| 
           
      
  
           
                
            
              
              
                - Thư Viện Chùa Dược Sư
 
                - PHẬT HỌC CƠ BẢN
 
                  
               
              
              
                
                   
                  - 
                  
                  Đạo Phật Và Khoa Học
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  Trịnh Nguyên Phước
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  --o0o--
 
                  
                
                - 
                 
 
                - 
                Đặt vấn 
                đề  
 
                - 
                Chúng 
                ta đang sống ở một khúc quanh quan trọng của lịch sử loài người, 
                với những đổi thay vô cùng nhanh chóng, với những vấn đề phức 
                tạp, đầy hiểm nguy nhưng cũng đầy hào hứng. Giải quyết được 
                những vấn đề này hay không tùy thuộc vào ý thức và khả năng 
                thích ứng của mỗi người, của mỗi xã hội.  
 
                - 
                Nhìn 
                lại những vấn đề trùng điệp của thời đại, chúng ta khó thể nào 
                tránh khỏi bi quan: nào nạn nhân mãn với hậu quả nghèo đói, nào 
                khoảng cách mỗi ngày một sâu rộng giữa những nước giầu và nghèo, 
                nào sự ô nhiễm môi trường mỗi ngày một lan rộng trên địa cầu, 
                nào những chiến tranh và tàn sát chủng tộc, nào những vụ vi phạm 
                nhân quyền và đàn áp thiểu số, nào những vấn đề đô thị, bạo 
                động, ma túy, bệnh do siêu vi trùng HIV, nào những khủng hoảng 
                gây nên bởi thất nghiệp, ly tán gia đình, rối loạn thần kinh, và 
                còn bao nhiêu vấn đề khác nữa.  
 
                - 
                Điểm 
                đặc biệt là những thử thách gay go đó xuất hiện trong khi nhân 
                loại chưa bao giờ đạt được mức độ phát triển vật chất cao hơn 
                bây giờ. Nhờ những tiến bộ vượt bực của khoa học kỹ thuật, con 
                người đã lên được mặt trăng, thông tin liên lạc với tốc độ điện 
                tử, máy móc hóa cuộc sống một cách rộng rãi, ghép các bộ phận cơ 
                thể, thụ thai trong ống nghiệm, thay đổi di truyền,v.v. Nói tóm 
                lại, con người đã làm chủ được thiên nhiên trên hầu hết mọi lãnh 
                vực, tuy rằng chỉ có một thiểu số trên thế giới được hưởng những 
                thành quả đó.  
 
                - 
                Nhưng 
                có một lãnh vực mà con người vẫn chưa thông hiểu và làm chủ 
                được: đó là cái tâm của chính mình.  
 
                - 
                Tại các 
                nước tân tiến, dưới sức ép của xã hội tiêu thụ, con người không 
                ngừng đuổi theo tiện nghi vật chất, và chẳng mấy khi tìm được 
                hạnh phúc trong những tiện nghi đã trở thành trói buộc. Trong 
                khi đó, tại các nước chậm tiến, "cái khó bó cái khôn", ai ai 
                cũng chạy theo miếng cơm manh áo, không màng tới ý nghĩa sâu xa 
                của cuộc sống. Đâu đâu cũng có vấn đề tiền bạc, nhưng tiền bạc 
                không giải quyết được mọi vấn đề. Ở khắp nơi, tuổi trẻ mất tin 
                tưởng, lao động thiếu hăng say, tham nhũng lan tràn, gia đình 
                lỏng lẻo, đạo đức suy thoái. Con người cảm thấy bơ vơ và không 
                định hướng như hơn bao giờ hết. Có thể nói chính là một cuộc 
                khủng hoảng tinh thần, phát xuất từ sự mất thăng bằng giữa vật 
                chất và tinh thần, từ sự trống trải tinh thần đang lan rộng. 
                
 
                - 
                Quả 
                thật hiện nay có nhiều dấu hiệu cho ta thấy rõ có một khoảng 
                trống lớn về mặt tinh thần. Tại Tây phương, sau mười mấy thế kỷ 
                thống trị gần như độc tôn, Ki Tô giáo, đặc biệt Công giáo, đã 
                bắt đầu suy thoái một cách lần mòn, do sự thiếu thích nghi của 
                Tòa Thánh La Mã trước những biến đổi của cuộc sống. Và sau khi 
                lan tràn thế giới trong một phần lớn thế kỷ 20, chủ nghĩa Mác-Lê 
                đã xụp đổ một cách bất ngờ trong khoảng ngót chục năm trời. Chỉ 
                còn lại Hồi giáo với sự tăng trào của khuynh hướng quá khích, 
                đang trở thành một hiểm nguy lớn cho tất cả các phần tử ôn hòa. 
                Và Phật giáo, hiện đang còn bị gò bó trong một số nước Á châu, 
                và vẫn chưa triển khai được tiềm lực của mình.  
 
                - 
                Gần đây 
                có xuất hiện một số bài suy tư về thời đại, tác giả là những nhà 
                khoa học, xã hội học, văn hóa có tên tuổi. Hầu hết đều nhận định 
                rằng nhân loại đang sống một khúc quanh cực kỳ quan trọng, có 
                thể gọi là một cuộc khủng hoảng văn minh. Theo họ, những vấn đề 
                khúc mắc đặt ra cho thế giới không thể nào giải quyết được, nếu 
                con người còn tiếp tục đi theo chiều hướng hiện tại.  
                
 
                - 
                Trong 
                một cuộc phỏng vấn gần đây, đức Đạt Lai Lạt Ma có nói: "Tôi cảm 
                thấy một cách sâu đậm rằng chúng ta sẽ phải cùng nhau tìm ra một 
                giá trị tinh thần mới. Khái niệm mới đó, một giá trị tinh thần 
                thế tục (spiritualité laique), sẽ phải được xây dựng bên cạnh 
                các tôn giáo, để cho tất cả những người có thiện chí có thể tham 
                gia được. Chúng ta phải xúc tiến khái niệm mới đó cùng với các 
                nhà khoa học, cho một tương lai thế giới tốt đẹp hơn" (1). 
                
 
                - 
                Như 
                vậy, giá trị tinh thần đó phải là một giá trị tinh thần phổ 
                biến, thế tục và phù hợp với khoa học:  
 
                - 
                - Phổ 
                biến, vì chiều hướng chung của sự phát triển là vượt khỏi mọi 
                biên giới, không phải để đi tới sự đồng nhất, mà là sự hòa đồng 
                trong sự tôn trọng khác biệt.  
 
                - 
                - Thế 
                tục, vì "giá trị tinh thần" không bắt buộc phải là "tôn giáo", 
                và giá trị tinh thần muốn được phổ biến phải ở ngoài, hay ở bên 
                cạnh các tôn giáo.  
 
                - 
                - Phù 
                hợp với khoa học, bởi vì con người hiện đại không thể nào bỏ qua 
                được vai trò tất yếu của khoa học trong cuộc sống.  
 
                - 
                Trong 
                công cuộc xây dựng giá trị tinh thần này, đạo Phật có thể đóng 
                một vai trò không nhỏ. Bởi vì đó vừa là một truyền thống đạo lý 
                cổ xưa đã in sâu vào tâm hồn người châu Á, vừa là một con đường, 
                một lối sống đang được người Tây phương phát hiện và ưa chuộng. 
                Đạo Phật lại thêm một đặc điểm so với các tôn giáo khác: đó là 
                sự phù hợp với tinh thần khoa học. 
 
                - 
                I. Phần 
                lý thuyết: 
                Tương quan giữa đạo Phật và khoa học  
 
                - 
                Nếu có 
                một tôn giáo nào có thể gọi là phù hợp với khoa học thì chắc hẳn 
                là Phật giáo. Bởi vì, khác những tôn giáo khác, đạo Phật không 
                mang tính chất giáo điều và không dựa lên trên đức tin; đạo Phật 
                chưa bao giờ tìm cách thay thế khoa học giải thích mọi hiện 
                tượng; và trong quá trình phát triển của loài người, các tổ chức 
                Phật giáo chưa từng kết án một phát minh hay một nhà khoa học 
                nào.  
 
                - 
                Người 
                ta có thể giải thích những điều đó bằng tinh thần bao dung, phá 
                chấp của đạo Phật. Nhưng thật ra không phải chỉ có vậy. Đạo Phật 
                và khoa học còn chia xẻ với nhau một số đặc tính mà chúng ta sẽ 
                phân tích sau.  
 
