| 
           
      
  
           
                
            
              
              
                - Thư Viện Chùa Dược Sư
 
                - PHẬT HỌC CƠ BẢN
 
                  
               
              
              
                
                   
                  - Niệm 
                  Phật Pháp Môn Thù Thắng
 
                  
                
                
                   
                  - Chánh 
                  Hạnh
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  --o0o--
 
                  
                
                - 
                * 
                Khi tu ai cũng muốn đạt được kết quả, đó là thường tình chẳng có 
                chi lạ, lại nữa nhiều người muốn đọc kinh sách để hiểu sâu, biết 
                rộng củng cố niềm tin hầu tu học được tinh tấn, nhưng có nhiều 
                người chỉ nhứt tâm niệm Phật, cho nên tìm hiểu về pháp môn nầy, 
                tưởng cũng là điều cần thiết. 
 
                - 
                Rốt ráo mà nói, yếu 
                chỉ của người tu theo pháp môn niệm Phật, là nhứt tâm niệm sáu 
                tiếng "Nam Mô A Di Đà Phật", bất luận là khi đi, đứng, nằm, 
                ngồi, để cầu vãng sanh về nước cực lạc. 
 
                - 
                Có lẽ chúng ta cũng 
                nên tìm hiểu về pháp môn nầy trong các vấn đề : 
 
                - 
                - Do đâu mà có pháp 
                môn niệm Phật. 
 
                - 
                - Cảnh giới cực lạc.
                
 
                - 
                - Hành pháp môn niệm 
                Phật như thế nào theo lời Phật dạy. 
 
                - 
                A . - Do đâu mà có 
                pháp môn Niệm Phật: 
 
                - 
                Những kinh điển có 
                liên quan đến đức Phật A Di Đà và cảnh giới ngài hộ trì được gọi 
                là Cực Lạc, đó là kinh Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ và A Di 
                Đà cho nên muốn tìm hiểu về Tịnh độ tông hay pháp môn Niệm Phật, 
                cần hiểu qua ba bộ của Tịnh độ tông. 
 
                - 
                1. Vô Lượng Thọ Kinh 
                là bộ kinh chánh yếu, trong kinh nầy giải tích đức Phật A Di Đà 
                từ thuở trước kia khi tự biết mình có quả Phật, cho đến nay ngài 
                đang ngự nơi phía Tây là Cực Lạc cảnh giới, Ngài hiện lo tiếp độ 
                mọi chúng sanh chí thành cầu nguyện vãng sanh về cảnh giới cực 
                lạc.  
 
                - 
                Theo kinh nầy, về 
                thời đức Phật Thế Tự Tại Vương ra đời, có một vị quốc vương Kiều 
                Thi Ca. Vua Kiều Thi Ca nghe đức Phật thuyết pháp liền bỏ ngôi 
                vua, xuất gia làm vị tỳ kheo hiệu Pháp Tạng. Một hôm Ngài đảnh 
                lễ Phật, quỳ xuống, chấp tay cầu nguyện Phật chứng minh và phát 
                nguyện 48 lời nguyện. Do nguyện lực ấy, sau nầy thành đức Phật A 
                Di Đà. 
 
                - 
                Bộ Kinh nầy cũng gọi 
                là: Đại Bổn, Đại A Di Đà Kinh, Đại Vô Lượng Thọ Kinh, 
                
 
                - 
                Lại theo kinh Bi Hoa, 
                về đời vua Chuyển Luân ThánhVương tên Vô Tránh Niệm có vị đại 
                thần Bảo Hải. Vị nầy có người con tên là Bảo Tạng, tướng tốt dị 
                thường sau xuất gia thành Phật, hiệu là Bảo Tạng Như Lai. Một 
                hôm vua Vô Tránh Niệm nghe Phật thuyết pháp liền phát tâm muốn 
                cúng dường các món ăn uống, y phục cho đức Phật và đại chúng 
                luôn luôn trong ba tháng. Vị đại thần Bảo Hải khuyên vua nên 
                phát tâm cầu đạo vô thượng. Vua liền phát nguyện sau nầy thành 
                Phật sẽ làm giáo chủ một cảnh cực kỳ trang nghiêm thanh tịnh để 
                giáo hóa chúng sanh. Vua Vô Thánh Niệm phát nguyện xong, đức Bảo 
                Tạng Như Lai liền Thọ Ký cho vua sau nầy sẽ thành Phật hiệu là A 
                Di Đà và cõi nước của ngài sẽ là cõi Cực Lạc Tây Phương. Vị Đại 
                Thần Bảo Hải sau nầy cũng thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni.
                
 
                - 
                Theo Diệu Pháp Liên 
                Hoa Kinh, phẩm thứ bảy Hóa Thành Dụ : Về thời quá khứ rất xa, 
                tại nước Hảo Thành có vị vua tu thành Phật hiệu là Đại Thông Trí 
                Thắng Phật. Khi còn ở ngôi báu ngài có 16 vương tử, khi nghe 
                ngài đã thành Phật, 16 vị vương tử nầy liền xuất gia theo Phật 
                Đại Thông Trí Thắng tu hành, được Phật giảng dạy kinh Pháp Hoa, 
                về sau cả 16 vị vương tử nầy đều thành Phật. Có hai vị là Phật ở 
                phương Đông : A Súc và Tu Di Đính, hai vị là Phật ở Đông Nam : 
                Sư Tử Âm và Sư Tử Tướng, hai vị là Phật ở phương Nam : Hư Không 
                Trụ và Thường Diệt, hai vị là  Phật ở Tây Nam : Đế Tướng và Phạm 
                Tướng, hai vị là Phật ở phương Tây : A Di Đà và Độ Nhất Thiết 
                Thế Gian Khổ Não, hai vị làm Phật ở Tây Bắc : Đa Ma La Bạt Chiên 
                Đàn Hương Thần Thông và Tu Di Tướng, hai vị làm Phật ở phương 
                Bắc là Vân Tự Tại và Vân Tự Tại Vương, một vị là Phật ở Đông Bắc 
                : Hoại Nhất Thiết Thế Gian Khổ Não và vị thứ 16 chính là đức Thế 
                Tôn ở cõi Ta Bà nầy. 
 
                - 
                2. Kinh Quán Vô Lượng 
                Thọ ghi lại việc xãy ra khi đức Thế Tôn ở tại núi Kỳ Xà Quật, do 
                ngài cảm ứng lời cầu nguyện của hoàng thái hậu Vi Đề Hy bị vua A 
                Xà Thế biệt giam ở cấm thất, ngài bảo đức Mục Kiền Liên cùng 
                ngài A Nan đến đó, còn đức Thế Tôn hiện thân nơi ấy, giảng dạy 
                cho bà Vi Đề Hy phương pháp tu để giải thoát khỏi cảnh giới Ta 
                Bà, bà Vi Đề Hy nhờ thần lực của đức Thế Tôn, bà đã được thấy 
                suốt nhiều cảnh giới, nhưng bà chọn cảnh giới Cực Lạc. Đó là 
                cảnh giới của đức Phật A Di Đà, gồm có 9 phẩm. Đức Phật đã dạy 
                cho Bà Vi Đề Hy phép Quán Vô Lượng Thọ ( Vô Lượng Thọ là sống 
                lâu mãi mãi, cũng là một trong 12 danh hiệu tôn xưng đức Phật A 
                Di Đà). 
 
                - 
                Tưởng cũng nên nói 
                qua nhân duyên Phật độ cho bà Vi Đề Hy, hoàng hậu của Tần Bà Sa, 
                mẹ của vua A Xà Thế. Thời gian thái tử Tất Đạt Đa còm tìm thầy 
                học đạo, có đến thành Vương xá, là kinh đô vương quốc Ma Kiệt Đà 
                do Bình Sa Vương cai trị, Bình Sa Vương thấy ngài là một tu sĩ 
                có tướng mạo cao quý, nên có đến thăm viếng và yêu cầu khi nào 
                Thái Tử đắc đạo, mời trở lại viếng thăm vương quốc Ma Kiệt Đà. 
                Do đó sau khi thành đạo chẳng bao lâu và sau khi đã độ ông Ca 
                Diếp và Mục Kiền Liên, đức Thế Tôn đã sớm trở lại vương quốc Ma 
                Kiệt Đà để độ cho Bình Sa Vương, lần gặp gỡ nầy, đức Thế Tôn 
                giảng kinh Túc Sanh Truyện, Bình Sa Vương nghe qua chứng được 
                quả Tu Đà Hoàn và ngài đã cúng dường rừng trúc để xây dựng Trúc 
                Lâm Tịnh Xá. 
 
                - 
                Trước kia, khi Hoàng 
                hậu Vi Đề Hy chưa có con, vua Bình Sa Vương đã đi lễ nhiều nơi 
                để xin thần nhân giúp cho, một hôm có vị thầy tướng cho vua 
                biết, ở ngọn núi Phú Lâu Na có bậc tiên nhơn đạo đức, sau ba năm 
                nữa sẽ thác sanh làm con vua. Vì muốn sớm có con sau đôi ba phen 
                thỉnh cầu mà không được, lần chót vua ra lệnh cho sứ hóa kiếp 
                tiên nhân để sớm đạt được ý nguyện của mình. Do đó trước khi 
                chết, tiên nhân phát nguyện : ?? Ngày nay vua dùng tâm và miệng 
                sai người giết tôi, nếu tôi sanh làm con vua, cũng dùng tâm và 
                miệng sai người giết vua ??. Chưa sanh mà đã có oán thù, cho nên 
                A Xà Thế còn có tên là Vị Sanh Oán. 
 
