| 
           
      
  
           
                
            
              
              
                - Thư Viện Chùa Dược Sư
 
                - PHẬT HỌC CƠ BẢN
 
                  
               
              
              
                
                   
                  - 
                  
                  Thập Nhị Nhân Duyên
 
                  
                
                
                   
                  - (Paticca 
                  Samuppàda)
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  Piyadassi Maha Thera
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  Phạm Kim Khánh 
                  dịch
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  (1969)
 
                  
                  
                  ---o0o--- 
                  
                
                - 
                
                 
 
                - 
                
                Nhập đề 
                
 
                - 
                Pháp "Tùy Thuộc Phát 
                Sanh" (Paticca - Samuppàda), hay Thập Nhị Nhân Duyên, là giáo lý 
                căn bản của đạo Phật. Trong khuôn khổ một quyển sách nhỏ, chúng 
                ta không thể nghiên cứu kỹ lưỡng và dông dài một giáo lý vừa sâu 
                sắc vừa thâm diệu như vậy. Ðây chỉ là một cố gắng để trình bày 
                rõ ràng phần nòng cốt của pháp "Tùy Thuộc Phát Sanh", căn cứ 
                trên lời dạy của Ðức Phật. Các chi tiết phức tạp và rườm rà đều 
                được gác lại một bên.
 
                - 
                Pháp Tùy Thuộc Phát 
                Sanh không phải là một bài thuyết giảng cho người thiển trí và 
                người không suy tư, cũng không phải một giáo lý mà ta có thể 
                lãnh hội được bằng cách tìm tòi nghiên cứu và luận lý suông. Hãy 
                lắng nghe lời của chính Ðức Phật dạy:
 
                - 
                "Thâm diệu thay! này 
                A-Nan-Ða (Ananda) [*], pháp "Tùy Thuộc Phát Sanh", pháp này quả 
                thật thâm thâm diệu diệu. Vì không thấu triệt và thông suốt giáo 
                lý này thế gian tựa hồ như một cuồng chỉ rối, một ổ chim, một 
                bụi tre rậm, một đám lát. Vì không thấu triệt và thông suốt giáo 
                lý này, con người không thể vượt qua khỏi đời sống ở những cảnh 
                thấp hèn, không thoát khỏi trạng thái đau khổ, diệt vong và mãi 
                mãi luân chuyển trong vòng luân hồi". -- Mahà Nidàna Sutta, 
                Trường A-Hàm (Digha Nikàya).
 
                - 
                [*] Ðại Ðức Ananda là 
                vị đệ tử hầu cận của Ðức Phật.
 
                - 
                Những ai không thấu 
                hiểu được ý nghĩa thật sự của giáo lý vô cùng quan trọng này lầm 
                tưởng rằng đây là định luật nhân quả có tánh cách máy móc, tự 
                động, hay chỉ giản dị là một sự phát sanh đồng thời, hay nữa, là 
                một điểm đầu tiên của muôn loài vạn vật - vô tri vô giác cũng 
                như hữu giác hữu tri. Nên ghi nhận rằng trong tư tưởng Phật Giáo 
                không có một Nguyên Nhân Ðầu Tiên viết bằng chữ hoa, và pháp Tùy 
                Thuộc Phát Sanh không nhằm đào sâu hay tìm kiếm một nguyên nhân 
                đầu tiên. Ðức Phật quả quyết tuyên bố rằng khởi điểm đầu tiên 
                của kiếp sinh tồn là cái gì không thể quan niệm được [1], 
                và những ý niệm, những khảo sát, và tranh luận tương tợ về một 
                khởi điểm đầu tiên có thể làm loạn trí. [2]
 
                - 
                Nếu ta quả quyết phải 
                có một "Nguyên Nhân Ðầu Tiên" tức nhiên ta cũng phải có quyền 
                đòi hỏi một nguyên nhân cho "Nguyên Nhân Ðầu Tiên" ấy, bởi vì 
                không có gì thoát ra khỏi sự chi phối của định luật điều kiện và 
                nguyên nhân, tức phát sanh do điều kiện, hay nói cách khác muốn 
                có sự phát sanh phải có cái gì khác tạo điều kiện, một định luật 
                thiên nhiên bao gồm toàn thể những gì trong thế gian, ngoại trừ 
                người không trông thấy.
 