                - 
                Hơn 
                nữa, trải qua hơn 2500 năm lịch sử, đạo Phật đã tích lũy nhiều 
                kiến thức, nhiều kinh nghiệm mà ngày nay các nhà khoa học cũng 
                đang quan tâm tới và tìm cách khai thác. Ông Francisco Varela, 
                một nhà nghiên cứu sinh học về khoa học nhận thức (sciences 
                cognitives), cho biết rằng chính nhờ tìm hiểu và thực nghiệm đạo 
                Phật trong hơn 15 năm, ông mới khai phá ra những chân trời mới 
                lạ: "Trong truyền thống đạo Phật có từ hơn 20 thế kỷ nay, hiện 
                tượng học kinh nghiệm đã mang lại một khối hiểu biết mênh mông. 
                Đạo Phật đã đề xướng ra một phương pháp rất gần với phương pháp 
                của Husserl, nghĩa là ngưng lại mọi tin tưởng, để quan sát và 
                nhận thức trực tiếp bởi giác quan. Có thể nói rằng đức Phật 
                Thích Ca là người đã đi trước Husserl, và những người tu Phật là 
                những nhà chuyên môn về hiện tượng học tâm thần. Truyền thống 
                đạo Phật thật ra không mấy liên quan tới tín ngưỡng, nhưng lại 
                có liên quan mật thiết với khoa học tâm thần. Người ta không thể 
                nào không biết đến kho tàng hiểu biết đó, cũng nằm trong tinh 
                thần hiện tượng học Tây phương, nhưng được áp dụng vào hành 
                động, được thực nghiệm. Có thể hai con đường hiện tượng học và 
                phương pháp khoa học đó sẽ bổ túc và gây thêm phong phú cho 
                nhau" (2).  
 
                - 
                Đứng về 
                mặt lý thuyết, sở dĩ đạo Phật và khoa học phù hợp với nhau là vì 
                chung với nhau một nền tảng, một số thái độ tinh thần, một số 
                nhận định, tuy rằng có những điểm khác biệt về đối tượng và mục 
                tiêu.  
 
                - 
                Một nền 
                tảng chung: Trí tuệ  
 
                - 
                Điểm 
                gặp gỡ căn bản giữa đạo Phật và khoa học là nền tảng dựa lên 
                trên trí tuệ. Khoa học dựa lên sự hiểu biết xây dựng bởi lý trí 
                con người. Đạo Phật cũng dựa lên trên trí tuệ con người, noi 
                theo gương đức Phật, là "đấng phước trí vẹn toàn".  
 
                - 
                Trong 
                khoa học cũng như trong đạo Phật, không có đức tin, và không cần 
                tới đức tin. Tiếng Anh "believe" (tin tưởng) phát nguồn từ tiếng 
                Đức cổ xưa "liebe" có nghĩa là "yêu". Do đó, có thể nói rằng đức 
                tin thuộc vào phạm vi tình cảm chứ không phải là lý trí. Và đa 
                số vấn đề đặt ra, đa số bất đồng giữa tôn giáo và khoa học xẩy 
                ra cũng chỉ vì các tôn giáo thần khải đều đặt nền tảng vào đức 
                tin, vào tình cảm chứ không phải vào lý trí. Đạo Phật không 
                vướng mắc vào điều đó.  
 
                - 
                Chủ thể 
                là con người  
 
                - 
                Trên 
                con đường trí tuệ, khoa học cũng như đạo Phật khẳng định chủ thể 
                là con người. Cả hai đặt trọng tâm vào con người, vì vậy có thể 
                nói rằng đạo Phật và khoa học đều là những con đường nhân bản 
                (humanisme).  
 
                - 
                Theo 
                khoa học, tất cả sự hiểu biết đều tùy thuộc bản chất và kinh 
                nghiệm của con người, và ai ai cũng có thể nâng cao trình độ học 
                thức, nhờ sự nỗ lực của chính mình. Chân lý đạt được không phải 
                là chân lý thần khải do Thượng Đế ban cho, mà là chân lý do con 
                người phát hiện.  
 
                - 
                Theo 
                đạo Phật, tự con người làm cho mình mê muội, gây khổ đau cho 
                mình, và cũng tự con người giác ngộ, giải thoát cho mình. Không 
                ai có tác động vào con người, không có sự cứu rỗi hay thưởng 
                phạt bởi Thượng Đế hay một đấng thần linh nào. Không có định 
                mệnh, cũng không có ngẫu nhiên, chỉ có luật nhân quả. Hơn nữa, 
                ai ai cũng có thể giác ngộ, ai ai cũng có thể thành Phật được. 
                
 
                - 
                Như 
                vậy, khoa học cũng như đạo Phật mang lại cho con người tinh thần 
                trách nhiệm, lòng tự tin ở khả năng của chính mình, quyền tự do 
                chọn lựa, ít ra ở trong một chừng mực nào, và tinh thần bình 
                đẳng trên con đường trí tuệ.  
 
                - 
                Những 
                khác biệt về mục tiêu và đối tượng  
 
                - 
                Bàn về 
                mục tiêu và đối tượng, chúng ta phải công nhận có những điểm 
                khác biệt giữa khoa học và đạo Phật:  
 
                - 
                Đối 
                tượng của khoa học là tất cả những gì có thể quan sát, thí 
                nghiệm và nhận thức được: mọi hiện tượng, tự nhiên hay không, 
                con người và mọi sinh vật, xã hội, v.v., thậm chí khoa học có 
                thể tự nghiên cứu về chính mình. Có thể nói là không có một lãnh 
                vực nào nằm ngoài tầm khoa học, và phạm vi của khoa học mỗi ngày 
                một tỏa rộng.  
 
                - 
                Nhưng 
                cũng có thể nói là khoa học không có một chủ đích nào ngoài sự 
                hiểu biết mỗi ngày một sâu rộng và chính xác hơn. Tự khoa học 
                không mang lại gì cho con người, ngoài sự hiểu biết. Khoa học 
                đứng một vị trí trung lập và không liên quan gì đến đạo đức, 
                tình cảm. Còn áp dụng khoa học ra sao lại là một vấn đề khác, mà 
                chúng ta sẽ đề cập đến sau.  
 
                - 
                Ngược 
                lại với khoa học - hay đúng hơn bổ túc cho khoa học - đạo Phật 
                có một mục tiêu nhất định, đó là diệt khổ, là giải thoát. Đức 
                Phật đã nhấn mạnh: "Này các tỳ kheo, cững như nước biển chỉ có 
                một vị mặn, những điều ta dậy chỉ có một mục đích, đó là giải 
                thoát". Do đó, đạo Phật không chủ trương tìm hiểu tất cả những 
                gì có thể hiểu biết được, mà chỉ đặt trọng tâm vào những gì đưa 
                con người tới diệt khổ và giải thoát.  
 
                - 
                Và vì 
                quan niệm rằng "Phật tại tâm", cho nên đối tượng của đạo Phật là 
                cái tâm, điều đó rất rõ trong Thiền và Duy Thức. Thay vì nghiên 
                cứu ngoại cảnh như khoa học, đạo Phật chủ trương trở về với "bản 
                lai diện mục". Để mượn một hình ảnh, chúng ta có thể so sánh ánh 
                sáng của khoa học như một ngọn đèn chói tỏa khắp nơi, trong khi 
                đó ánh sáng của đạo Phật như một tia laser hội tụ vào một điểm. 
                
 
                - 
                Rất có 
                thể đức Phật Thích Ca lấy một thái độ như vậy là vì vào thế kỷ 
                thứ 6 trước CN tại Ấn Độ, có nhiều khuynh hướng siêu hình luẩn 
                quẩn trong những giả thuyết không đi tới đâu, trong khi đó khoa 
                học chưa ra đời. Đối với đức Phật, đời người quá ngắn ngủi để có 
                thể mất thời giờ trong những hoạt động không mang lại lợi ích gì 
                cho mục tiêu chính, tức là giải thoát. Nhưng ngày hôm nay, sau 
                bao nhiêu thế kỷ tiến hóa của loài người, với những sự hiểu biết 
                không ngừng phát triển, có thể nào không tiếp nhận ánh sáng của 
                khoa học? Giữa "biển khổ" mênh mông và "biển học" vô tận, người 
                trí thức Phật tử làm thế nào để chọn lựa? Và liệu có cần chọn 
                lựa?  
 