                - 
                Khi đức Thế Tôn đã 
                cao tuổi, Đề Bà Đạt Đa anh ruột của ngài A Nan, muốn thống lãnh 
                Tăng đoàn, yêu cầu Phật truyền cho ông ngôi vị ấy, Phật biết Đề 
                Bà Đạt Đa không xứng đáng nên chẳng khứng cho, Đề Bà Đạt Đa mới 
                liên kết xúi dục Thái tử A Xà Thế cướp ngôi vua cha. Bình Sa 
                Vương dẹp yên, biết con muốn làm vua, chẳng những không bắt tội 
                mà ngài lại truyền ngôi cho A Xà Thế. Lên ngôi xong, A Xà Thế ra 
                lệnh hạ ngục vua cha, không cho ăn uống, nhưng bà Vi Đề Hy đã 
                vào thăm và lén giấu thức ăn trong người để tiếp tế cho Bình Sa 
                Vương, biết được việc nầy, A Xà Thế hạ lệnh giam Vi Đề Hy ở cấm 
                cung. Chính ở nơi đây, bà đã cầu nguyện đức Thế Tôn chỉ cho biết 
                nguyên nhân, và dạy cho bà cách tu để thoát khỏi cảnh khổ ở thế 
                gian nầy. Ấy là nguyên do Đức Thế Tôn giảng Quán Vô Lượng Thọ 
                Kinh. 
 
                - 
                Còn A Xà Thế, sau khi 
                giam mẹ, ông sai người thợ cạo vào ngục thất để giết vua cha, 
                liền sau đó ông được tin mình có con đầu lòng, lúc ấy ông mới 
                biết tình cha con, ông vào cấm thất hỏi mẹ về tình cảm của vua 
                cha đối với ông, bà Vi Đề Hy đã kể lại những tình cảm cao cả 
                Bình Sa Vương đã dành cho ông, ông hối hận truyền lệnh thả vua 
                cha, nhưng lệnh của ông đã đến chậm hơn nhiệm vụ của người thợ 
                cạo phải thi hành. Nhân quả đã xong. Để răn dạy người tu hành, 
                những hành vi của Đề Bà Đạt Đa và vua A Xà Thế đối với Phật và 
                cha mẹ trở thành ngũ nghịch tội, ai mắc phải, bị đọa vào ngục vô 
                gián. Theo kinh Pháp Hoa, Phẩm Đề Bà Đạt Đa, đức Thế Tôn cho 
                biết ở một tiền kiếp, Đề Bà Đạt Đa đã truyền dạy cho ngài  kinh 
                Pháp Hoa, nên ngài đã thọ ký cho Đề Bà Đạt Đa thành Thiên Vương 
                Như Lai sau nầy. Còn vua A Xà Thế về sau thành một vị hộ pháp 
                đắc lực, nhất là ông đã yểm trợ cho công cuộc Kiết Tập Kinh Điển 
                lần thứ nhất. 
 
                - 
                Quán Vô Lượng Thọ 
                kinh, đức Phật giảng 16 phép quán tưởng, để được vào Chín Phẩm 
                của đức Phật A Di Đà, đó là cõi cực lạc hay tịnh độ, nhưng Quán 
                là pháp tu Thiền, Cho nên Quán Vô Lượng Thọ Kinh là pháp Thiền 
                của Tịnh độ. Kinh nầy cũng còn được gọi là Thập Lục Quán Kinh. 
                
 
                - 
                3. Kinh A Di Đà, 
                chúng ta thường tụng trong các khóa lễ Cầu siêu, kinh nầy Phật 
                giảng cho ông Xá Lợi Phất và đại chúng tại Kỳ Thọ Cấp Cô Độc 
                Viên, trong kinh nầy đức Phật đã mô tả sơ lược cảnh giới của đức 
                Phật A Di Đà, khuyên mọi người tu để được vãng sinh về cảnh giới 
                ấy, cương yếu là đoạn kinh sau đây:  
 
                - 
                - Ông Xá Lợi Phất ! 
                Nếu có người trai lành, người gái thảo nào nghe nói về đức Phật 
                A Di Đà, cố gắng chuyên trì tên hiệu Ngài: hoặc một ngày, hoặc 
                hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu 
                ngày, hoặc bảy ngày, một lòng chẳng loạn, thì người ấy khi lâm 
                chung sẽ được đức Phật A Di Đà cùng các bậc Thánh, hiện ra trước 
                người ấy, người ấy khi chết tâm không điên đảo, liền được sinh 
                sang cõi nước cực lạc của đức Phật A Di Đà. 
 
                - 
                Có thể nói đây là 
                đoạn quan trọng, chính yếu để phát triển pháp môn Niệm Phật của 
                tịnh độ tông. Kinh Vô Lượng Thọ được gọi là Đại Bổn A Di Đà nên 
                kinh nầy còn được gọi là Tiểu Bổn A Di Đà.  
 
                - 
                Căn cứ vào ba kinh : 
                Vô Lượng Thọ ( Khang Tăng Khải đời Tào Ngụy dịch), Quán Vô Lượng 
                Thọ ( Cương Lương Da Xá, đời Lưu Tống dịch ), A Di Đà ( Thiên 
                Thân soạn, Cưu Ma La Thập, đời Diêu Tần dịch ) và bộ Luận Vãng 
                Sanh Tịnh Độ ( Thế Thân trước tác, Bồ Đề Lưu Chi dịch ), ngài 
                Tuệ Viễn (334-416) xiển dương Quán Tưởng Niệm Phật, lập dựng nên 
                tông phái Tịnh độ. Khác với Thiền Tông có truyền thừa, Tịnh Độ 
                Tông tôn vinh những vị chứng quả thành Tổ, Phật giáo Trung Quốc 
                đã tôn vinh ngài Tuệ Viễn là Sơ Tổ Tịnh Độ Tông, và lần lượt tôn 
                vinh các vị Tổ Tịnh Độ Tông như sau : 1) Tuệ Viễn, 2) Thiện Đạo, 
                3) Thừa Viễn, 4) Pháp Chiếu, 5) Thiếu Khang, 6) Diên Thọ tự Xung 
                Huyền, hiệu Trí Giác, 7) Tỉnh Thường tự Thứu Vi, 8) Châu Hoằng 
                tự Phật Huệ, hiệu Liên Trì, 9) Trí Húc tự Ngẫu Ích, 10) Hành 
                Sách, 11) Thật Hiền tự Tư Tề, hiệu Tỉnh Am, 12) Tế Tỉnh tự Triệt 
                Ngộ, 13) Ấn Quang  
 
                - 
                B.- Cảnh Giới Cực Lạc 
                : 
 
                - 
                Về cảnh giới Cực Lạc, 
                nó không phải là Niết bàn tịch tĩnh, theo như trong kinh A Di Đà 
                diễn tả : 
 
                - 
                - Này ông Xá Lợi Phất 
                ! Sao cõi kia lại gọi là Cực Lạc ? Vì chúng sanh trong nước ấy 
                không có những sự đau khổ, chỉ hưởng thụ những sự vui sướng mà 
                thôi, nên gọi là Cực Lạc. 
 
                - 
                - Lại nữa, ông Xá Lợi 
                Phất ! Cõi nước Cực Lạc có bảy trùng bao lơn, bảy trùng lưới 
                giăng, bảy trùng hàng cây, những trùng đó đều bằng bốn thứ ngọc 
                báu, vây bọc chung quanh. Thế nên nước kia gọi là Cực Lạc.
                
 
                - 
                - Lại nữa, ông Xá Lợi 
                Phất ! Cõi nước Cực Lạc có ao bằng bảy thứ ngọc báu, nước tám 
                công đức tràn đày trong ao ấy. Đáy ao thường lấy cát vàng rải 
                khắp mặt đất. Đường và bực bốn bên ao đều hợp thành bởi vàng, 
                bạc, lưu ly và pha lê. Trên ao có những lâu các cũng đều trang 
                nghiêm bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xà cừ, xích châu, mã não. 
                Trong ao có những hoa sen lớn như bánh xe. Hoa sen xanh tỏa ra 
                ánh sáng xanh, hoa sen vàng tỏa ra ánh sáng vàng, hoa sen đỏ tỏa 
                ra ánh sáng đỏ, hoa sen trắng tỏa ra ánh sáng trắng, các hoa sen 
                ấy đều có những hương vị thanh khiết vi diệu. 
 
                - 
                - Này ông Xá Lợi Phất 
                ! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm như thế.
                
 
                - 
                - Lại nữa, ông Xá Lợi 
                Phất ! Cõi nước của đức Phật A Di Đà kia, thường trổi những âm 
                nhạc cõi trời; đất bằng vàng ròng và ngày đêm sáu thời thường 
                mưa xuống những hoa mạn đà la cõi trời. Chúng sanh trong cõi nầy 
                cứ sáng sớm ra, họ thường đem những lẵng hoa quí, cúng dường 
                mười vạn ức Phật ở các phương khác, mà chỉ trong giây lát, họ đã 
                về ngay tới nước của họ, kịp bữa ăn sáng. Ăn xong họ đi kinh 
                hành. 
 