                - 
                Theo Aldous Huxley:
 
                - 
                "Những ai đã lầm lạc 
                tin tưởng một nguyên nhân đầu tiên nhứt định không bao giờ có 
                thể trở thành một nhà khoa học. Tuy nhiên, vì không biết khoa 
                học là gì nên họ không ngờ họ đang mất một cái gì. Ở phương Tây, 
                lối giải thích các hiện tượng bằng cách qui chiếu về một nguyên 
                nhân đầu tiên quả không còn hợp thời nữa, dầu ở trường hợp 
                nào... Chúng ta không bao giờ thành công trong việc cải biến kỷ 
                nguyên sắt của chúng ta thành một kỷ nguyên vàng, cho đến khi 
                nào chúng ta từ bỏ tham vọng tìm ra một nguyên nhân duy nhất cho 
                tất cả mọi phiền não trong đời và chấp nhận sự hiện hữu của 
                nhiều nguyên nhân đồng tác hành trong một lúc, chấp nhận sự liên 
                hệ mật thiết, phức tạp, và tương ứng của hành động và phản ứng 
                của hành động". -- (Ends and Means - London - trang 14, 15)
 
                - 
                Một Thần Linh Tạo Hóa 
                cầm quyền thưởng phạt hành động thiện và bất thiện của những gì 
                chính Tạo Hóa ấy tạo nên quả thật không có chỗ đứng trong tư 
                tưởng Phật Giáo. Tuy nhiên, người chủ trương có Thần Linh tin 
                tưởng rằng chính Tạo Hóa Toàn Năng tạo nên chúng sanh và các 
                diễn biến trên thế gian. Người ấy sẽ quả quyết rằng "Ðó là ý 
                muốn của Tạo Hóa", và sẽ khép vào tội bất kính những ai nêu lên 
                thắc mắc về quyền lực của Tạo Hóa. "Ý niệm về Thần Linh" ấy bóp 
                nghẽn tự do của người có khuynh hướng tìm hiểu, phân tách, dò 
                xét tỉ mỉ và muốn nhìn xem cái gì nằm phía sau tầm thấy của cặp 
                mắt thường, cái gì làm chậm trễ tuệ giác.
 
                - 
                Thí dụ như "X" là 
                nguyên nhân đầu tiên. Bây giờ, đã chấp nhận như thế, sự quả 
                quyết ấy có đem ta đến gần mục tiêu giải thoát chút nào không? 
                Chúng ta có nhờ đó mà đến gần cánh cửa đi vào trạng thái giải 
                thoát không? Phật Giáo chủ trương rằng sự vật phát sanh, không 
                phải do một nguyên nhân duy nhất (ekahetuka, độc nhân), hay 
                không nguyên nhân (ahetuka, vô nhân): Mười hai yếu tố của pháp 
                Tùy Thuộc Phát Sanh (Paticca-Samuppàda) và hai mươi bốn tương 
                quan tạo điều kiện (paccaya, duyên) trong sách Patthàna - Nhân 
                Quả Tương Quan - quyển thứ bảy của Tạng Luận, chứng minh rõ ràng 
                rằng sự vật phát sanh do nhiều nguyên nhân (anekahetuka, đa 
                nhân). Trong khi dạy rằng sự vật không phát sanh do một nhân duy 
                nhất hay không nhân nào, Phật Giáo đã đi trước khoa học hiện đại 
                cả hai mươi lăm thế kỷ.
 