                - 
                Hai con 
                đường trí tuệ  
 
                - 
                Khoa 
                học dùng lý trí, lý luận để diễn giải, dùng những từ ngữ, biểu 
                tượng để diễn đạt tư tưởng. Những hiểu biết được truyền đạt, 
                thông tin qua những từ ngữ, biểu tượng, và nhờ đó có tính chất 
                phổ biến, trên khắp hoàn cầu và vượt qua các thời đại.  
                
 
                - 
                Đạo 
                Phật dùng lý trí để tìm hiểu giáo lý và gìn giữ giới luật, nhưng 
                lý trí không đủ để đạt tới giác ngộ. Trí tuệ viên mãn (hay Bát 
                Nhã) vượt khỏi phạm vi tri thức thông thường, vượt khỏi ngôn từ, 
                biểu tượng. Đó là một sự tỉnh thức toàn bộ và đột ngột, một 
                trạng thái tâm linh gọi là "chứng ngộ", có thể thực nghiệm sau 
                một thời gian tu tập.  
 
                - 
                Chính 
                khoa học hiện nay cũng phải công nhận những hạn chế của lý trí, 
                và khả năng trực giác phát xuất từ tiềm thức con người. Có lẽ 
                "cái chính yếu không thể thấy được", cũng như lời con chồn nói 
                với "Hoàng tử Bé" trong truyện của Saint-Exupéry.  
 
                - 
                Tinh 
                thần thực tiễn và thực nghiệm  
 
                - 
                Thái độ 
                của đức Phật Thích Ca không khác gì thái độ của một người thầy 
                thuốc. Chúng ta có thể nhận thấy qua bài giảng đầu tiên của ngài 
                về Tứ Diệu Đế, một trình tự khoa học, hợp lý và thực dụng, một 
                phương pháp y học gồm 4 giai đoạn: chẩn đoán bệnh, tìm nguyên 
                nhân bệnh, tiên lượng và điều trị bệnh bằng một liều thuốc hữu 
                hiệu. Đạo Phật chính là đạo thực nghiệm, bởi vì từ cái khổ cho 
                tới cái diệt khổ đều là những kinh nghiệm của cuộc sống, và tu 
                theo đạo Phật chính là tìm cách đi theo con đường đức Phật đã đi 
                qua.  
 
                - 
                Tại Tây 
                phương, sở dĩ nghiên cứu y học phát triển mạnh mẽ cũng là nhờ 
                phương pháp khoa học thực nghiệm (sciences expérimentales) đề 
                xướng bởi Francis Bacon và Claude Bernard, theo một trình tự gồm 
                4 giai đoạn: từ quan sát các hiện tượng, rút ra một số sự kiện, 
                rồi tìm ra những định luật giải thích các sự kiện, và sau cùng 
                xét nghiệm để kiểm soát những định luật đó.  
 
                - 
                Như 
                vậy, chúng ta có thể nói rằng tinh thần thực tiễn và thực nghiệm 
                là những đặc điểm làm cho đạo Phật và các khoa học áp dụng gần 
                gũi với nhau.  
 
                - 
                Tinh 
                thần phê phán, phá chấp, cởi mở, khoan dung  
 
                - 
                Đặc 
                biệt phù hợp với khoa học là tinh thần phê phán của đạo Phật. 
                Phật tử nào cũng nhớ những lời dậy của đức Phật cho người dân 
                làng Kalama, khuyên họ luôn luôn giữ tinh thần phê phán, không 
                chấp nhận một sự thật nào trước khi tự mình kiểm chứng bằng lý 
                trí và thực nghiệm. Tinh thần khoa học chính là tinh thần phê 
                phán, và cũng là tinh thần thực chứng (esprit positif), chối từ 
                những cảm tưởng chủ quan, những truyền thuyết, tin tưởng, những 
                giải thích huyền bí, siêu hình.  
 
                - 
                Phá 
                chấp, cởi mở và khoan dung, thường liên quan mật thiết với nhau, 
                là những tinh thần cốt tủy trong đạo Phật. Đức Phật coi con 
                đường mình vạch ra như một phương tiện, như một "cái bè để qua 
                sông", như "ngón tay chỉ mặt trăng", có tính chất vô thường như 
                tất cả mọi pháp môn. Đạo Phật không dựa lên trên kinh điển, mà 
                chỉ coi kinh điển như những phương tiện giúp người Phật tử hiểu 
                thêm giáo lý. Kinh điển chỉ là những lời dậy được chép lại, 
                truyền từ đời này qua đời khác, và không tránh khỏi những hạn 
                chế thời gian. Do đó, đức Đạt Lai Lạt Ma đã không ngần ngại nói 
                rằng: "Nếu khoa học chứng minh là kinh điển sai, thì phải thay 
                đổi kinh điển" (1). Thật là một bài học phá chấp hiếm có trong 
                lãnh vực tôn giáo.  
 
                - 
                Lẽ dĩ 
                nhiên, tinh thần cởi mở, khoan dung đó đã mang lại cho cả hai 
                bên những phát triển bổ ích. Khoa học mỗi ngày một thêm phong 
                phú nhờ những lý thuyết mới, đôi khi mâu thuẫn nhưng luôn luôn 
                bổ túc cho nhau, mỗi lý thuyết đem lại thêm một phần ánh sáng. 
                Chẳng hạn như quan niệm vũ trụ cơ học của Newton, thuyết tương 
                đối của Einstein và thuyết lượng tử của Bohr và Heisenberg, đã 
                lần lượt làm cho con người hiểu biết thêm về thế giới. Còn đạo 
                Phật sở dĩ trở thành đa dạng và xum xuê như một cây đại thụ, 
                cũng là nhờ ở sự đóng góp của chư vị tổ sư, luận sư và thiền sư 
                như các ngài Phật Minh, Long Thụ, Vô Trước, Thế Thân, Huệ Năng, 
                v.v., đã khai sáng những trường phái phong phú như Trung Quán, 
                Duy Thức, Thiền tông v.v.  
 
                - 
                Những 
                nhận định phù hợp với khoa học: Luật nhân quả, vô thường, vô 
                ngã, lý duyên khởi  
 
                - 
                Trong 
                những nguyên lý căn bản của đạo Phật, những điểm cốt yếu như 
                luật nhân quả, vô thường, vô ngã, và lý duyên khởi, đều được 
                khoa học kiểm chứng hay ít ra công nhận là có căn cứ.  
                
 
                - 
                Luật 
                nhân quả, tuy đã có trước đạo Phật nhưng đã được hòa hợp vào 
                giáo lý nhà Phật, chính là một trong những điểm tựa căn bản của 
                khoa học. Bởi vì tất cả những bước tiến của khoa học đều nhằm 
                thiết lập những tương quan từ nguyên nhân tới kết quả giữa các 
                hiện tượng quan sát. Có thể nói rằng cũng như đạo Phật, phần lớn 
                các nhà khoa học, từ Galilei tới Einstein đều theo thuyết quyết 
                định (déterminisme). Sau này mới xuất hiện thuyết vô định 
                (incertitude) của Heisenberg áp dụng trong vật lý nguyên tử, và 
                định lý không thể quyết định (indécidabilité) của Gưdel, đặt lại 
                vấn đề căn bản của sự hiểu biết.  
 
                - 
                Vô 
                thường là một gạch nối giữa Đông và Tây, bởi vì đồng thời với 
                đức Phật Thích Ca, hiền triết Hy Lạp Héraclite cũng đã nhấn mạnh 
                vào khía cạnh lưu chuyển không ngừng của sự vật (panta rhei): 
                "Người ta không bao giờ tắm hai lần ở một giòng sông" (và ngay 
                một lần cũng không vì giòng sông luôn luôn biến đổi). Có những 
                triết gia khác như Parménide, Platon, và những tôn giáo thần 
                khải lại quan niệm rằng có những hiện hữu vĩnh cửu, đó là Thượng 
                Đế, là linh hồn, là tư tưởng. Điều đó dĩ nhiên không thể nào 
                chứng minh hay phủ nhận được. Nhưng trong cuộc sống hàng ngày, 
                vô thường là điều được thực nghiệm hiển nhiên nhất. Sinh học cho 
                ta biết mỗi giây phút có vô số biến chuyển trong mỗi động vật, 
                thực vật, và ngay cả khoáng vật. Hàng triệu tế bào sinh ra và 
                chết đi trong mỗi khoảnh khắc, trong da thịt, trong từng bộ phận 
                cơ thể chúng ta. Và ngay cả hàng tỷ nơ rôn mang tư tưởng của 
                chúng ta cho đến hơi thở cuối cùng cũng không ngừng biến đổi. Có 
                thể nói rằng vô thường chính là biểu hiện của thời gian, của sự 
                sống.  
 
