William, M. Sanskrit - English Dictionary, 
                Delhi: Motilal Banarsidass Publishers Pvt. Ltd., 1999.
 
                - 
                
                3.       Cowie, A.P.  (chief-editor), Oxford Advanced 
                Learner’s Encyclopaedic Dictionary, London: Oxford 
                University Press, Oxford, 1992.
 
                - 
                
                4.       Paul Procter (chief-editor), Cambridge International 
                Dictionary of English, London: Cambridge University Press, 
                Cambridge, 1995.
 
                - 
                
                5.       William Edward Soothill and Lewis Hodous (compilator),
                A Dictionary of Chinese Buddhist Terms, Delhi: Motilal 
                Banarsidass,  1997.
 
                - 
                
                                   
                Delhi, 
                ngày 
                
                20/02/2001
 
               
              
                
                 
               
              
                - 
                Chú 
                thích:
 
                - 
                
                (1) N. 
                V. Banerjee (trans), The Dhammapàda, verse 183, p.103. (Pháp Cú, 
                kệ 183, trang 103).
 
                - 
                
                (2) 
                Ibid., verse 281, p. 109.(Như trên, kệ 281, trang 109).
 
                - 
                
                (3) 
                Vincent A. Smith, The Edicts of Asoka, pp. 6 – 8. ( Những Sắc Dụ 
                của vua A Dục, từ trang 6-8).
 
                - 
                
                (4) 
                Edward J. Kormondy, Concept of Ecology, preface xiv.(Khái niệm 
                về Môi 
                Trường, 
                lời nói đầu xiv)
 
                - 
                
                (5) 
                N.V.Banerjee (trans), op.cit.,verse 49, p.126.( như trên, kệ 
                49,trang 126)
 
                - 
                
                (6)   
                A. P. Cowie (ed) , Oxford Advanced Learner’s Dictionary, p.704. 
                (Từ Điển 
                Oxford 
                nâng cao, trang
 
                - 
                       
                704).             
 
                - 
                
                (7)   
                Paul Proctor (ed) , Cambridge International 
                Dictionary of English, p. 1109. (Từ Điển Anh Văn quốc   
                
 
                - 
                       
                tế 
                
                Cambridge, trang 1109).
 
                - 
                
                (8)   
                William Edward Soothill and Lewis Hodous (compilers) , A 
                Dictionary of Chineses BuddhistTerms, 
 
                - 
                       
                p.239. (Từ Điển Thuật Ngữ Phật Học Trung Quốc, trang 239).
 
                - 
                
                (9)    
                B. Buddhaghosa, The Path  of Purification, p.7.(Thanh Tịnh Đạo, 
                trang 7) 
 
                - 
                
                (10)  
                T. W. Rhys Davids and 
                W. 
                Stede, Pàli- English Dictionary, p.712. (Từ Điển Pàli-Anh, trang 
                712).
 
                - 
                
                (11)   
                M. Monier-William, Sanskrit- English Dictionary, p. 1079.(Từ 
                Điển Sanskrit- Anh, trang 1079).
 
                - 
                
                (12)  
                T. W. Rhys Davids and H. Oldenberg (trans), The Sacred Book of 
                the East, vol. 13, pp. 3-68 ( Thánh Điển  
 
                - 
                        
                Phương Đông, tập 13, từ trang 3 đến trang 68)
 
                - 
                
                (13)   
                I. B. Horner(trans), The Book of Discpline: Vinaya 
                Pitaka, vol.III, pp. 156-176. (Luật Tạng, tập III,
 
                - 
                        
                từ trang 156 đến trang 176.)
 
                - 
                
                (14)  
                T. W. Rhys Davids and H. Oldenberg, op. cit., p.211.(như trên, 
                trang 211)
 
                - 
                
                (15) H. 
                Kern, Manual of Indian Buddhism, p.70. (Sách Giáo Khoa về Phật 
                Giáo 
                Ấn Độ, 
                trang 70.)
 
                - 
                
                (16) H. 
                Saddhàtissa, Buddhist Ethics: Essence of Buddhism, pp. 
                87-112.(Đạo Đức Phật Giáo: Nền Tảng 
                của Phật Giáo, từ trang 87 đến trang 112).
 
                - 
                
                (17)  
                Prof. Sanghasen Singh, A Study of the Sphutarthà 
                Srighanacarasangraha Tika, p. 14. 
 
                - 
                
                (18) T. 
                W. and C. A. F. Rhys Davids (trans), Sacred Book of the 
                Buddhists: Dialogues of the Buddha, vol.   
 
                - 
                       
                IV, part III, pp. 180-181.(Thánh Kinh Phật Giáo: Trường Bộ kinh, 
                chương IV, phần III, trang 180 đến trang 181).
 
                - 
                
                (19)  
                Ibid., p. 181.( Như trên, trang 181).
 
                - 
                
                (20)  
                Ibid., pp. 181-182.(Như trên, từ trang 181 đến trang 182)
 
                - 
                
                (21)  
                Ibid., p. 182.(Như trên, trang 182).
 
                - 
                
                (22)  
                Ibid., pp.182-183. (Như trên, từ trang 182 đến trang 183).
 
                - 
                
                (23)  
                T. W. Rhys Davids (trans), op. cit., 
                vol. 
                II, part I, p. 79. (Như trên, chương II, phần I, trang 79).
 
                - 
                
                (24)  
                Ibid., p. 82.(Như trên, trang 82).
 
                - 
                
                (25) 
                Ibid.,vol III, part II,p.91.(như trên, chương III, phần II, 
                trang 91.)
 
                - 
                
                (26) 
                Ibid, pp.90-91.(như trên,, từ trang 90 đến trang 91)
 
                - 
                
                (27) N. 
                V. Banerjee 
                (trans), op.cit.,verse 55, p.127. (như trên, kệ 55, trang 127).
 
                - 
                
                (28) 
                Ibid.,verse 56, p.127. (như trên, kệ 56, trang 127).
 
                - 
                
                (29)  
                Ibid.,verse 54, p.127. (như trên, kệ 54, trang 127).
 
                - 
                
                (30) 
                Phật giáo dưới mắt các nhà trí thức, Tr. 56, T.Tâm Quang dịch.
 
                - 
                pp. 
                181-182.(Như trên, từ trang 181 đến trang 182)
 
                - 
                
                (21)  
                Ibid., p. 182.(Như trên, trang 182).
 
                - 
                
                (22)  
                Ibid., pp.182-183. (Như trên, từ trang 182 đến trang 183).
 
                - 
                
                (23)  
                T. W. Rhys Davids (trans), op. cit., vol. II, part I, p. 79. 
                (Như trên, chương II, phần I, trang 
                79).
 
                - 
                
                (24)  
                Ibid., p. 82.(Như trên, trang 82).
 
                - 
                
                (25) 
                Ibid.,vol III, part II,p.91.(như trên, chương III, phần II, 
                trang 91.)
 
                - 
                
                (26) 
                Ibid, pp.90-91.(như trên,, từ trang 90 đến trang 91)
                (27) N. V. Banerjee 
                (trans), op.cit.,verse 55, p.127. (như trên, kệ 55, trang 
                127).
 
                - 
                
                (28) 
                Ibid.,verse 56, p.127. (như trên, kệ 56, trang 127).
 
                - 
                
                (29)  
                Ibid.,verse 54, p.127. (như trên, kệ 54, trang 127).
 
                - 
                
                (30) 
                Phật giáo dưới mắt các nhà trí thức, Tr. 56, T.Tâm Quang dịch.
 
               
              
              
                - --o0o--
 
               
              
              
             
             | 
   
           
               
       
       |