                - 
                Vũ trụ hoàn toàn nằm 
                dưới sự chi phối của một định luật thiên nhiên. Ðó là định luật 
                nhân quả, và định luật này không có khởi điểm, chúng ta không 
                biết nó bắt đầu từ lúc nào. Mỗi quả đều trở thành nhân. Nhân 
                sanh trở lại quả. Cứ như thế diễn tiến mãi mãi triền miên (ngày 
                nào mà ái dục và vô minh còn cho phép nó tiếp diễn), Thí dụ như 
                trái dừa là nguyên nhân chánh và gần nhất của một cây dừa và 
                chính cây dừa này trở lại là nguyên nhân của nhiều trái dừa 
                khác. Ông "X" có cha và mẹ, hai người, có bốn ông bà, nội và 
                ngoại, có tám ông bà cố v.v... và như thế định luật nhân quả 
                liên tục kéo dài vô cùng tận, như những lượn sóng trên mặt đại 
                dương.
 
                - 
                Quả thật không thể 
                quan niệm được một khởi điểm. Không ai có thể đi ngược dòng thời 
                gian, phăng trở lên đến điểm khởi nguyên của bất luận vật gì, 
                dầu là khởi điểm của một hột cát đi nữa, nói chi đến nguyên nhân 
                của loài người. Ði tìm khởi điểm của một quá khứ vô thủy quả 
                thật là vô ích và vô nghĩa lý. Ðời sống không phải là một thực 
                thể trường tồn, bất di bất dịch, mà là một sự trở thành không 
                dứt, một sự trôi chảy luôn luôn tiếp diễn của những biến đổi 
                sinh lý và tâm lý, một kết hợp của danh và sắc (nàma-rùpa).
 
                - 
                "Không có lý do để 
                giả định rằng thế gian có một khởi điểm. Ý niệm chủ trương sự 
                vật phải có một khởi điểm thật sự phát sanh do trí tưởng tượng 
                nghèo nàn. Như vậy, có lẽ tôi không cần mất chút thì giờ nào nữa 
                để tìm biện luận về một nguyên nhân đầu tiên". -- (Bertrand 
                Russell, "Why I am not a Christian", London 1958 trang 4)
 
                - 
                Thay vì "Nguyên Nhân 
                Ðầu Tiên", Ðức Phật đề cập đến sự phát sanh do điều kiện. Cái 
                này phát sanh do cái kia tạo điều kiện. Toàn thể thế gian nằm 
                dưới sự chi phối của định luật nhân quả hay, nói cách khác, hành 
                động và hậu quả của hành động. Chúng ta không thể nghĩ đến một 
                vật gì trong võ trụ mà tự nhiên khởi phát, không do cái gì khác 
                làm nguyên nhân hay tạo điều kiện để hiện hữu.
 
                - 
                Như Bá Tước Samuel 
                viết:
 
                - 
                "Không có cái chi 
                tương tợ như sự rủi may. Mỗi diễn biến đều là hậu quả của những 
                diễn biến khác xảy ra trước đó; mỗi việc xảy ra đều là hậu quả 
                của nhiều nguyên nhân trong quá khứ phối hợp lại; và nhân nào 
                tạo quả nấy. Luật nhân quả và luật tương đồng của vạn vật luôn 
                luôn và ở nơi nào cũng chiếm ưu thế". -- (Belief and Action - 
                Penguin Book, trang 16)
 
                - 
                Phật Giáo dạy rằng 
                tất cả các pháp hữu vi - tức các vật cấu tạo - đều khởi sanh, 
                nhất thời tồn tại, và chấm dứt (uppàda, thiti, bhanga, sanh, 
                trụ, diệt) tùy thuộc những điều kiện và những nguyên nhân. Hãy 
                so sánh chơn lý này với lời nói thường được nhắc đến của Ðại Ðức 
                A-La-Hán Assaji [3], một trong năm vị đệ tử đầu tiên của 
                Ðức Phật. Ngài đã đúc kết trọn vẹn giáo lý của Ðức Thế Tôn trong 
                lời giải đáp cho câu hỏi của Upatissa, về sau là Ngài Xá Lợi 
                Phất (Sarìputta),
 
                - 
                Câu hỏi là : "Giáo lý 
                của vị Tôn Sư ra sao? Vị Tôn Sư của Ngài tuyên ngôn như thế 
                nào?"
 
                - 
                Và đây là lời giải 
                đáp:
 
                - 
                "Ye dhammà 
                hetuppabhavà tesam tathagato 
 
                - 
                Aha tesam ca yo 
                nirodho evam vàdi mahàsamano".
 