                - 
                Vô ngã 
                là một nét đặc thù tinh hoa của đạo Phật, đồng thời là sợi dây 
                nối liền các ngành Nguyên Thủy và Đại Thừa. Ngược lai với đạo Bà 
                La Môn cho cái tiểu ngã cá nhân là một thực thể, một phần vĩnh 
                cửu của cái đại ngã tuyệt đối, đức Phật cho cái "ta" chỉ là một 
                ảo tưởng, một sự cấu kết tạm thời bởi ngũ uẩn. Đức Phật phủ nhận 
                mọi cá nhân như một thực thể có tự tánh, biệt lập khỏi vũ trụ. 
                
 
                - 
                Tại Tây 
                phương vào thế kỷ 18, ngược lại với Descartes đặt nền tảng lên 
                trên sự biểu tượng của cái "ta" (cogito, ergo sum), triết gia 
                người Anh David Hume, tuy không biết gì về giáo lý của đức Phật 
                hơn hai nghìn ba trăm năm trước, cũng quan niệm rằng cái "ta" 
                chỉ là một sự tập hợp các khái niệm trong ý thức, nối tiếp nhau 
                một cách liên tục và biến đổi luôn luôn. Sau này, khoa học cũng 
                mang lại nhiều luận chứng cho quan niệm vô ngã: chẳng hạn như cơ 
                thể con người bao gồm hàng chục cơ quan, hàng ngàn bộ phận, hàng 
                tỷ tế bào, càng đi sâu vào phân tích càng không biết đâu là cái 
                "ta". Ngay cả những tư tưởng, những cảm xúc, cũng không biết cái 
                nào có thể gọi là cái "ta". Hơn nữa, cơ thể con người luôn luôn 
                biến chuyển và không ngừng trao đổi với thế giới bên ngoài. 
                
 
                - 
                Gọi là 
                bên ngoài, nhưng thực ra là bên trong, bởi vì con người, về thể 
                xác cũng như tinh thần, nằm bên trong một thế giới vĩ đại, và có 
                liên quan ít nhiều với mọi thành phần trong thế giới đó. Nhờ 
                những phát hiện của vật lý vũ trụ, người ta có thể khẳng định 
                rằng con người chỉ là những hạt bụi của những ngôi sao xuất hiện 
                cách đây khoảng 14 tỷ năm. Sau những biến chuyển không ngừng, từ 
                những trạng thái cơ thể đơn bào cách đây 3 tỷ năm, rồi tới các 
                cơ thể đa bào, qua những loài cá, loài bò sát, loài chim, rồi 
                các động vật có vú, các loài khỉ, con người đã xuất hiện trên 
                trái đất này từ 2 triệu năm, cho tới chúng ta ngày hôm nay. Trải 
                qua bao nhiêu đổi thay, phân hóa (différenciation), đấu tranh, 
                thích ứng, loài người đã đạt tới vị trí tột đỉnh nhờ khối óc của 
                mình, có thể gọi là cơ quan tinh vi nhất của sự sống. Nhưng con 
                người cũng không thể quên được rằng mình chính là anh em bà con 
                với thú rừng, chim cá, sâu bọ, cỏ cây và ngay cả sỏi đá. Con 
                người tưởng mình đơn độc giữa hàng triệu loài sinh vật, hàng tỷ 
                tỷ ngôi sao, nhưng thật ra có những sợi dây vô hình nối liền 
                mình, trong không gian và thời gian, với vô số hiện hữu trong vũ 
                trụ. Hiểu được như vậy có lẽ Trần Tử Ngang đã không có câu thơ: 
                "Tiền bất kiến cổ nhân, Hậu bất tri lai giả. Niệm thiên đia chi 
                du du, Độc thương nhiên nhi thế hạ". (Ai người trước đã qua? Ai 
                người sau sắp tới? Ngẫm trời đất không cùng. Một mình rơi giọt 
                lệ). Hoặc Blaise Pascal đã không kêu lên: "Le silence éternel de 
                ces espaces infinies m'effraie" (Sự im lặng vô cùng của những 
                khoảng không gian vô tận làm tôi hãi sợ).  
 
                - 
                Tất cả 
                đều có liên hệ, tương quan mật thiết với nhau, phụ thuộc vào 
                nhau. Điều đó được ý thức một cách sáng tỏ trong đạo Phật, qua 
                nguyên lý duyên khởi: "Khi cái này có thì cái kia có, cái này 
                hiện thì cái kia hiện. Cái này không thì cái kia không, cái này 
                diệt thì cái kia diệt" (Trung Bộ Kinh). Cách đây không lâu, vật 
                lý hiện đại đã chứng minh điều đó, qua thí nghiệm quả lắc của 
                Foucault (luôn luôn đi về một hướng, dù đặt ở đâu trong không 
                gian), hay nghịch lý EPR (Einstein, Podolsky và Rosen: khi một 
                hạt nhân bị tan rã thành hai hạt A và B, mỗi hạt dường như "đoán 
                trước" được hướng đi của hạt kia). Các nhà khoa học xác nhận 
                rằng ở cấp vi mô cũng như ở cấp vĩ mô, vũ trụ bao gồm những mối 
                liên hệ hỗ tương và có một trật tự toàn bộ, không phân chia (3). 
                Khi một nhà khoa học nói: "Mỗi thành phần bao gồm toàn thể, và 
                toàn thể phản ánh mỗi thành phần", thì thật ra cũng không khác 
                gì câu thơ của một vị thiền sư: "Một hạt bụi chứa đựng cả vũ 
                trụ. Khi một đóa hoa nở, toàn thế giới hiển lộ". Hay lời của 
                Chandrakirti (Nguyệt Xứng), thuộc trường phái Trung Quán: "Ai 
                nhìn thấy một sự vật sẽ thấy tất cả mọi sự vật. Cái không của 
                một sự vật là cái không của tất cả mọi sự vật".  
 
                - 
                Để tóm 
                tắt lại, chúng ta có thể nói rằng đạo Phật và khoa học có nhiều 
                điểm chung với nhau:  
 
                - 
                1. Nền 
                tảng đặt lên trí tuệ, tuy rằng khoa học thuần lý trí, và đạo 
                Phật vượt qua khỏi lý trí.  
 
                - 
                2. Chủ 
                thể là con người, tự mình đạt tới trí tuệ do tu học.  
                
 
                - 
                3. Tinh 
                thần phê phán, cởi mở và khoan dung.  
 
                - 
                4. Tinh 
                thần thực tiễn, thực nghiệm.  
 
                - 
                5. Một 
                vũ trụ quan trong đó mọi sự vật đều có liên hệ mật thiết với 
                nhau, biến đổi không ngừng, theo những định luật tự nhiên. 
                
 
                - 
                Bên 
                cạnh đó, có vài điểm khác nhau là về mục tiêu và đối tượng: khoa 
                học không có chủ đích ngoài sự hiểu biết mỗi ngày một gần hơn sự 
                thật, trong khi đạo Phật lấy giải thoát làm cứu cánh. Khoa học 
                lấy cái "chân" làm tiêu chuẩn, lấy tất cả những gì có thể học 
                hỏi được làm đối tượng. Trong khi đó, đạo Phật không tách rời 
                "chân" và "thiện", và lấy cái tâm của con người làm đối tượng. 
                
 
                - 
                Như vậy 
                có thể khẳng định rằng đạo Phật và khoa học trong những nét 
                chính phù hợp với nhau và bổ túc cho nhau. Những kinh nghiệm của 
                đạo Phật không mẩy may chống đối với khoa học, mà còn có thể 
                giúp cho khoa học phát triển, đặc biệt về khoa học tâm thần. Còn 
                những hiểu biết của khoa học cũng không phủ nhận những nguyên lý 
                căn bản của đạo Phật, mà có thể giúp đạo Phật hiện đại hóa, 
                thích hợp với thời đại.  
 