                - 
                - Ông Xá Lợi Phất ! 
                Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm như thế. 
                
 
                - 
                - Lại nữa, ông Xá Lợi 
                Phất ! Nước kia thường có các giống chim có màu sắc sặc sỡ, đẹp 
                lạ như : chim bạch hạc, chim khổng tước, chim anh vũ, chim xá 
                lợi, chim ca lăng tần già, chim cộng mệnh. Các loại chim ấy, 
                ngày đêm sáu thời hót ra những tiếng hòa nhã. Trong những tiếng 
                ấy diễn tỏ những diệu pháp như năm căn, năm lực, bảy bồ đề phần, 
                tám thánh đạo phần. Những diệu pháp như thế, chúng sinh trong 
                cõi nầy, nghe được tiếng pháp ấy rồi, hết thảy đều niệm Phật, 
                niệm Pháp, niệm Tăng. 
 
                - 
                - Ông Xá Lợi Phất ! 
                Ông chớ nên bảo rằng các giống chim nầy do tội báo mà sinh ra. 
                Sở dĩ thế là vì sao ? Là vì cõi nước của đức Phật A Di Đà kia 
                không có ba đường ác. 
 
                - 
                - Ông Xá Lợi Phất ! 
                Cõi nước đức Phật A Di Đà còn không có tên gọi ác, huống là có 
                ác thực ư ? Các giống chim ấy đều do đức Phật A Di Đà muốn cho 
                tiếng pháp lan rộng, nên ngài biến hóa ra như vậy. 
 
                - 
                - Ông Xá Lợi Phất ! 
                Cõi nước đức Phật A Di Đà kia có những làn gió hiu hiu thổi rung 
                các hàng cây báu, cùng những mạng lưới báu, phát ra những tiếng 
                vi diệu, ví như trăm nghìn thứ âm nhạc, đồng thời trổi lên.
                
 
                - 
                - Ai nghe được những 
                tiếng ấy, tự nhiên đều sinh tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.
                
 
                - 
                - Ông Xá Lợi Phất ! 
                Cõi nước đức Phật A Di Đà thành tựu công đức trang nghiêm như 
                thế. 
 
                - 
                Đó là cảnh giới Cực 
                Lạc theo kinh A Di Đà, còn theo kinh Vô Lượng Thọ, tỳ kheo Pháp 
                Tạng có 48 lời nguyện, khi nào 48 nguyện nầy thành tựu ngài mới 
                thành Phật A Di Đà, ngược lại tỳ kheo Pháp Tạng sau nầy đã chứng 
                quả tức là 48 lời nguyện ấy đã thành tựu, đó cũng là cảnh giới 
                của đức Phật A Di Đà : ( Có thể đọc 48 lời nguyện theo thể văn 
                vần của Kinh Bốn Mươi Tám Lời Nguyện trong Nghi Thức Tụng Niệm 
                ). 
 
                - 
                1.- Tôi thành Phật 
                rồi, nguyện độ cho nhân dân trong nước tôi tránh khỏi ba đường 
                Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh. Nếu không được vậy, tôi quyết chẳng 
                thành Phật 
 
                - 
                2.- Tôi thành Phật 
                rồi, nguyện cho những ai sanh vào nước tôi, đều tránh khỏi sự 
                đọa lạc vào các hàng Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh. Nếu chẳng được 
                vậy, tôi quyết chẳng thành Phật. 
 
                - 
                3.- Tôi thành Phật 
                rồi, nguyện cho loài người và chư Thiên trong nước tôi đều đồng 
                một sắc như vàng ròng. Nếu không được vậy, tôi quyết chẳng thành 
                Phật. 
 
                - 
                4.- Tôi thành Phật 
                rồi, nguyện cho loài người và chư Thiên trong nước tôi đều xinh 
                lịch như nhau cả, chớ chẳng có sự chênh lệch người đẹp, kẻ thô. 
                Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng thành Phật. 
 
                - 
                5.- Tôi thành Phật 
                rồi, nguyện cho loài người và chư Thiên trong nước tôi đều đặng 
                Túc mạng thông, tức là rõ thấu ngàn muôn kiếp trước, nếu có ai 
                quán tưởng mà không nhớ đuợc vô số kiếp, tôi quyết chẳng thành 
                Phật. 
 
                - 
                6.- Tôi thành Phật 
                rồi, nguyện cho loài người và chư Thiên trong nước tôi đều đặng 
                Thiên nhãn thông. Nếu có ai trông ra không thấy ngàn muôn và vô 
                số cõi Phật, tôi quyết chẳng thành Phật. 
 
                - 
                7.- Tôi thành Phật 
                rồi, nguyện cho loài người và chư Thiên trong nước tôi đều đặng 
                Thiên nhĩ thông. Nếu có ai không nghe ra tiếng của chư Phật 
                thuyết pháp trong ngàn muôn và vô số cõi Phật, tôi quyết chẳng 
                thành Phật. 
 
                - 
                8.- Tôi thành Phật 
                rồi, nguyện cho loài người và chư Thiên trong nước tôi đều đặng 
                Tha tâm thông. Nếu có ai không nhận ra tâm niệm của chúng sanh, 
                tôi quyết chẳng thành Phật. 
 
                - 
                9.- Tôi thành Phật 
                rồi, nguyện cho loài người và chư thiên trong nước tôi đều đặng 
                Thần tức thông. Nếu có ai trong một niệm mà chẳng vượt qua ngàn 
                muôn và vô số cõi Phật, tôi quyết chẳng thành Phật. 
 
                - 
                10.-Tôi thành Phật 
                rồi, nguyện cho loài người và chư Thiên trong nước tôi đều chẳng 
                hề có ý vọng tưởng về tài sản mình, cho đến chẳng có lòng tham 
                chấp cái thân thể mình. Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng 
                thành Phật. 
 
                - 
                11.-Tôi thành Phật 
                rồi, nguyện cho loài người và chư Thiên trong nước tôi đều đắc 
                được Pháp thân, tức là chắc quyết vào Pháp Phật thấu lý tuyệt 
                đích và tu riết tới để nhập Đại Niết Bàn. Nếu không được như 
                vậy, tôi quyết chẳng thành Phật. 
 
                - 
                12.- Tôi thành Phật 
                rồi, nguyện cho hào quang tôi chói sáng khắp trong nước tôi và 
                chói khắp vô số cõi khác, chúng sanh trong các cõi trông thấy 
                hào quang ấy, đều lánh dữ theo lành. Nếu không được như vậy, tôi 
                quyết chẳng thành Phật. 
 
                - 
                13.- Tôi thành Phật 
                rồi, nguyện cho đời sống của tôi dài dặc vô hạn, nếu thọ mạng 
                tôi không đến ngàn muôn và vô số kiếp, tôi quyết chẳng thành 
                Phật. 
 
                - 
                14.- Tôi thành Phật 
                rồi, nguyện cho số Thanh Văn đệ tử trong nước tôi kể đếm không 
                xiết; kể cho tất cả chư tu thành Phật, Duyên Giác trong ba ngàn 
                cõi thế đếm mãi trong ngàn muôn và vô số kiếp cũng không đếm hết 
                số Thanh văn đệ tử của tôi. Nếu không được như vậy, tôi quyết 
                chẳng thành Phật. 
 
                - 
                15.- Tôi thành Phật 
                rồi, nguyện cho loài người và chư Thiên trong nước tôi sống lâu 
                không kể xiết, trừ khi phát nguyện thọ sanh qua cõi khác. Nếu 
                không được như vậy, tôi quyết chẳng thành Phật. 
 
                - 
                16.- Tôi thành Phật 
                rồi, nguyện cho trong nước tôi chẳng ai biết tới những tiếng chỉ 
                sự hung dữ tội ác. Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng thành 
                Phật. 
 
                - 
                17.- Tôi thành Phật 
                rồi, nguyện cho vô số chư Phật trong các cõi thập phương đều 
                xưng tán danh hiệu tôi, ngợi khen công đức tôi và cõi Phật của 
                tôi, khiến cho đệ tử nguyện sanh về nước tôi. Nếu không được như 
                vậy, tôi quyết chẳng thành Phật. 
 
                - 
                18.- Tôi thành Phật 
                rồi, nguyện rằng tất cả chúng sanh trong mười phương nếu đem 
                lòng tin tôi, cầu về nước tôi và dẫu niệm danh hiệu tôi vừa đủ 
                mười lần, thì tôi cũng rước ngay. Duy trừ những kẻ phạm tội ngũ 
                nghịch và hủy mạ Chánh Pháp. Nếu không được như vậy, tôi quyết 
                chẳng thành Phật.  
 
                - 
                19.- Tôi thành Phật 
                rồi, nguyện rằng những chúng sanh trong mười phương đã phát tâm 
                tu hành cho thành chánh giác, nếu nghe được danh hiệu tôi, lấy 
                lòng thành tín và trong sạch mà niệm tưởng tôi để sanh về nước 
                tôi, thì khi họ lâm chung, tôi dắc đại chúng hiện đến trước mặt 
                họ mà tiếp dẫn họ. Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng thành 
                Phật. 
 