                - 
                "Về các pháp phát 
                sanh do một nhân,
 
                - 
                Nhân ấy, Như Lai đã 
                chỉ rõ,
 
                - 
                Và Như Lai cũng đã 
                chỉ dạy phương pháp để chấm dứt.
 
                - 
                - Ðó là giáo huấn của 
                bậc Ðại Sa Môn". -- (Mahà Vagga)
 
                - 
                Mặc dầu là vắn tắt, 
                đó là những danh từ đã diễn đạt thuyết Tùy Thuộc Phát Sanh, hay 
                Phát Sanh do Ðiều Kiện, một cách rõ ràng, rành mạch, minh bạch, 
                không thể lầm lẫn.
 
                - 
                Kinh điển ghi nhận 
                rằng trọn tuần lễ đầu tiên liền sau khi thành đạt đạo quả tối 
                thượng Ðức Phật ngồi dưới cội bồ đề, tại Bồ Ðề Ðạo Tràng, để thọ 
                hưởng hạnh phúc giải thoát. Khi bảy ngày đã trôi qua, Ngài xuất 
                thiền và suy niệm về pháp Tùy Thuộc Phát Sanh trong canh đầu 
                theo chiều khởi phát và vạn pháp, [4] như sau: "Khi có 
                cái này, cái kia phát sanh. Với sự phát sanh của cái này, cái 
                kia phát sanh. Tức là: Tùy thuộc nơi Vô Minh, có Hành. Tùy thuộc 
                nơi Hành, có Thức v.v... Ðó là sự phát sanh của toàn thể khối 
                đau khổ này".
 
                - 
                Vào canh giữa của đêm 
                ấy Ðức Phật suy niệm về pháp Tùy Thuộc Phát Sanh theo chiều chấm 
                dứt của vạn pháp, [5] như sau: "Khi cái này không có, cái 
                kia không phát sanh. Với sự chấm dứt của cái này, cái kia chấm 
                dứt. Tức là: với sự chấm dứt rõ ràng của Vô Minh, Hành chấm dứt 
                v.v... Như vậy chấm dứt toàn thể khối đau khổ này".
 
                - 
                ả hai yếu tố phát 
                sanh và chấm dứt của pháp Tùy Thuộc Phát sanh đều có từ đầu đến 
                cuối. Thí dụ, với sự phát sanh của Vô Minh, Hành phát sanh 
                v.v... Với sự chấm dứt của Vô Minh Hành chấm dứt v.v...
 
                - 
                Trong canh cuối cùng, 
                Ðức Phật suy niệm về pháp Tùy Thuộc Phát Sanh theo cả hai chiều, 
                phát sanh và chấm dứt, của vạn pháp, như sau: "Khi có cái này, 
                cái kia phát sanh. Với sự phát sanh của cái này, cái kia phát 
                sanh. Khi cái này không có, cái kia không phát sanh. Với sự chấm 
                dứt của cái này, cái kia chấm dứt. Tức là: tùy thuộc nơi Vô 
                Minh, Hành phát sanh v.v... Như vậy phát sanh toàn thể khối đau 
                khổ này. Do sự chấm dứt rõ ràng của Vô Minh, Hành chấm dứt 
                v.v... Như vậy, chấm dứt toàn thể khối đau khổ này" [6].
 