                - 
                Con 
                người vừa cần đến khoa học, vừa cần đến một con đường hướng dẫn 
                tâm linh. Cách đây 500 năm, khi con người mới bắt đầu đi vào con 
                đường khoa học, nhà văn Rabelais đã mượn lời của nhân vật 
                Pantagruel để cảnh giác: "Science sans conscience n'est que 
                ruine de l'âme" (Khoa học mà không có lương tri chỉ đi tới sự 
                phá sản của tâm hồn).  
 
                - 
                Ngày 
                nay, khoa học đã lan rộng trong mọi lãnh vực, thấm nhuần mọi 
                khía cạnh của cuộc sống, thay đổi sâu xa lối nhìn của con người. 
                Các nhà khoa học đã lấn dần vào những lãnh vực ngày xưa dành 
                riêng cho các triết gia, các nhà tôn giáo, để lên tiếng về những 
                vấn đề của thời đại. Nhưng, vì sự hiểu biết mỗi ngày một rộng 
                lớn (hiện nay người ta ước lượng cứ mỗi 7 năm sự hiểu biết của 
                nhân loại lại tăng lên gấp đôi), cho nên khoa học không thể nào 
                tránh khỏi sự chuyên môn hóa và sự phân hóa thành những chi 
                nhánh nhỏ tách rời nhau. Chỉ có mở rộng những giao thông liên 
                lạc giữa các ngành khác nhau, mới có thể đi tới một sự hiểu biết 
                toàn diện về cuộc đời. Vả lại, biên giới mỗi ngày một thêm mỏng 
                manh giữa khoa học và triết học, giữa thể chất và tinh thần, 
                giữa ngoại cảnh và nội tâm.  
 
                - 
                II. Phần 
                thực tiễn: 
                Đạo Phật và những vấn đề thời đại liên quan tới khoa học  
                
 
                - 
                Thực tế 
                mà nhìn, chúng ta phải công nhận rằng khoa học kỹ thuật đã đi 
                sâu vào cuộc sống thường nhật, bao trùm mọi lãnh vực xã hội và 
                lôi cuốn con người với một sức mạnh không thể nào cưỡng lại 
                được. Chúng ta có thể coi nó như một dụng cụ mỗi ngày một tối 
                tân và lớn mạnh, hay tiêu cực hơn, như một cái trục lăn ép tất 
                cả những gì nằm trên đường đi của nó. Nhưng dù muốn hay không, 
                con người cũng cần tới khoa học kỹ thuật, cũng như cần tới kinh 
                tế xã hội. Hơn nữa, tách rời khoa học kỹ thuật khỏi những lãnh 
                vực khác là một điều không tưởng, vì tất cả đều liên quan mật 
                thiết với nhau, là Phật tử ai ai cũng biết rõ điều đó.  
                
 
                - 
                Điểm 
                thứ nhì là khi nói tới khoa học kỹ thuật, ai cũng thấy rõ có 
                những điều tích cực và những điều tiêu cực, hay nói một cách 
                khác, bao giờ cũng có "mặt trái của mề đay". Nhưng lên án một số 
                điều tiêu cực gây nên bởi khoa học kỹ thuật ngày hôm nay, cũng 
                chỉ là một thái độ tiêu cực, không lợi ích gì. Thiết tưởng chúng 
                ta nên cố gắng tìm hiểu một cách khách quan một số vấn đề đặt 
                lên bởi khoa học kỹ thuật, và tạm thời đề ra một số giải pháp 
                thích hợp với thời đại và soi sáng bởi những giá trị tinh thần 
                của đạo Phật.  
 
                - 
                Hơn 
                nữa, khoa học không phải từ trên trời rơi xuống: khoa học chỉ là 
                một phương tiện, các nhà khoa học cũng chỉ là những bộ phận 
                trong một guồng máy xã hội phức tạp, dưới sự chỉ huy của các nhà 
                lãnh đạo chính trị. Lịch sử đã cho ta thấy rõ một số trường hợp 
                lợi dụng khoa học trong những hành động vô nhân đạo. Áp dụng 
                khoa học ra sao hoàn toàn tùy thuộc ý chí của xã hội, của con 
                người.  
 
                - 
                Y học: 
                những phát triển và thực trạng  
 
                - 
                Trong 
                những ngành khoa học, ngành y được coi là gặt hái được nhiều 
                thành quả và lợi ích nhất cho nhân loại.  
 
                - 
                Một tấm 
                gương trong khoa học là nhà sinh học Louis Pasteur đã cứu sống 
                được bao nhiêu nhân mạng và mở đầu cho những chiến thắng của con 
                người trên bệnh tật.  
 
                - 
                Nhờ vệ 
                sinh, chích ngừa, thuốc kháng sinh, nhiều bệnh truyền nhiễm và 
                bệnh dịch ngày xưa vô phương cứu chữa đã được phòng ngừa và điều 
                trị một cách hữu hiệu. Phẫu thuật đã tinh vi tới mức độ vi phẫu, 
                dùng tia laser, thay bộ phận giả, ghép các bộ phận như thận, 
                tim, gan, v.v. Nhờ những máy siêu âm, nội soi, CT scanner, RMI, 
                người ta đã có thể nhìn xuyên qua cơ thể con người, và chẩn đoán 
                được nhiều trường hợp ung thư từ giai đoạn ban đầu. Thụ tinh 
                nhân tạo và thụ thai trong ống nghiệm đã mang lại hạnh phúc gia 
                đình cho bao nhiêu cặp vợ chồng hiếm muộn. Và trong chỉ vài năm 
                nữa, bản đồ génome của con người sẽ được xác lập, và sẽ là chìa 
                khóa mở cửa cho tiên đoán và điều trị bệnh tật từ gốc rễ. 
                
 
                - 
                Đó là 
                những thành quả của y học, những gì đang xẩy ra tại các nước tân 
                tiến. Nhưng sự thật lại khác hẳn tại các nước chậm tiến, nghĩa 
                là một phần lớn của nhân loại. Trong một báo cáo gần đây (4), 
                bác sĩ Nakajima, giám đốc Tổ chức Y tế Thế giới (OMS), cho biết 
                "hơn một phần năm nhân loại sống trong một tình trạng cục kỳ 
                thiếu thốn, gần một phần ba trẻ em thiếu dinh dưỡng và một nửa 
                dân số không được dùng những thuốc men cần thiết nhất. Con người 
                sống trung bình trên 75 tuổi tại Hoa Kỳ, Nhật Bản, trong khi đó 
                tại Ouganda chỉ chung quanh 40 tuổi. Bốn mươi phần trăm tử vong 
                trên thế giới là do các bệnh truyền nhiễm, phụ sản và sơ sinh, 
                tức là các bệnh gần như là không còn thấy tại các nước tân 
                tiến". Ông kết luận: "Bệnh nghèo khó là bệnh giết hại nhiều nhất 
                trên thế giới. Đối với hàng triệu người phải tranh đấu mỗi ngày 
                để sống còn, thì viễn tượng kéo dài cuộc sống có thể có thể coi 
                như một hình phạt hơn là một điều tốt".  
 
                - 
                Thực 
                trạng của ngành y tế thế giới là như vậy. Một bên, tại các nước 
                chậm tiến, vấn đề y tế rốt cục lại là một vấn đề kinh tế: những 
                hiểu biết y học căn bản và hiện đại không được áp dụng cũng chỉ 
                vì thiếu phương tiện và tài chánh. Bên kia, tại các nước tân 
                tiến, y tế đã đạt được chất lượng cao, nhưng mỗi ngày một thêm 
                tốn kém, và trở thành một gánh nặng kinh tế cho toàn thể xã 
                hội.  
 
                - 
                Hơn nữa 
                tại đây, những tiến bộ của y học và sinh học lại gây nên một số 
                vấn đề mới.  
 
                - 
                Những 
                vấn đề mới của sinh học và y học  
 
                - 
                Đó là 
                những vấn đề sinh đạo đức (bioéthique) đặt ra bởi: ngừa thai và 
                phá thai, ghép bộ phận, thụ thai trong ống nghiệm (fécondation 
                in vitro), trợ tử (euthanasie), thay đổi di truyền, hay các bệnh 
                xã hội mới như ma túy, nhiễm trùng HIV.  
 
                - 
                Đa số 
                những vấn đề này chưa tìm được giải pháp thích hợp, vì phức tạp 
                và liên quan tới nhiều lãnh vực của cuộc sống, từ tâm lý, xã 
                hội, đạo đức cho tới luật pháp, kinh tế, với bao nhiêu quan điểm 
                khác nhau.  
 