                - 
                20.- Tôi thành Phật 
                rồi, nguyện rằng những chúng sanh trong mười phương nếu nghe 
                danh hiệu tôi, thường nhớ đến nước tôi, dốc lòng làm các việc 
                công đức để sanh về nước tôi, thì họ được mãn nguyện ngay. Nếu 
                không được như vậy, tôi quyết chẳng thành Phật. 
 
                - 
                21.- Tôi thành Phật 
                rồi, nguyện cho loài người và chư Thiên trong nước tôi, tất cả 
                đều đủ ba mươi hai tướng quí. Nếu không được như vậy, tôi quyết 
                chẳng thành Phật. 
 
                - 
                22.- Tôi thành Phật 
                rồi, nguyện cho chúng sanh các cõi sanh vào nước tôi đều đắc 
                đặng bực Nhứt Sanh Bổ Xứ, tức là chỉ còn sanh có một lần vào cõi 
                nào thì đặng thành Phật hoàn toàn; trừ chư Bồ Tát lập Đại nguyện 
                đưa độ chúng sanh cho đến Niết Bàn và quyết lòng ra đi phụng sự 
                chư Phật, hổ trợ Chánh Pháp. Nếu không được như vậy, tôi quyết 
                chẳng thành Phật. 
 
                - 
                23.- Tôi thành Phật 
                rồi, nguyện cho Bồ tát trong nước tôi có thể lướt qua các cõi mà 
                cúng dường cho ngàn muôn và vô số chư Phật, kế trở về nước cho 
                kịp bửa ăn ngọ . Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng thành 
                Phật. 
 
                - 
                24.- Tôi thành Phật 
                rồi, nguyện cho Bồ Tát trong nước tôi muốn có bất kỳ vật chi như 
                vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não, các thứ 
                châu ngọc, mọi đồ trang điểm như hương, hoa, tua, tuội, phấn 
                sáp, mạt hương, áo quần, dù lọng, cờ phướn, đèn, các điệu múa, 
                hát, âm nhạc, thì tất cả đều hiện lại liền theo ý muốn. Nếu 
                không được như vậy, tôi quyết chẳng thành Phật. 
 
                - 
                25.- Tôi thành Phật 
                rồi, nguyện cho người trong nước tôi đều có đủ trí tuệ và giảng 
                diễn nghĩa lý Phật Pháp cho đến chỗ viên mãn. Nếu không được như 
                vậy, tôi quyết chẳng thành Phật. 
 
                - 
                26.- Tôi thành Phật 
                rồi, nguyện cho Bồ Tát trong nước tôi, thân sức cứng rắn như hạt 
                kim cương (của đức Narayana). Nếu không được như vậy, tôi quyết 
                chẳng thành Phật. 
 
                - 
                27.- Tôi thành Phật 
                rồi, nguyện cho không một chúng sanh nào có thể biết cõi tôi 
                nghiêm trang tịnh diệu tới đâu, dẫu cho ai có thiên nhãn cũng 
                không thể biết hết công đức của cõi tốt đẹp vô cùng của tôi . 
                Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng thành Phật. 
 
                - 
                28.- Tôi thành Phật 
                rồi, nguyện cho rằng bất kỳ vị Bồ Tát nào trong nước tôi, dầu 
                kém công đức cũng dòm thấy cây Bồ Đề (Bửu thọ) của tôi đẹp đẻ, 
                nghiêm trang và cao cả ngàn do tuần. Nếu không được như vậy, tôi 
                quyết chẳng thành Phật. 
 
                - 
                29.- Tôi thành Phật 
                rồi, nguyện cho chúng sanh trong nước tôi thọ trì, đọc tụng kinh 
                điển, đều hiểu rõ nghĩa lý cho đến chỗ viên mãn, hầu có diễn 
                giảng ra một cách minh bạch . Nếu không được như vậy, tôi quyết 
                chẳng thành Phật. 
 
                - 
                30.- Tôi thành Phật 
                rồi, nguyện cho Bồ Tát trong nước tôi đều có tài thuyết pháp một 
                cách hùng biện và làu thông vô hạn lượng. Nếu không được như 
                vậy, tôi quyết chẳng thành Phật. 
 
                - 
                31.- Tôi thành Phật 
                rồi, nguyện cho nước của tôi trở nên thanh tịnh và sáng suốt. 
                Chư Bồ Tát trong nước tôi ngồi trông ra thấy được ngàn muôn và 
                vô số cõi Phật khác, cũng như nhìn vào gương mà thấy hình. Nếu 
                không được như vậy, tôi quyết chẳng thành Phật. 
 
                - 
                32.- Tôi thành Phật 
                rồi, nguyện cho trong nước tôi từ đất bằng cho chí hư không, đều 
                có những cung điện, lầu các, cây hoa, ao suối quí báu vô giá làm 
                bằng các thứ hương thơm, mùi hương bay ra khắp các cõi thế giới, 
                khiến cho ai ngửi vào cũng đem lòng thờ kính chư Đại Bồ Tát và 
                chư Phật Như Lai. Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng thành 
                Phật. 
 
                - 
                33.- Tôi thành Phật 
                rồi, nguyện cho chư Bồ Tát trong ngàn muôn và vô số cõi Phật nếu 
                được hào quang tôi chạm vào mình, thì thân tâm tôi trở nên hiền 
                lành vui sướng hơn các bực Thiên và người. Nếu không được như 
                vậy, tôi quyết chẳng thành Phật. 
 
                - 
                34.- Tôi thành Phật 
                rồi, nguyện cho chư Bồ Tát trong ngàn muôn và vô số cõi Phật, hễ 
                nghe danh hiệu tôi, thì được thoát khỏi luân hồi, được đắc các 
                cảnh Tam muội cao siêu cho đến thành đạo Bồ đề. Nếu không được 
                như vậy, tôi quyết chẳng thành Phật. 
 
                - 
                35.- Tôi thành Phật 
                rồi, nguyện cho hàng phụ nữ trong ngàn muôn và vô số cõi Phật, 
                hễ nghe danh hiệu tôi, bèn ra sức tinh tấn mà trì niệm, phát tâm 
                tu đến thành chánh giác, nhàm chán sự luân hồi làm thân phụ nữ, 
                như vậy nếu về sau có sanh ra nữa, thì khỏi mang thân phụ nữ. 
                Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng thành Phật. 
 
                - 
                36.- Tôi thành Phật 
                rồi, nguyện cho chư Bồ Tát trong vô số cõi Phật trong mười 
                phương, hễ nghe danh hiệu tôi, thì đời nào sanh ra cũng lo tu 
                hành mãi cho đến khi thành Phật. Nếu không được như vậy, tôi 
                quyết chẳng thành Phật. 
 
                - 
                37.- Tôi thành Phật 
                rồi, nguyện cho chư Bồ Tát trong vô số cõi Phật mười phương, hễ 
                nghe danh hiệu tôi, bèn cung kính lễ bái và thờ phụng tôi; trong 
                khi hành phận sự Bồ Tát, các Ngài ấy được loài người và chư 
                Thiên kính mến. Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng thành 
                Phật. 
 
                - 
                38.- Tôi thành Phật 
                rồi, nguyện cho loài người và chư Thiên trong nước tôi, nếu muốn 
                mặc y phục thì liền có y phục hiện đến ngay, y phục nhiệm mầu 
                vốn sức linh của Phật ban cho, không có đường may, không thể 
                dính dơ, không hề hư cũ. Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng 
                thành Phật. 
 
                - 
                39.- Tôi thành Phật 
                rồi, nguyện cho loài người và chư Thiên trong nước tôi đều được 
                vui sướng cũng như bậc Tỳ kheo đắc Đạo diệt được các mối khổ não 
                nơi mình. Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng thành Phật.
                
 
                - 
                40.- Tôi thành Phật 
                rồi, nguyện cho loài người và chư Thiên trong nước tôi, tùy ý 
                muốn thấy đức Phật nào trong mười phương vũ trụ, cứ nhìn vào cây 
                Bồ đề phía ấy thì thấy ngay. Nếu không được như vậy, tôi quyết 
                chẳng thành Phật. 
 
                - 
                41.- Tôi thành Phật 
                rồi, nguyện cho chư Bồ Tát trong vô số cõi Phật, hễ nghe danh 
                hiệu tôi thì ngũ quan và tri giác trở nên mạnh mẽ đều đủ luôn. 
                Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng thành Phật. 
 
                - 
                42.- Tôi thành Phật 
                rồi, nguyện cho chư Bồ Tát trong vô số cõi Phật, hễ nghe danh 
                hiệu tôi thì đắc các phép Thiền Thanh Tịnh Giải Thoát Tam Muội 
                (Suvibhaktavati), đắc pháp thiền nầy trong khoảng vài giây lát, 
                các ngài ấy có thể cúng dường hằng hà sa số chư Phật trong các 
                cõi, mà sự thiền định không bị gián đoạn. Nếu không được như 
                vậy, tôi quyết chẳng thành Phật. 
 
                - 
                43.- Tôi thành Phật 
                rồi, nguyện cho chư Thiên và người trong vô số cõi Phật, hễ nghe 
                danh hiệu tôi, thì đắc phước đức, mỗi khi lâm chung thì sanh ra 
                nơi những gia đình tôn quí; như vậy mãi cho đến khi thành Phật. 
                Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng thành Phật. 
 