                - 
                Ðến đây ta có thể tự 
                hỏi: pháp Tùy Thuộc Phát Sanh, hay Thập Nhị Nhân Duyên, quan 
                trọng như vậy, tại sao Ðức Thế Tôn không đề cập đến trong khi 
                Ngài Vận Chuyển Pháp Luân [7]. Trong bài Pháp Ðầu Tiên mà 
                Ðức Phật thuyết giảng cho năm đạo sĩ tại Sarnath, Benares Ngài 
                dạy về Tứ Diệu Ðế mà không nhắc đến Thập Nhị Nhân Duyên. Tại 
                sao? Câu giải đáp: Những điểm chánh yếu được đề cập đến trong 
                bài Pháp Ðầu Tiên là Tứ Diệu Ðế, hay bốn chơn lý: đau khổ, nguồn 
                gốc của đau khổ, chấm dứt đau khổ, và con đường đưa đến chấm dứt 
                đau khổ, tức Bát Chánh Ðạo. Quả thật không có danh từ nào nhắc 
                đến pháp "Tùy Thuộc Phát Sanh". Tuy nhiên, những ai đã thấu đạt 
                ý nghĩa triết lý và đạo lý của pháp Tùy Thuộc Phát Sanh chắc 
                chắn sẽ hiểu rằng mười hai yếu tố của Thập Nhị Nhân Duyên - 
                Paticca - Samuppàda - theo cả hai chiều, phát sanh và chấm dứt 
                (anuloma và patiloma) đều đã được bao gồm trong Tứ Diệu Ðế.
 
                - 
                Theo chiều phát sanh, 
                pháp Tùy Thuộc Phát Sanh - Paticca-Samuppàda - biểu hiện tiến 
                trình của sự trở thành (bhava, hữu) hay nói cách khác, sự xuất 
                hiện hay phát sanh của đau khổ (dukkha, đế đầu tiên) và tiến 
                trình của sự trở thành ấy được tạo điều kiện như thế nào để phát 
                sanh (dukkha-samudaya, nguồn gốc của đau khổ, đế thứ nhì). Suy 
                theo chiều chấm dứt, pháp Tùy Thuộc Phát Sanh đề cập một cách 
                rất minh bạch và giản dị đến sự chấm dứt tiến trình của sự trở 
                thành ấy (dukkha-nirodha, chấm dứt đau khổ, đế thứ ba) và sự 
                chấm dứt những điều kiện bảo tồn tiến trình ấy, tức con đường 
                tiêu trừ đau khổ (dukkha-nirodha gàminì pait padà, con đường 
                chấm dứt đau khổ, đế thứ tư). Về điểm này, chính lời của Ðức 
                Phật dạy được ghi trong bộ Tăng Nhứt A-Hàm (Anguttara Nikàya) 
                là:
 
                - 
                "Và cái gì, này chư 
                Tỳ Khưu, là Chơn Lý Cao Thượng về sự phát sanh đau khổ?
 
                - 
                "Tùy thuộc Vô Minh 
                phát sanh Hành. Tùy thuộc Hành, Thức. Tùy thuộc Thức, Danh Sắc. 
                Tùy thuộc Danh Sắc, Lục Căn. Tùy thuộc Lục Căn, Xúc. Tùy thuộc 
                Xúc, Thọ. Tùy thuộc Thọ Ái. Tùy thuộc Ái, Thủ. Tùy thuộc Thủ, 
                Hữu. Tùy thuộc Hữu, Sanh. Tùy thuộc Sanh, Lão, Tử, phiền não, ta 
                thán, đau khổ, âu sầu và tuyệt vọng. Như vậy toàn thể khối đau 
                khổ phát sanh.
 
                - 
                "Ðiều ấy, này chư Tỳ 
                Khưu, được gọi là Chơn Lý Cao Thượng về sự phát sanh đau khổ.
 
                - 
                "Và cái gì, này chư 
                Tỳ Khưu, là Chơn Lý Cao Thượng về sự chấm dứt đau khổ?
 
                - 
                "Do sự chấm dứt trọn 
                vẹn Vô Minh, Hành chấm dứt. Do sự chấm dứt Hành, Thức chấm dứt 
                v.v... chấm dứt toàn thể khối đau khổ. Ðó, này chư Tỳ Khưu, được 
                gọi là sự chấm dứt đau khổ". -- (Anguttara Nikàya, Tăng Nhứt 
                A-Hàm, 1, 176.)
 