                - 
                Những 
                vấn đề này dĩ nhiên quá mới mẻ đối với đạo Phật, cũng như đối 
                với các tôn giáo khác. Nhưng cái khác của đạo Phật là không có 
                Thánh kinh bắt các tín đồ phải đi theo một con đường cố định. 
                Người Phật tử phải biết khế cơ, khế lý, tức là làm thích hợp đạo 
                Phật vào mỗi hoàn cảnh đặc biệt.  
 
                - 
                Chẳng 
                hạn như vấn đề kiểm soát dân số, là một trong những vấn đề trọng 
                đại nhất trong những thập niên tới, không những cho các nước 
                chậm tiến mà còn cho cả toàn thế giới. Hiện nay trên trái đất có 
                khoảng 5 tỷ rưỡi người, và con số này được ước lượng sẽ nhân lên 
                gấp đôi trong khoảng hai ba chục năm tới. Mỗi năm có thêm 100 
                triệu người, hay mỗi ngày thêm 200 ngàn người nữa phải nuôi 
                thêm. Ngoại trừ một số nhà lãnh đạo tôn giáo, tất cả những nhà 
                khoa học, xã hội, kinh tế, chính trị có tinh thần trách nhiệm 
                đều đồng ý với nhau rằng đó là một vấn đề then chốt cho tương 
                lai nhân loại, bắt buộc phải dùng đến những biện pháp hạn chế 
                sinh đẻ hữu hiệu.  
 
                - 
                Tuy 
                rằng vấn đề này chưa đặt ra vào thời đức Phật Thích Ca (dân số 
                thế giới lúc bấy giờ chỉ mới có vài trăm triệu), nhưng chúng ta 
                có thể nghĩ rằng với mục tiêu diệt khổ, đạo Phật không có lý do 
                nào chống đối sự kiểm soát dân số và hạn chế sinh đẻ, ngược lại. 
                Nếu quá đông dân số đưa tới nghèo nàn, lạc hậu, tức là khổ đau, 
                thì phải chống lại nguyên nhân của khổ đau, tức là phải hạn chế 
                sinh đẻ, điều đó rất rõ rệt. Khác với các tôn giáo thần khải, 
                quan niệm rằng sự sống có tính chất thiêng liêng do Thượng Đế 
                ban cho con người, đạo Phật đặt sự sống trong vòng vô thường vô 
                ngã nhân duyên, nên không lấy sinh đẻ làm một tín điều bất khả 
                xâm phạm. Đối với đức Đạt Lai Lạt La, không những phải chủ 
                trương hạn chế sinh đẻ, mà còn "phải phát huy điều quan trọng 
                này nữa" (1).  
 
                - 
                Ngược 
                lại, phá thai là một hành động đi ngược lại với tôn chỉ không 
                giết hại (ahimsa) của đạo Phật, cũng là giới đầu tiên trong năm 
                giới. Đạo Phật dĩ nhiên không thể nào chủ trương phá thai, tức 
                là giết hại mầm sống đang nẩy lên trong lòng người mẹ. Vấn đề là 
                bắt đầu khi nào cái thai, lúc đầu chỉ là một số tế bào, trở 
                thành một con người, một mạng sống? Đối với một số nhà khoa học, 
                có thể coi là một mạng sống từ khi bắt đầu có hệ thần kinh, tức 
                là vào tuần thứ ba. Một số khác quan niệm rằng chỉ có thể gọi là 
                một con người khi có đầy đủ các bộ phận, tức là từ tuần thứ mười 
                hai. Trước đó, cái thai thuộc vào cơ thể người mẹ, và không có 
                lý do gì người mẹ không có quyền quyết định trên cơ thể của 
                mình. Tất cả những ai đã sống trong thời kỳ cấm phá thai còn ghi 
                sâu trong ký ức những trường hợp tử vong do phá thai dấu diếm, 
                thiếu vệ sinh gây nên bao nhiêu tang tóc, khổ đau. Dĩ nhiên, nên 
                ngừa thai hơn là phá thai, ai ai cũng đồng ý về điều đó. Phá 
                thai chỉ là điều bất đắc dĩ, khi tất cả các phương pháp ngừa 
                thai đều thất bại, và lúc đó phải để người mẹ cùng gia đình 
                quyết định. Con người phải tự trách nhiệm lấy mình, đó luôn luôn 
                là tôn chỉ của đạo Phật.  
 
                - 
                Vấn đề 
                chẩn đoán tiền sinh (diagnostic anténatal) cũng như vậy. Khoa 
                học ngày nay đã có khả năng chẩn đoán những bệnh tật của cái 
                thai trước khi sinh đẻ, từ những tật nhẹ cho tới những bệnh thể 
                sắc (maladies chromosomiques), có thể đưa tới điều trị trong tử 
                cung hoặc phá thai. Gần đây, đức Giáo Hoàng lại lên tiếng kết án 
                những phương tiện chẩn đoán tiền sinh, vì lý do tôn trọng tính 
                chất thiêng liêng của sự sống. Là Phật tử, chúng ta có thể nghĩ 
                rằng không có lý do gì cấm đoán sự hiểu biết trước khi sinh đẻ, 
                nếu sự hiểu biết này đưa tới những phương pháp điều trị hữu 
                hiệu. Lại một lần nữa, quyết định phải để cho người mẹ và gia 
                đình chọn lựa, với những dữ kiện khoa học khách quan và những 
                giá trị tinh thần của họ.  
 
                - 
                Những 
                vấn đề ghép bộ phận, thụ thai trong ống nghiệm, thay đổi di 
                truyền cũng không gặp chống đối gì trong đạo Phật. Lấy bộ phận 
                một người chết ghép cho một người bệnh để cứu sống người đó là 
                một hành động từ bi, cứu khổ của gia đình người chết, và cũng là 
                một thí dụ điển hình cho quan niệm vô thường, vô ngã. Nếu có 
                tinh thần đạo Phật thì các nước Tây phương đã không gặp tình 
                cảnh khan hiếm bộ phận ghép như ngày hôm nay.  
 
                - 
                Thụ 
                thai trong ống nghiệm chỉ là một kỹ thuật sinh học, không thay 
                đổi gì trong sự hình thành của con người bắt đầu từ hai tế bào 
                của người cha và người mẹ, cho nên cũng không đặt vấn đề gì cho 
                người Phật tử. Còn thay đổi di truyền dĩ nhiên là một vấn đề 
                quan trọng, nhưng tất cả vấn đề là làm theo chiều hướng nào. Nếu 
                sự thay đổi đó nhằm giảm bệnh tật, chống lại với khổ đau thì dĩ 
                nhiên phù hợp với đạo Phật. Nhưng nếu dùng những phương tiện đó 
                để tạo nên những dòng vô tính (clones), để phân biệt chia rẽ 
                những con người lẫn nhau, thì đạo Phật không thể nào chấp nhận 
                được. Ý thức được tầm quan trọng của vấn đề, các nhà trách nhiệm 
                khoa học, chính trị cũng đã cùng nhau soạn thảo những định luật 
                gắt gao để phòng ngừa những sự trệch đường nguy hại có thể xẩy 
                ra.  
 
                - 
                Gây 
                chết nhẹ nhàng hay trợ tử (euthanasie) hiện đang là một đề tài 
                thảo luận sôi nổi tại các nước tân tiến. Tại một số nước như Hoa 
                Kỳ, Hòa Lan, luật pháp tương đối khoan dung với những kẻ gây 
                chết nhẹ nhàng cho bệnh nhân đã tới giai đoạn chót, theo lời yêu 
                cầu của bệnh nhân và gia đình. Tại các nước khác, luật pháp 
                nghiêm ngặt hơn, và có những tôn giáo chống đối lại một cách 
                kịch liệt. Đối với người Phật tử, lấy mục đích diệt khổ làm 
                chính và quan niệm cuộc sống chỉ nằm trong vòng nhân duyên, thì 
                sự gây chết nhẹ nhàng cho một bệnh nhân tới giai đoạn chót, yêu 
                cầu ra đi một cách thanh thản, tránh cho gia đình kéo dài khổ 
                đau, có lẽ là điều không đáng bị kết án. Dù sao những quyết định 
                này quá hệ trọng để đặt trên vai một người, và có lẽ một ngày 
                kia sẽ được ủy quyền cho một Ủy Ban Sinh Đạo Đức (Comité 
                d'Ethique) trong mỗi cơ quan y tế.  
 