                - 
                44.- Tôi thành Phật 
                rồi, nguyện cho chư Bồ Tát trong vô số cõi Phật, nghe danh hiệu 
                tôi, thì công đức được gia tăng thêm mãi cho đến đắc quả Bồ đề 
                trọn vẹn, trong khi tu hạnh Bồ Tát, các ngài ấy bao giờ cũng vui 
                sướng, an lạc luôn. Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng 
                thành Phật. 
 
                - 
                45.- Tôi thành Phật 
                rồi, nguyện cho chư Bồ Tát trong vô số cõi Phật, hễ nghe danh 
                hiệu tôi, thì đắc phép thiền Phổ Đẳng Tam Muội (Samantamugata); 
                đắc phép thiền nầy, các ngài ấy có thể đến viếng thăm và cúng 
                dường từng đức Phật trong vô số đức Phật mười phương, như vậy 
                mãi cho đến khi thành Phật, mà không bào giờ sự thiền định của 
                các ngài bị gián đoạn. Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng 
                thành Phật. 
 
                - 
                46.- Tôi thành Phật 
                rồi, nguyện cho chư Bồ Tát trong nước tôi, hễ muốn nghe Pháp 
                chi, thì liền được nghe Pháp  ấy. Nếu không được như vậy, tôi 
                quyết chẳng thành Phật. 
 
                - 
                47.- Tôi thành Phật 
                rồi, nguyện cho chư Bồ Tát trong nước tôi và vô số cõi Phật, hễ 
                nghe danh hiệu tôi, thì trở nên bất thối chuyển đối với quả Phật 
                Thế Tôn. Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng thành Phật.
                
 
                - 
                48.- Tôi thành Phật 
                rồi, nguyện cho chư Bồ Tát trong vô số cõi Phật, hễ nghe danh 
                hiệu tôi, thì đắc được phép ba lần nhẫn, các ngài ấy không xao 
                lãng đói với Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng. Nếu không được như vậy, 
                tôi quyết chẳng thành Phật. 
 
                - 
                Hòa Thượng Trí Thủ 
                tóm tắc cõi cực lạc như sau, tối thiểu phải có những điều kiện 
                về nhân dân và thổ địa : 
 
                - 
                a) Về nhân dân ( 
                chúng sanh thế gian ) :
                
 
                - 
                1) An lạc vô bệnh.
                
 
                - 
                2) Thọ mạnh lâu dài
                
 
                - 
                3) Thân tướng đẹp đẻ.
                
 
                - 
                4) Không có sự bất 
                bình đẳng về giàu nghèo, sang hèn. 
 
                - 
                5) Tâm tánh nhu hòa, 
                đạo đức cao thượng. 
 
                - 
                6) Đạo tâm kiên cố.
                
 
                - 
                7) Mọi người đều do 
                hóa sanh mà có, không do thai sanh là kết quả của dâm dục, ô 
                trược. 
 
                - 
                8) Không có sự sai 
                khác về nhỏ lớn già trẻ, mạnh yếu. 
 
                - 
                9) Không nhơ bẩn, ô 
                uế. 
 
                - 
                10) Tâm trí phóng 
                khoáng, thông đạt. 
 
                - 
                11) Hết luân hồi 
                trong lục đạo. 
 
                - 
                12) Đủ sáu món thần 
                thông. 
 
                - 
                13) Đầy đủ huệ nhãn, 
                chánh kiến, 
 
                - 
                b) Về thổ địa ( khí 
                thế gian ) :
                
 
                - 
                1) Đất đai bằng 
                phẳng, đầy châu ngọc trong suốt, không có khe hố, núi gò lởm 
                chởm và ao rãnh sông ngòi hủng hê. 
 
                - 
                2) Không có các nạn 
                thiên tai như lụt bão, sắm sét, đại hạn, địa chấn, gây ra mất 
                mùa, đói rét. 
 
                - 
                3) Bầu trời luôn luôn 
                quang đãng, không cần ánh sáng mặt trời, mặt trăng hay đèn nến.
                
 
                - 
                4) Tất cả vật dụng 
                luôn luôn mới mẻ, không vở, không hư, không mục nát, không cũ 
                nhớp. 
 
                - 
                5) Phong cảnh xinh 
                tươi, cây hoa đẹp đẽ, lầu gác mỹ lệ, không cần nhọc công kiến 
                trúc trang hoàng mà tự nhiên hiện thành. 
 
                - 
                6) Khí trời luôn luôn 
                mát mẻ. 
 
                - 
                7) Âm nhạc nhiệm mầu 
                tự nhiên hay ngưng dứt tùy theo sở thích người nghe. 
                
 
                - 
                8) Không có động vật 
                nào khác, ngoài loài người, trừ sự biến hóa của Phật. 
                
 
                - 
                9) Hồ nước trong, 
                thơm ngọt ngào, cạn sâu ấm mát tùy từng sở thích. 
 
                - 
                10) Cảnh vật tiếp xúc 
                gây được khoái cảm nhẹ nhàng mà không làm chao động đạo niệm.
                
 
                - 
                11) Bảy báu và vật 
                dụng tự nhiên thành tựu để cung ứng đầy đủ mà không cần đến sức 
                người. 
 
                - 
                12) Không có các sự 
                trần lao phiền não. 
 
                - 
                13) Không có nạn nhân 
                mãn, mặc dù dân số vãng sanh mỗi ngày mỗi tăng. 
 
                - 
                14) Nhân dân sống 
                trong thái bình an lạc. 
 
                - 
                Chúng ta ai cũng biết 
                rằng cõi Cực Lạc do đức Phật A Di Đà làm giáo chủ,
 
                - 
                A Di Đà gồm có hai 
                nghĩa chánh nằm trong đoạn kinh A Di Đà sau đây : 
 
                - 
                Ông Xá Lợi Phất !  
                Đức Phật A Di Đà Kia có vô lượng ánh sáng, soi khắp cõi nước 
                mười phương mà không bị chướng ngại gì cả, vì vậy có tên hiệu là 
                A Di Đà. Lại nữa, ông Xá Lợi Phất ! Thọ mệnh của đức Phật A Di 
                Đà kia, cùng thọ mệnh của nhân dân nơi cõi ngài dài vô lượng vô 
                biên vô số kiếp, nên gọi là A Di Đà. 
 
                - 
                Thường chúng ta xưng 
                tụng danh hiệu ngài như sau : Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ 
                Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật hay A Di Đà Phật, thật ra 
                ngài có đến 13 anh hiệu tôn xưng sau đây: 
 
                - 
                1.- Vô Lượng Thọ Phật 
                : Đời sống của Phật dài lâu vô lượng. 
 
                - 
                2.- Vô Lượng Quang 
                Phật : Hào quang trí huệ Phật  nhiều không thể lường.
 
                - 
                3.- Vô Biên Quang 
                Phật : Hào quang Phật chiếu sáng không biết đến đâu là cùng.
                
 
                - 
                4.- Vô Ngại Quang 
                Phật : Hào quang Phật chiếu khắp mọi nơi, không bị chướng ngại 
                nào ngăn cản. 
 
                - 
                5.- Vô Đối Quang Phật 
                : Không có hào quang Phật nào đối chiếu sánh bằng. 
 
                - 
                6.- Viêm Vương Quang 
                Phật : Hào quang Phật túa sáng hơn hết. 
 
                - 
                7.- Thanh Tịnh Quang 
                Phật : Hào quang Phật chiếu ra rất thanh tịnh. 
 
                - 
                8.- Hoan Hỷ Quang 
                Phật : Hào quang Phật chiếu ra làm cho người nhận được sẽ rất 
                hoan hỷ. 
 
                - 
                9.- Trí Huệ Quang 
                Phật : Hào quang của Phật chiếu sáng tới đâu quét sạch vô minh, 
                tăng trưởng trí huệ. 
 
                - 
                10.- Bất Đoạn Quang 
                Phật : Hào quang của Phật chẳng hề bị đứt đoạn. 
 
                - 
                11.- Nan Tư Quang 
                Phật : Hào Quang của Phật không ai có thể suy xét cho cùng tận, 
                trừ có chư Phật. 
 
                - 
                12.- Vô Xưng Quang 
                Phật : Hào Quang của Phật không có lời nào xưng tụng cho đầy đủ.
                
 
                - 
                13.- Siêu Nhật Nguyệt 
                Quang Phật : Hào quang của Phật sáng hơn sức sáng của mặt trời, 
                mặt trăng. 
 
                - 
                Ở cõi Ta Bà nầy có 6 
                đường là : Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc Sanh, Người, A tu la và Trời 
                và bốn bậc thánh là Thanh Văn, Bồ Tát, Duyên Giác và Phật lập 
                thành mười pháp giới. Còn ở cõi Cực Lạc có ba bậc : Thượng, 
                Trung, Hạ; mỗi bậc lại có ba phẩm, cộng chung thành chín phẩm, 
                mọi người được sinh về cảnh giới nào cũng vậy, khi hoa sen ở 
                cảnh giới ấy nở ra thì người đó sanh ra, tiếp tục tu thì tiến 
                hóa lên, nếu không tinh tấn niệm Phật thì sẽ bị giáng xuống cõi 
                thấp hơn. 
 