                - 
                Xuyên qua những lời 
                dạy trên chúng ta thấy rõ ràng rằng pháp Tùy Thuộc Phát Sanh - 
                Paticca - Samuppàda cùng với mười hai yếu tố, là giáo huấn của 
                chính Ðức Thế Tôn chớ không phải là một công trình được sáng tác 
                về sau, như có người lầm tưởng. Trong khi chưa thấu hiểu đầy đủ 
                ý nghĩa của pháp Tùy Thuộc Phát Sanh, hay Thập Nhị Nhân Duyên, 
                mà lao mình vào và chụp lấy những kết luận như vậy quả thật 
                không hợp lý và lắm khi còn nguy hiểm.
 
                - 
                Tùy Thuộc Phát Sanh 
                hay giáo lý về sự phát sanh do điều kiện thường được giải thích 
                bằng nhiều danh từ có tính cách thực hành. Nhưng đây không phải 
                là một giáo lý thực tiễn suông mà ta có thể áp dụng vào đời sống 
                thông thường hàng ngày, mặc dầu bề ngoài pháp này có vẻ là như 
                vậy. Chỉ vì để được giản dị và vắn tắt nên lối giải thích thường 
                phải được trình bày như vậy. Người đã quen thuộc với Tam Tạng 
                Kinh (Tipitaka) sẽ hiểu rằng giáo huấn của pháp Tùy Thuộc Phát 
                Sanh bao hàm những gì đưa đến nguyên tắc căn bản của minh giác 
                (nana) và trí tuệ (pannà) trong thiện pháp (Saddhamma). Xuyên 
                qua giáo lý "phát sanh do điều kiện" liên quan đến tất cả sự vật 
                trên thế gian, tức ngũ uẩn, ta có thể nhận thấy phần tinh hoa 
                trong cái nhìn của Ðức Phật vào đời sống.
 
                - 
                Vậy, muốn thấu triệt 
                chơn chánh lối giải thích thế gian của Ðức Thế Tôn, phải thấu 
                đạt vững vàng và trọn vẹn giáo lý nồng cốt của Ngài mà Ðức 
                Assaji đã tóm tắt trong câu "Ye dhamma..." được nhắc đến ở phần 
                trên.
 
                - 
                Giáo lý Tùy Thuộc 
                Phát Sanh không phải là công trình của một oai lực Thần Linh, 
                không phải cái gì được tạo nên. Dầu có Ðức Phật hay không, sự 
                kiện, "cái này có, cái kia trở thành". Do sự phát sanh của cái 
                này, cái kia phát sanh. Cái này không có, cái kia không trở 
                thành. Do sự chấm dứt của cái này, cái kia chấm dứt..." vẫn hiện 
                hữu. Sự Phát Sanh do Ðiều Kiện này tiếp diễn mãi mãi vô cùng 
                tận, không bao giờ gián đoạn, và không bị một nguyên lý hay năng 
                lực nào từ bên ngoài kiểm soát.
 
                - 
                Ðức Phật khám phá 
                chơn lý vĩnh cửu ấy, giải quyết mọi phức tạp của đời sống, và 
                phá tan nỗi bí ẩn của kiếp nhơn sinh bằng cách thấu hiểu trọn 
                vẹn và đầy đủ pháp Tùy Thuộc Phát Sanh cùng với mười hai yếu tố 
                và truyền dạy đến những ai có đủ trí sáng suốt để muốn thấy Ánh 
                Sáng. Ngài truyền dạy với bàn tay mở rộng ra, không giữ lại điều 
                chánh yếu nào.
 
                - 
                Imasmin sati idam 
                hoti - imassupàdà idam uppa jjati,
 
                - 
                Imasmin sati asati 
                idam na hoti - Imassa nirdhà idam nirujjhati.
 
                - 
                Ðây là câu trả lời 
                của Ðức Phật cho Sakuludayi (Trung A-Hàm, Majjhima 11, 32).
 
                - 
                Bây giờ ta hãy tuần 
                tự đề cập đến mỗi yếu tố của pháp Tùy Thuộc Phát Sanh hay Thập 
                Nhị Nhân Duyên (Paticca Samuppàda).
 
                - 
                
                I. Vô Minh (Avijjà)
 
                - 
                Ðiểm thảo luận đầu 
                tiên là Vô Minh, Avijjà (sanskrit là avidyà). Moha, si 
                mê, và annàna không thông suốt hay không có tri kiến, cùng đồng 
                nghĩa với Avijjà.
 