                - 
                Về ma 
                túy và nhiễm trùng HIV, là những bệnh của thời đại, thì đạo Phật 
                cũng có một thái độ rõ rệt: trong năm giới, có hai giới mà nếu 
                con người đi theo thì đã (gần như) tránh được hai bệnh này, tức 
                là không dùng những chất làm mờ ám tinh thần và không tà hạnh. 
                Nhưng đối với người đã phụ thuộc ma túy hay bị nhiễm trùng HIV 
                rồi, thì người Phật tử lại theo tinh thần từ bi hỷ xả, cố gắng 
                hết sức giúp đỡ, chữa chạy, cảm thông.  
 
                - 
                Vấn đề 
                môi trường  
 
                - 
                Nếu 
                khởi đầu, khoa học không có chủ đích ngoài sự hiểu biết trừu 
                tượng, vô tư, theo chiều hướng của Aristote, thì sau này khoa 
                học đã có một mục tiêu rõ rệt, đó là dùng sự hiểu biết để thống 
                trị thế giới, để làm chủ thiên nhiên.  
 
                - 
                Khuynh 
                hướng này đã xuất hiện tại Âu châu vào thế kỷ thứ 17 khi 
                Descartes đề xướng ra một phương pháp "để chúng ta trở thành như 
                người chủ, người sở hữu của thiên nhiên". Đó là một khúc quanh 
                quan trọng của lịch sử khoa học, một đề án mà nhân loại, khởi 
                đầu từ Tây phương, đã theo đuổi cho tới tận ngày hôm nay. Con 
                người không còn tìm hiểu thiên nhiên để ngắm cái đẹp của nó, mà 
                để làm chủ và khai thác nó bằng khoa học kỹ thuật.  
 
                - 
                Đề án 
                đó dã không gặp trở ngại nào về mặt tôn giáo, bởi vì trong Thánh 
                kinh đã có câu "Hãy sinh sôi nẩy nở trên toàn trái đất, và khắc 
                phục trái đất này". Chỉ có con người, đúng hơn linh hồn con 
                người, mới có tính chất thiêng liêng bởi vì Thượng đế tạo ra 
                theo hình ảnh hoàn mỹ của Ngài. Do đó, con người đứng một vị trí 
                trung tâm giữa vũ trụ và có quyền hành trên mọi động thực vật 
                trên thế giới này. Hơn nữa, theo Descartes, thể xác và tinh thần 
                hoàn toàn khác biệt với nhau, cũng như loài vật và con người. 
                Thể xác chỉ là vật chất trơ trụi, tuân theo định luật cơ học, 
                cũng như các động vật chỉ là những cái máy, cho nên sự sống tự 
                nó không có mẩy may nghĩa lý gì.  
 
                - 
                Quan 
                niệm của Descartes hiện nay gặp những chống đối từ nhiều chân 
                trời khác nhau, có kẻ gọi nó là một "đề án điên rồ", có kẻ gọi 
                nó là một thuyết "giả tạo" (artificialisme). Nhưng phải công 
                nhận rằng đề án đó đã đưa tới những phát triển mau chóng, mạnh 
                bạo của khoa học kỹ thuật, với những kết quả tích cực cũng như 
                tiêu cực của ngày hôm nay.  
 
                - 
                Theo 
                nhà nhân chủng học Louis Dumont (5), cuối thế kỷ 20 này có một 
                khúc quanh lịch sử mới, chấm dứt thuyết giả tạo của Descartes, 
                đó là khúc quanh sinh thái. Cách đây 30 năm, chữ "sinh thái" 
                (écologie) chỉ có nghĩa là tìm hiểu những tương quan giữa sinh 
                vật và môi trường. Nhưng ngày nay, nhờ các nhà khoa học, các nhà 
                chính trị, các hội đoàn, qua những phương tiện truyền thông báo 
                chí, sinh thái đã trở thành một lãnh vực quan trọng của cuộc 
                sống, với ý nghĩa bảo vệ môi trường, cho sự sống còn của trái 
                đất. Những nghiên cứu khoa học cho ta biết rằng trái đất giống 
                như một chiếc thuyền trong không gian, nhỏ bé, mỏng manh và hữu 
                hạn. Không khí bao quanh trái đất cũng vô cùng mỏng manh, và 
                những tài nguyên thiên nhiên không phải là vô tận trước sự khai 
                thác triệt để của con người. Mặc dầu rất muộn màng so với hành 
                động, nhưng tất cả đều ý thức rằng con người không thể tiếp tục 
                ô nhiễm địa cầu một cách vô trách nhiệm, bởi vì làm như vậy tức 
                là tự hủy hoại chính mình. Bằng chứng là các quốc gia đã chi 
                tiêu những số tiền khổng lồ để bảo vệ môi trường, gaz CFC gây lỗ 
                hổng ozone đã bị cấm, các vỏ hộp, chai có thể tuần hoàn lại 
                (recyclable) được sản xuất nhiều hơn, các hội nghị quốc tế về 
                sinh thái được tổ chức đều đều, và sinh thái học đã trở thành 
                một ngành chuyên môn như bao nhiêu ngành khác...  
 
                - 
                Đối với 
                đạo Phật, tôn trọng bảo vệ môi trường là một điều dĩ nhiên, tự 
                nhiên, không cần phải nói. Mọi hiện hữu đều liên hệ mật thiết 
                với nhau, phụ thuộc nhau, không tách rời nhau được, theo tinh 
                thần vô ngã, nhân duyên. Phá hủy môi trường tức là tự phá hủy, 
                và bảo vệ môi trường là một hành động sáng suốt, biết nhìn xa. 
                Nếu đức Phật Thích Ca sống giữa chúng ta ngày hôm nay, thì chắc 
                chắn ngài sẽ tranh đấu để bảo vệ môi trường.  
 
                - 
                Chiến 
                tranh và khoa học kỹ thuật  
 
                - 
                Lịch sử 
                loài người đầy rẫy những chiến tranh, tàn sát, phá hủy, tang 
                tóc, đầy rẫy những khổ đau do con người gây cho nhau. Nhưng 
                chiến tranh cũng là một động cơ thúc đẩy con người phát triển, 
                đa số các nhà sử gia, xã hội học đều phải công nhận như vậy. 
                Cũng như tục ngữ La tinh đã có câu "Si vis pacem, para bellum" 
                (Nếu muốn hòa bình, hãy sửa soạn chiến tranh), và câu của nhà 
                văn Plaute "Lupus est homo homini" đã được triết gia Hobbes lặp 
                lại: "Con người là một con chó sói đối với con người".  
                
 
                - 
                Trong 
                cuộc chiến, khoa học kỹ thuật đóng góp một vai trò quan trọng. 
                Điển hình là hai trái bom nguyên tử đầu tiên nổ trên Hiroshima 
                và Nagasaki cách đây 50 năm, vừa chấm dứt thế chiến thứ hai 
                nhưng cững mở đầu cho chiến tranh lạnh và một cuộc chạy đua vũ 
                khí không ngừng. Để chế tạo khí giới kinh hoàng đó, một ngàn nhà 
                khoa học, trong đó vô số giải thưởng Nobel, đã làm việc gấp rút 
                trong 3 năm trời, chung quanh một công trình trị giá một trăm tỷ 
                đô la. Liệu hai trái bom này có kết lìễu chiến tranh mau hơn hay 
                không, và có tránh cho nhân loại nhiều cuộc chiến tàn hại hơn 
                sau này hay không? Lịch sử sẽ trả lời. Chỉ có một điều chắc 
                chắn: khoa học đã mang lại cho con người những phương tiện tàn 
                phá khủng khiếp, có thể trong một khoảnh khắc phá hủy cả nhân 
                loại và thế giới. Ý thức được hiểm họa này, các nhà lãnh đạo 
                cường quốc đã bắt đầu thương nghị và đi tới một số hợp đồng về 
                ngăn chận nguyên tử và giảm bớt một số khí giới. Nhưng chưa có 
                một dấu hiệu nào chứng tỏ rằng các quốc gia tin cậy ở nhau và có 
                thiện chí hủy bỏ khí giới nguyên tử. Trong khi đó, nghiên cứu về 
                các khí giới mới vẫn tiếp tục, và các xưởng chế tạo khí giới làm 
                giầu hơn bao giờ hết nhờ những cuộc chiến địa phương vẫn không 
                ngừng tiếp diễn.  
 