                - 
                Theo Kinh Quán Vô 
                Lượng Thọ, những điều kiện tu hành để được về các phẩm ấy được 
                đức Thế Tôn dạy từ pháp quán thứ 14 đến 16 như sau : 
                
 
                - 
                14) Quán Sanh Về 
                Thượng Phẩm : 
 
                - 
                Đức Phật bảo A Nan và 
                Vi Đề Hy: ?? Thượng phẩm Thượng Sanh là thế nào? Nếu chúng sanh 
                muốn sanh về cõi kia, nên phát ba thứ tâm, là tâm chí thành, tâm 
                sâu thiết, tâm hồi hướng phát nguyện, tất sẽ được vãng sanh. Lại 
                có ba hạng hữu hình được sanh về Cực Lạc : Một là hạng có lòng 
                xót thương, không giết hại, giữ tròn các giới hạnh. Hai là hạng 
                đọc tụng kinh điển Phương Đẳng Đại Thừa. Ba là hạng tu hành lục 
                niệm, hồi hướng phát nguyện sanh về An Dưỡng. Nếu đủ các công 
                đức như thế, từ một ngày cho đến bảy ngày, liền được vãng sanh.
                
 
                - 
                Do kẻ ấy tinh tấn 
                dõng mãnh, nên lúc vãng sanh Phật A Di Đà cùng hai Bồ Tát Quán 
                Thế Âm, Đại Thế Chí, vô số hóa Phật, trăm ngàn Thanh Văn Tỳ Kheo 
                đại chúng, vô lượng chư Thiên và cung điện thất bảo đều hiện 
                đến. Khi ấy Quán Thế Âm Bồ Tát bưng đài Kim Cang, cùng Đại Thế 
                Chí Bồ Tát tới trước hành giả. Phật A Di Đà phóng đại quang minh 
                chiếu đến thân người vãng sanh, rồi cùng chư Bồ Tát đồng đ? tiếp 
                dẫn. Hai vị đại thánh Quán Thế Âm, Đại Thế Chí lại cùng vô số Bồ 
                Tát đồng thanh khen ngợi, khuyến tấn. Hành giả mục kích cảnh ấy 
                rồi, sanh tâm vui mừng khấp khởi, tự thấy mình ngồi trên đài kim 
                cang, theo sau Phật và Thánh chúng, trong khoảng khảy ngón tay, 
                sanh về Cực Lạc. 
 
                - 
                Khi đã sanh về cõi 
                kia, lại thấy kim thân của Phật đầy đủ các tướng, chư Bồ tát sắc 
                tướng cũng cụ túc trang nghiêm; các ánh sáng và rừng báu đều 
                diễn thuyết pháp mầu. Hành giả nghe xong liền, liền ngộ vô sanh 
                pháp nhẫn, trong giây phút thừa sự chư Phật khắp mười phương, 
                được thọ ký trước chư Phật, rồi trở về bản quốc, chứng vô lượng 
                trăm ngàn môn Đà La Ni. Đây gọi là Thượng phẩm Thượng Sanh.
                
 
                - 
                Thượng Phẩm Trung 
                Sanh là thế nào ? Có chúng sanh tuy không thọ trì kinh Phương 
                Đẳng, nhưng khéo hiểu nghĩa thú, đối với đệ nhất nghĩa, tâm 
                không kinh động, tin sâu ly nhân quả, không phỉ báng pháp Đại 
                thừa. Nếu hành giả đem công đức niệm Phật hồi hướng, cầu sanh 
                Cực Lạc, thì khi lâm chung Tây Phương tam thánh cùng vô lượng 
                đại chúng quyến thuộc bưng đài tử kim, hiện đến trước mặt khen 
                rằng : ?? Pháp tử ! Ngươi tu Đại Thừa, hiểu Đệ nhất nghĩa, nên 
                nay ta đến tiếp nghinh ??. Liền đó, đức Vô Lượng Thọ Thế tôn 
                cùng với một ngàn hóa Phật đồng thời đưa tay xuống tiếp dẫn. Bãy 
                giờ hành giả tự thấy mình ngồi trên đài tử kim, chấp tay khen 
                ngợi chư Phật, rồi trong khoảnh một niệm liền sanh về nơi ao 
                thất bảo ở cõi Cực Lạc. 
 
                - 
                Đài tử kim ấy như hoa 
                báu lớn, trải một đêm liền nở, bấy giờ hành giả thân sắc tử kim, 
                dưới chơn lại có hoa sen thất bảo, được Phật và Bồ Tát đồng thời 
                phóng quang soi đến mình, mắt liền mở sáng. Do tu tập trước kia, 
                lúc đó tự nghe các âm thanh khắp nơi đều nói thuần pháp Đệ nhất 
                nghĩa đế rất thâm mầu. Nghe xong liền bước xuống kim đài lễ Phật 
                và chấp tay ca ngợi đức Thế Tôn. Trải qua bảy ngày liền được 
                không thối chuyển nơi quả A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, có thể 
                tự tại bay đi khắp mười phương thừa sự chư Phật, tu các môn tam 
                muội. Như thế qua một tiểu kiếp, được chứng vô sanh nhẫn và mong 
                chư Phật thọ ký. Đây là cảnh Thượng phẩm Trung sanh. 
                
 
                - 
                Thượng phẩm Hạ sanh 
                là thế nào ? Có chúng sanh tuy cũng tin nhân quả, không báng Đại 
                thừa, nhưng chỉ phát tâm cầu đạo vô thượng, rồi đem công đức ấy 
                niệm Phật nguyện về Cực Lạc. Hành giả ấy khi lâm chung được Phật 
                A Di Đà, Quán Thế Âm, Đại Thế chí cùng chư Bồ Tát cầm hoa sen 
                vàng, hóa hiện năm trăm vị Phật đến nghinh tiếp. Lúc đó năm trăm 
                hóa Phật đồng thời đưa tay xuống và khen rằng: ?? Pháp tử ! 
                Ngươi nay thanh tịnh, phát vô thượng đạo tâm, nên ta đến rước 
                ngươi ??. 
 
                - 
                Khi hành giả mục kích 
                cảnh ấy rồi, liền thấy mình ngồi nơi hoa sen vàng, ngồi xong 
                cánh hoa khép lại, theo sau đức Thế tôn sanh về ao thất bảo. Như 
                thế trải qua một ngày đêm, hoa sen nở ra, bảy hôm sau mói được 
                thấy Phật. Nhưng tuy thấy Phật, đói với các tướng hảo tâm còn 
                chưa rõ ràng, đợi qua hai mươi mốt ngày, mới nhận được minh 
                bạch. Bãy giờ người vãng sanh nghe các âm thanh đều diễn pháp 
                mầu, bay dạo mười phương cúng dường chư Phật, và được nghe pháp 
                thậm thâm trước các đức Thế tôn. Trải qua ba tiểu kiếp như thế, 
                được bách pháp minh môn, trụ Sơ hoan hỷ địa. Đây là cảnh Thượng 
                Phẩm Hạ sanh. 
 
                - 
                Trên đây là môn tưởng 
                Thượng bối vãng sanh, thuộc về phép quán thứ mười bốn. 
                
 
                - 
                15.- Quán Sanh Về 
                Trung Phẩm 
 
                - 
                Đức Phật bảo A nan và 
                Vi Đề Hy: ?? Trung phẩm Thượng sanh là thế nào ? Nếu chúng sanh 
                thọ trì ngũ giới, giữ Bát quan trai hoặc tu các giới khác, không 
                tạo tội ngũ nghịch và các điều lỗi lầm, rồi đem căn lành ấy hồi 
                hướng cầu sanh về thế giới Cực Lạc ở phương Tây. Chúng sanh đó 
                khi lâm chung, được Phật A Di Đà cùng các Tỳ Kheo quyến thuộc vi 
                nhiễu, phóng kim quang soi đến mình, diễn thuyết các pháp khổ, 
                không, vô thường, vô ngã, cùng khen ngợi hạnh xuất gia thoát 
                khổ. Mục kích cảnh ấy, hành giả sanh tâm vui mừng, tự thấy mình 
                ngồi trên đài sen, vội quì gối chấp tay cuối xuống lễ Phật. Lúc 
                chưa ngước mặt lên, đã sanh về thế giới Cực Lạc. 
 
                - 
                Sau khi vãng sanh, 
                vừa lúc hoa sen nở ra, hành giả nghe các âm thanh khen ngợi pháp 
                Tứ đế, liền chứng quả A La Hán, đầy đủ tam minh, lục thông và 
                bát giải thoát. Đây là cảnh Trung phẩm Thượng sanh. 
 
                - 
                Trung phẩm Trung sanh 
                là thế nào ? Nếu chúng sanh giữ chính chắn Bát quan trai hoặc 
                giới Sa di hay giới Cụ túc trong một ngày đêm, các oai nghi đều 
                toàn vẹn, đem công đức huân tu giới hương đó hồi hướng cầu sanh 
                Cực Lạc. Khi lâm chung hành giả nầy thấy Phật A Di Đà cùng quyến 
                thuộc cầm hoa sen thất bảo phóng kim quang hiện đến trước mặt 
                mình. Bãy giờ đương nhơn nghe giữa hư không có tiếng khen rằng: 
                ?? Lành thay thiện nhơn ! Ngươi đã biết thuận theo lời dạy của 
                chư Phật ba đời mà tu tập, nên nay ta đến rước ngươi, Khi đó 
                hành giả thấy mình ngồi nơi hoa sen, cánh hoa khép lại, liền 
                được sanh về bảo trì ở cõi Cực Lạc. 
 
                - 
                Qua bảy ngày hoa sen 
                nở, hành giả chấp tay ca ngợi Phật, được nghe pháp vi diệu, sanh 
                tâm hoan hỷ, liền chứng quả Tu Đà Hoàn, và nửa kiếp sau mới 
                chứng quả A La Hán. Đây là cảnh Trung phẩm Trung sanh. 
                
 
                - 
                Trung phẩm Hạ sanh là 
                thế nào? Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn hiếu dưỡng cha mẹ, tu 
                hạnh nhân từ theo thế gian, khi lâm chung gặp thiện tri thức 
                giảng cho nghe về sự vui nơi cõi Phật A Di Đà và bốn mươi tám 
                nguyện của Pháp Tạng Tỳ kheo. Kẻ ấy nghe xong hoan hỷ niệm Phật 
                mà qua đời, thần thức liền được sanh ngay về cõi Cực Lạc thế 
                giới, lẹ như khoảng co duỗi cánh tay của người tráng sĩ. 
                
 
                - 
                Qua bảy ngày sau hành 
                giả được gặp Bồ Tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí, nghe pháp nhiệm 
                mầu, sanh tâm vui đẹp, được quả Tu Đà Hoàn, sau một tiểu kiếp 
                mới chứng quả A La Hán. Đây là cảnh Trung phẩm Hạ sanh ??.
                
 
                - 
                Môn tưởng nầy gọi là 
                Trung Bối Vãng Sanh, thuộc về phép quán thứ mười lăm. 
                
 
                - 
                16.- Quán Sanh Về Hạ 
                Phẩm 
 
                - 
                Đức Phật bảo A Nan và 
                Vi Đề Hy: ?? Hạ phẩm Thượng sanh là thế nào? Hoặc có chúng sanh 
                ngu tối, Tuy không hủy báng kinh điển Phương Đẳng, nhưng tạo 
                nhiều nghiệp ác không biết hổ thẹn, kẻ ấy khi lâm chung gặp 
                thiện tri thức nói cho nghe danh đề của mười hai loại kinh Đại 
                thừa, liền được trừ diệt nghiệp ác rất nặng trong một ngàn kiếp. 
                Bậc tri thức lại bảo phải chấp tay niệm ?? Nam Mô A Di Đà Phật 
                ??; do đương nhơn thành tâm xưng danh hiệu Phật nên tiêu trừ tội 
                trong năm mươi ức kiếp sanh tử. Ngay lúc ấy, đức Vô Lượng Thọ 
                Như Lai cảm biết, liền sai hóa Phật, hóa Quán Âm và hóa Thế Chí 
                hiện đến trước hành giả khen rằng: ?? Lành thay thiện nhơn ! 
                Ngươi đã xưng danh hiệu Phật, nên các tội tiêu diệt, ta đến đây 
                để rước ngươi ??. 
 
                - 
                Bãy giờ hành giả thấy 
                ánh sáng của hóa Phật đầy khắp nhà mình, trong lòng vui nừng, 
                liền xả thọ, ngồi trên hoa sen báu theo hóa Phật sanh về ao thất 
                bảo. Sau khi vãng sanh trải qua bốn mươi chín ngày hoa sen mới 
                nở. Vừa lúc hoa nở, Đại bi Quán Thế Âm và Bồ Tát Đại Thế Chí 
                phóng ánh sáng lớn, trụ rtước người ấy, giảng thuyết cho nghe 
                nghĩa lý thâm diệu của mười hai loại kinh ( * ). Đương nhơn nghe 
                rồi tin hiểu, phát tâm vô thượng bồ đề, trải qua mười hai tiểu 
                kiếp, thành tựu bách pháp minh môn, được vào Sơ địa. Đây là cảnh 
                Hạ phẩm Thượng sanh. 
 
                - 
                Hạ phẩm Trung sanh là 
                thế nào? Hoặc có chúng snh ngu tối hủy phạm ngũ giới, bát giới, 
                giới cụ túc, trộm của Tăng kỳ và vật hiện tiền tăng, bất tịnh 
                thuyết pháp, lòng không hổ thẹn, dùng các nghiệp ác để tự trang 
                nghiêm. Kẻ tạo tội chướng như thế, tất phải đọa vào địa ngục, 
                nên lúc lâm chung, các tướng lửa của Địa ngục đồng thời hiện ra. 
                Nhưng người nầy may mắn được gặp thiện tri thức giảng nói cho 
                nghe về oai đức thập lực, sức thần thông quang minh của Phật A 
                Di Đà, cùng những pháp : Giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát 
                tri kiến. Đương đơn nghe xong, sanh lòng tín trọng, nên trừ diệt 
                tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử, lửa dữ Địa ngục hóa thành 
                gió mát thổi các hoa trời, trên hoa có hóa Phật và hóa Bồ Tát 
                hiện thân tiếp dẫn, trong khoảng một niệm liền được sanh về hoa 
                sen nơi ao thất bảo. 
 
                - 
                Sau khi vãng sanh 
                trải qua sáu kiếp hoa sen mới nở. Vụa lúc hoa nở, Bồ Tát Quán 
                Thế Âm, Đại Thế Chí hiện đến,dùng tiếng Phạm âm an ủi và vì mà 
                giảng thuyết pháp thậm thâm của Đại Thừa. Hành giả nghe xong, 
                liền phát đạo tâm vô thượng. Đây là cảnh Hạ phẩm Trung sanh.
                
 
                - 
                Hạ phẩm Hạ sanh là 
                thế nào? Hoặc có chúng sanh tạo tội ngũ nghịch thập ác, làm đủ 
                các việc chẳng lành; kẻ ngu ấy do nghiệp ác đáng lẽ phải bị đọa 
                vào ác đạo, trải qua nhiều kiếp, chịu khổ vô cùng. Nhưng khi lâm 
                chung, người nầy nhờ gặp thiện tri thức dùng nhiều cách an ủi, 
                nói pháp mầu cho nghe, lại dạy bảo tưởng niệm Phật. Đương nhơn 
                tuy nghe lời dạy, song vì sự khổ bức bách, không yên rảnh để 
                quán tưởng đức Vô Lượng Thọ Như Lai. Thấy thế, thiện hữu lại 
                bảo: ?? Nếu ông không thể tưởng đức Phật kia, thì nên chí thành 
                xưng ?? Nam Mô A Di Đà Phật?? tiếng tăm liên tiếp không dứt cho 
                đủ mười niệm ??. Hành giả vâng lời. Và do nhờ xưng danh hiệu 
                Phật, nên mỗi niệm trừ được tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử. 
                Khi mạng chung, người ấy thấy hoa sen vàng rực rỡ như vầng nhật 
                hiện ra trước mặt. Trong khoảng một niệm, liền được vãng sanh về 
                thế giới Cực Lạc. 
 
                - 
                Như thế mãn mười hai 
                Đại kiếp hoa sen mới nở. Khi hoa nở, hai vị đại sĩ Quán Thế Âm. 
                Đại Thế Chí dùng tiếng đại bi vì hành giả nói rộng về thật tướng 
                của các pháp và cách trừ diệt tội chướng. Đương nhơn nghe rồi 
                thân tâm vui đẹp, liền phát lòng vô thượng bồ đề. Đây là cảnh Hạ 
                phẩm Hạ sanh. 
 
                - 
                Môn tưởng trên gọi là 
                Hạ Bối Vãng Sanh. 
 
                - 
                Đó là chín phẩm của 
                cõi Cực Lạc. 
 
                - 
                C.- Theo lời Phật 
                dạy, hành pháp môn Niệm Phật như thế nào cho được thành tựu :
                
 
                - 
                Thông thường chúng ta 
                hiểu nghĩa Lục Tự Di Đà hay Niệm Phật cầu Vãng sanh là : Nam Mô 
                A Di Đà Phật có nghĩa như sau : 
 
                - 
                Nam mô : Có 6 nghĩa : 
                kính lễ, quy y, phụng thờ, cứu ngã, độ ngã, quy mạng. 
                
 
                - 
                A : Có nghĩa là Vô, 
                Không 
 
                - 
                Di Đà : Nghĩa là 
                lượng 
 
                - 
                Phật : Người giác 
                ngộ. 
 
                - 
                Vậy Nam mô A Di Đà 
                Phật là : Kính lễ đấng giác ngộ vô lượng, cũng có nghĩa là : Con 
                quay về nương tựa vào đấng giác ngộ vô lượng. 
 
                - 
                Muốn thành tựu bất cứ 
                pháp môn nào, người tu tập trước nhất phải có : Tín, Hạnh, 
                Nguyện. Nghĩa là chúng ta dứt trừ các mối nghi, tin rằng : Pháp 
                môn niệm Phật thù thắng do chính kim ngôn của đức Thế Tôn, muốn 
                thành tựu chúng ta phải hành rốt ráo và luôn luôn có chí nguyện 
                bền vững cầu vãng sanh về cõi Cực Lạc. 
 
                - 
                Trừ pháp Thập Lục 
                Quán, pháp môn Niệm Phật có rất nhiều chủng loại, đại thể chúng 
                ta có thể chia thành : 
 
                - 
                Sổ tức niệm Phật
                
 
                - 
                Sổ châu niệm Phật
                
 
                - 
                Trì danh niệm Phật .
                