                - 
                Mới 
                đây, chiến tranh vùng Vịnh đã chứng tỏ tầm quan trọng của những 
                khí giới tân tiến như tên lửa chỉ huy bởi điện tử, tia laser, vệ 
                tinh quan sát và truyền thông. Kiểm soát không trung vùng quanh 
                trái đất đã trở thành một mục tiêu quân sự quan trọng của các 
                cường quốc. Từ vệ tinh đầu tiên Spoutnik năm 1957, qua những 
                bước đầu tiên của con người trên mặt trăng năm 1969, tới tầu con 
                thoi không trung (navette spatiale) Challenger, mục đích vẫn là 
                chiếm ngự không trung để kiểm soát trái đất. Thêm vào đó là mục 
                tiêu kinh tế, với những vệ tinh truyền thông mang lại những 
                thông tin, hình ảnh trên toàn thế giới.  
 
                - 
                Thái độ 
                của đạo Phật đối với bạo lực, chiến tranh từ xưa tới nay rất rõ 
                rệt. Đạo Phật chủ trương không giết hại, bất bạo động (ahimsa), 
                tức là dùng từ bi chống lại bạo tàn, dùng trí tuệ chống lại sân 
                hận, nhưng không quên lòng dũng cảm. Trong các loại bố thí, có 
                vô úy thí, nghĩa là mang lại sự không sợ hãi, sự dũng cảm trước 
                bạo lực. Yêu chuộng hòa bình không có nghĩa là thụ động, là chịu 
                đựng tất cả những áp bức, bạo lực, là từ chối đấu tranh. Nhưng 
                đấu tranh với tinh thần bất bạo động, theo gương sáng của 
                Mahatma Gandhi. Chỉ bằng ý chí bất khuất của mình, một dân tộc 
                đã hàng phục một cường quốc, đã tranh giành được độc lập, không 
                đổ máu, không gây tang tóc như bao nhiêu cuộc chiến khác. Bạo 
                động dễ, nhưng bạo động chỉ gây nên bạo động, và phá hủy. Bất 
                bạo động khó, bởi vì cần đến một sức mạnh tinh thần vô biên, cần 
                đoàn kết chung quanh bi, trí, dũng, nhưng kết quả mới tốt đẹp 
                làm sao!  
 
                - 
                Khoa 
                học kỹ thuật trong các lãnh vực khác  
 
                - 
                
                          Điều hiển nhiên là những phát minh lớn của khoa học và 
                những bước tiến của kỹ thuật đã thay đổi một cách sâu đậm lối 
                sống của con người. Kể từ nền văn minh "khoa học", con người sẽ 
                khó lòng trở lại những giai đoạn "thần thoại" và "siêu hình" 
                thuở ban đầu, tuy rằng vẫ còn quá nhiều mê tín dị đoan. Nhờ máy 
                móc, con người đỡ mệt nhọc trong công việc làm. Trong công 
                nghiệp cũng như trong nông nghiệp, năng xuất được tăng trưởng, 
                thời gian làm việc rút ngắn hơn. Những phương tiện di chuyển 
                giao thông giúp con người đi lại dễ dàng, mau chóng. Với những 
                phương tiện truyền thông hiện đại, những máy điện tử, con người 
                nay có khả năng thông tin truyền đạt những hiểu biết trong chớp 
                mắt, từ những nơi cách nhau xa cả ngàn cây số. Và những bước 
                tiến này mỗi ngày một nhanh, với những hậu quả không thể lường 
                được. Nói như hai nhà tương lai học Alvin và Heidi Toeffler (6), 
                thế giới đang đi vào làn sóng thứ ba, làn sóng của tin học hay 
                siêu biểu tượng (supersymbolique), sau hai làn sóng nông nghiệp 
                và công nghiệp. Đó là một cuộc cách mạng lớn, mà trong đó khoa 
                học kỹ thuật, điều khiển bởi trí óc con người, sẽ đóng một vai 
                trò quan trọng.  
 
                - 
                Mặt 
                trái của sự phát triển này là khoa học kỹ thuật, bằng máy móc và 
                điện tử, đã thay đổi con người, không những về lối sống mà còn 
                về cách nhìn cuộc đời. Thử nhìn con cháu chúng ta, sẽ thấy chúng 
                đã khác chúng ta đến như thế nào. Chúng coi máy truyền hình, 
                chơi máy điện tử nhiều hơn là đọc sách, nô đùa giữa thiên nhiên. 
                Con người hiện đại có khuynh hướng trở thành máy móc, chạy đua 
                với thời gian, chạy theo tiện nghi vật chất, tự trói buộc mình 
                vào những nhu cầu tạo ra bởi quảng cáo, thị trường. Từ đó đưa 
                tới bao nhiêu lo lắng, căng thẳng, đôi khi tới khủng hoảng tinh 
                thần. Stress đã trở thành bệnh của thời đại, và thuốc an thần đã 
                trở thành loại thuốc được tiêu thụ nhiều nhất trong các nước kỹ 
                nghệ hóa, đó là chưa kể những vấn đề gây nên bởi đô thị, bạo 
                động, ma túy, v.v.  
 
                - 
                Xã hội 
                đã đi tới một tình trạng mà liên hệ giữa con người với vật chất 
                đã trở thành ưu tiên trên liên hệ giữa những con người. Kinh tế 
                đã trở thành lãnh vực đầu tiên của cuộc sống, đối với xã hội 
                cũng như cá nhân, bất cứ ở nơi nào trên thế giới. Dù muốn hay 
                không, con người cũng bị lôi cuốn bởi kinh tế thị trường (hiện 
                nay là hệ thống kinh tế duy nhất còn lại), và dốc mình vào làm 
                việc, sản xuất để kiếm tiền và tiêu thụ.  
 
                - 
                Nhưng 
                ngày hôm nay, chính những nhà kinh tế, chính trị, xã hội học 
                cũng phải đặt lại vấn đề căn bản của chiều hướng kinh tế thế 
                giới. Làm sao có thể tiếp tục chạy theo sản xuất để tiêu thụ, 
                tăng trưởng để tăng trưởng, như một cái xe lao mình về phía 
                trước, không kiểm soát được tốc độ và định hướng của mình? Tiếp 
                tục chiều hướng này liệu có mang lại gì cho hạnh phúc con người, 
                mà xét cho cùng, là mục tiêu tối hậu của cuộc sống? Nhiều người 
                đang tìm kiếm một mẫu mực kinh tế xã hội mới, trong niềm tin 
                chắc chắn rằng chỉ có một sự thay đổi toàn diện, một cuộc cách 
                mạng văn hóa thực sự, mới có thể lôi kéo nhân loại ra khỏi hiểm 
                họa một cơn khủng hoảng lớn trên bình diện địa cầu.  
                
 
                - 
                Vấn đề 
                là làm sao thay đổi hẳn chiều hướng xã hội, để con người làm 
                kinh tế không phải là để chạy theo tiền bạc, làm khoa học không 
                phải để làm chủ thiên nhiên, mà để sống trong hạnh phúc thực sự, 
                hòa hài giữa những con người và vũ trụ.  
 
                - 
                Để kết 
                luận một cách giản dị: đạo Phật và khoa học có thể cùng nhau 
                mang lại chân hạnh phúc cho con người; được hay không, điều đó 
                hoàn toàn tùy thuộc ở cái tâm con người.  
 
                - 
                (Đầu 
                thu 1995) Tài liệu trích dẫn 
                
 
                - 
                (1) 
                S.S. le Dalai Lama, J.C. Carrière. La force du bouddhisme. 
                Robert Laffont 1994  
 
                - 
                (2) 
                Rencontre avec Francisco Varela. Revue Sciences Humaines 
                8-9/1993  
 
                - 
                (3) 
                Trịnh Xuân Thuận. La mélodie secrète. Fayard 1988  
 
                - 
                (4) 
                Journal Le Monde, 
                
                4/5/1995 
                
 
                - 
                (5) 
                Journal Le Monde, Un entretien avec Louis Dumont, 23-24/4/1995 
                
 
                - 
                (6) 
                Heidi & Alvin Toeffler. Créer une nouvelle civilisation: la 
                politique de la troisième vague. Fayard 1995  
 
                - 
                
                Source: BuddhaSasana Home Page http://www.saigon.com/~anson/
 
               
              
              
                - --o0o--
 
               
              
              
             
             | 
   
           
               
       
       |