 
                - 
                1.- Sổ tức niệm Phật 
                : Ngồi bán già hay kiết già, xong niệm chú Tịnh pháp giới chơn 
                ngôn : 
 
                - 
                Án lam xóa ha ( 3 lần 
                ) 
 
                - 
                Tịnh Tam Nghiệp Chân 
                Ngôn: 
 
                - 
                Án, ta phạ bà phạ, 
                truật đà ta phạ, đạt ma ta phạ, bà phạ truật độ hám ( 3lần).
                
 
                - 
                Kế đọc bài kệ :
                
 
                - 
                Chánh thân đoan tọa,
                
 
                - 
                Đương nguyện chúng 
                sanh. 
 
                - 
                Tọa Bồ Đề tòa, 
                
 
                - 
                Tâm vô sở trước
                
 
                - 
                Nam Mô Tây Phương Cực 
                Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật. 
                
 
                - 
                Nam Mô A Di Đà Phật . 
                . . 
 
                - 
                Theo đó cứ tiếp tục 
                niệm Lục Tự Di Đà, hơi thở vào ra giữ cho đều hòa, một hơi thở 
                không nhất thiết là một câu niệm Phật, cần nhất là chú tâm theo 
                dõi từng tiếng thầm niệm của mình, đừng để cho tâm duyên theo 
                các giác quan và ngoại giới. 
 
                - 
                Khi mới bắt đầu với 
                năm hay mười phút rồi mỗi tuần tăng thêm vài phút, tạo thành một 
                thói quen dần cho thể xác và sự chú tâm, giữ cho được thoải mái, 
                đừng gò bó cả thân lẫn tâm. 
 
                - 
                Trước khi chấm dứt 
                niệm Phật, chúng ta chí thành cầu nguyện : 
 
                - 
                Con nguyện đem công 
                đức niệm Phật nầy hồi hướng cho tất cả người thân kể oán, khi 
                hết báo thân nầy cũng như cửu huyền thất tổ đều được vãng sanh 
                về cõi Tịnh độ.  
 
                - 
                2.- Sổ châu niệm Phật 
                : Là cách niệm lần chuổi, có thể ngồi kiết già, bán già trong 
                khi công phu ngoài ra còn có thể niệm khi đi đứng nằm ngồi, 
                trong thời công phu chúng ta nên theo cách thức sau đây : 
                
 
                - 
                Tịnh pháp giới chân 
                ngôn : 
 
                - 
                Án lam xóa ha ( 3 lần 
                ) 
 
                - 
                Tịnh Tam Nghiệp chân 
                ngôn : 
 
                - 
                Án, ta phạ bà phạ, 
                truật đà ta phạ, đạt ma ta phạ, bà phạ truật độ hám (3 lần)
                
 
                - 
                Kế đọc bài kệ ( chuổi 
                108 hạt ) 
 
                - 
                Bồ Đề nhứt bá bát,
                
 
                - 
                Diệt tội đẳng hằng 
                sa. 
 
                - 
                Viễn ly tam đồ khổ,
                
 
                - 
                Xuất sắc biến liên 
                hoa. 
 
                - 
                Ái hà thiên xích 
                lãng, 
 
                - 
                Khổ hải vạn trùng ba.
                
 
                - 
                Dục thoát luân hồi 
                khổ,  
 
                - 
                Cấp tảo niệm Di Đà.
                
 
                - 
                Nam Mô Tây Phương Cực 
                Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật.
 
                - 
                Nam mô A Di Đà Phật . 
                . . 
 
                - 
                Còn lần chuổi 18 hạt 
                thì đọc bài như sau : 
 
                - 
                Diệu quả Bồ Đề ly 
                chưởng chưởng, 
 
                - 
                Thủ khai cương tỏa 
                diệu trùng trùng. 
 
                - 
                Thập bát chuyển luân 
                La Hán tướng, 
 
                - 
                Thiện tăng giáng 
                phước, huệ vô cùng .. . 
 
                - 
                Nam Mô Tây Phương Cực 
                Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật.
 
                - 
                Nam mô A Di Đà Phật . 
                . . 
 
                - 
                Cách lần chuổi, cứ 
                một câu niệm Phật, lần một hạt chuổi, khi chuổi lần giáp vòng, 
                lần trở ngược lại, không lần vượt qua đầu mối xâu chuổi, nơi ấy 
                tượng trưng cho Tam Bảo, phương pháp lần chuổi hạt tâm ta cũng 
                vẫn chuyên chú vào từng tiếng niệm danh hiệu, và một phần nữa 
                chú tâm vào việc lần hạt để không cho tạp niệm chen vào. 
                
 
                - 
                Mỗi lần trước khi 
                chấm dứt Niệm Phật, chúng ta cần phải chí thành cầu nguyện:
                
 
                - 
                Con nguyện đem công 
                đức niệm Phật nầy hồi hướng cho tất cả người thân kể oán, khi 
                hết báo thân nầy cũng như cửu huyền thất tổ đều được vãng sanh 
                về cõi Tịnh độ. 
 
                - 
                3.- Chuyên niệm niệm 
                Phật : Phương pháp nầy không cần dùng chuổi, bất cứ lúc nào ta 
                cũng niệm Phật, niệm có tiếng, có thể ngân nga như điệu hát, có 
                thể niệm thầm, niệm khi đi, đứng, nằm, ngồi, lúc làm việc, bất 
                kỳ lúc nào nhớ ra thì niệm Phật, thời gian đầu dễ bị duyên theo 
                ngoại cảnh, vọng niệm chen vào lúc niệm Phật, lúc không nhưng hễ 
                nhớ tới thì liền niệm Phật, dần dần sẽ niệm Phật nhiều hơn. Cho 
                đến một lúc nào đó, ta nhớ ra thì thấy tự mình đã có niệm liên 
                tục, dường như không ngừng nghĩ đó là : Niệm Hay Không Niệm Vẫn 
                Là Niệm, nhưng chúng ta phải ghi nhớ rằng khi mình nhớ tới niệm 
                Phật, tự dưng thấy ta tự động đang niệm Phật, chúng ta phải chú 
                tâm vào niệm tiếp tục, có như vậy mới đạt được Vô Biệt Niệm.
                
 
                - 
                Vào những giờ nhất 
                định nào đó, chúng ta ngưng niệm Phật để cầu nguyện : 
                
 
                - 
                Con nguyện đem công 
                đức niệm Phật nầy hồi hướng cho tất cả người thân kể oán, khi 
                hết báo thân nầy cũng như cửu huyền thất tổ đều được vãng sanh 
                về cõi Tịnh độ. 
 
                - 
                Sau khi cầu nguyện 
                xong, tiếp tục niệm Phật. 
 
                - 
                Sự chuyên trì niệm 
                Phật : Một là tâm tịnh thì trí huệ sanh, hai là nhứt tâm niệm 
                Phật thì Phật và chư Bồ Tát mới tiếp độ khi lâm chung và quan 
                trọng nhất là niệm Phật để giữ cho tâm chẳng tán loạn khi lâm 
                chung mới có thể vãng sanh về cõi Cực Lạc. Niệm Phật cầu vãng 
                sanh như đã nói phải có Tín , Hạnh, Nguyện. Hạnh ấy cần phải giữ 
                giới nhất là hành thập thiện nhờ đó ba nghiệp thanh tịnh, sự 
                tinh tấn hành trì, sẽ trợ duyên cho đạo quả thành tựu cao hơn, ở 
                trong chín phẩm nơi cõi Cực Lạc. 
 
                - 
                Ai cũng có thể hành 
                trì pháp môn niệm Phật, không bị giới hạn trong hoàn cảnh nào, 
                cho nên Niệm Phật là pháp môn thù thắng cho mọi người con Phật.
                
 
                - 
                ( * ) Mười hai loại 
                kinh là : 1) Khế kinh. 2) Trùng tụng. 3) Thọ ký. 4) Phúng tụng. 
                5) Cô khởi. 6) Nhân duyên. 7) Thí dụ. 8) Bản sanh. 9) Bản sự. 
                10) Phương quảng. 11) Vị tằng hữu và 12) Luận nghị. 
 
                - 
                Sách tham khảo :
                
 
                - 
                Liên Du Kinh Quán Vô 
                Lượng Thọ Quan Âm Tu Viện Biên Hòa ấn tống, Biên Hòa, 1988.
                
 
                - 
                HT. Thích Trí Thủ 
                Pháp Môn Tịnh Độ THPGTPHCM, Việt 
                Nam, 
                1996. 
 
                - 
                PT  Khóa Lễ Cầu Siêu, 
                Nhóm Phật Tử Louisville, Kentucky, 1993. 
 
                - 
                HT Thích Thanh Kiểm 
                Lược sử Phật Giáo Trung Quốc, Vạn Hạnh tái bản, Sàigòn, 1965.
                
 
                - 
                Đoàn Trung Còn Các 
                Tông Phái Đạo Phật  nhà xuất bản Thuận Hóa, Việt Nam, 1995.
                
 
                - 
                HT Thích Thanh Cát 
                Những Bài Học Vô Giá Chùa Giác Minh, California, USA 1998.
                
 
               
              
              
                - --o0o--
 
               
              
              
             
             | 
   
           
               
       
       |