                - 
                Vô Minh (Avijjà) là 
                gì? Ðó là không có tri kiến của bậc Chánh Giác. Nói cách khác, 
                là không thông hiểu Tứ Diệu Ðế. Ðó cũng là không thông hiểu Thập 
                Nhị Nhân Duyên, hay pháp Tùy Thuộc Phát Sanh. Do sự không thông 
                suốt ấy người vô minh duy trì những quan kiến sai lầm, thấy vô 
                thường là vĩnh cửu trường tồn, xem đau khổ là thích thú, vô ngã 
                là linh hồn trường cửu, không có Thần Linh Tạo Hóa mà cho rằng 
                có, ô nhiễm thấy là thanh tịnh và giả cho là thật. Hơn nữa, vô 
                minh là không nhận ra được bản chất kết hợp của ngũ uẩn 
                (pancakkhandha) hay tâm và thân, danh và sắc.
 
                - 
                Vô Minh hay si mê, ảo 
                kiến, là một trong những căn nguyên sanh ra tất cả mọi ô nhiễm, 
                tất cả hành động bất thiện (akusala). Tất cả những ý niệm sai 
                lầm có thể quan niệm được đều là hậu quả của Vô Minh. Không thể 
                có hành động nào, dầu biểu lộ dưới hình thức tư tưởng, lời nói, 
                hay việc làm (thân, khẩu, ý) mà không tùy thuộc nơi, và không 
                phát sanh do Vô Minh. Vì lẽ ấy Vô Minh được kể là vòng khoen đầu 
                tiên của sợi lòi tói Thập Nhị Nhân Duyên (Paticca-Samuppàda). 
                Tuy nhiên, Vô Minh không phải là một khởi điểm đầu tiên, hay là 
                khởi nguyên cùng tột của muôn loài vạn vật. Chắc chắn nó không 
                phải là Nguyên Nhân Ðầu Tiên. Trong tư tưởng Phật Giáo không thể 
                có quan niệm về nguyên nhân đầu tiên. Giáo lý Tùy Thuộc Phát 
                Sanh có thể được hình dung bằng một vòng tròn bởi vì đó là sự 
                tuần huờn của kiếp sinh tồn (bhava cakka, skt cakra, bánh xe của 
                sự trở thành). Trên một vòng tròn, bất luận điểm nào cũng có thể 
                là khởi điểm. Mỗi yếu tố của vòng Thập Nhị Nhân Duyên, và tất cả 
                các yếu tố ấy, đều có thể đứng chung lại bên cạnh một yếu tố 
                khác trong vòng. Do đó không có yếu tố nào tự mình đứng lẻ loi 
                một mình và tác động một cách riêng rẽ, độc lập, không tùy thuộc 
                các yếu tố khác. Tất cả đều tùy thuộc lẫn nhau và không thể tách 
                rời nhau. Không có yếu tố nào độc lập đơn độc. Pháp Tùy Thuộc 
                Phát Sanh là một tiến trình liên tục, không gián đoạn. Trong 
                tiến trình ấy không có cái gì bền vững hay đứng nguyên một chỗ 
                mà tất cả đều quay cuồng. Ðó là sự khởi phát của những điều kiện 
                luôn luôn biến đổi tùy thuộc những điều kiện khác đang dần dần 
                tan biến. Ở đây không tuyệt đối là có sự sinh tồn, cũng không 
                hoàn toàn là không sinh tồn mà chỉ có những hiện tượng trơ trọi, 
                liên tục tiếp diễn (suddha dhammà pavattanti).
 
                - 
                Vậy, Vô Minh, yếu tố 
                đầu tiên trong chuỗi dài những yếu tố, không phải là nguyên nhân 
                đơn độc, duy nhứt, tạo điều kiện cho yếu tố thứ nhì, Hành 
                (Sankhàra), phát sanh. Một cái chơn máy ảnh có ba nhánh bằng 
                nhau và nâng đỡ lấy nhau thì cái máy ảnh gắn trên đó được ngay 
                ngắn vững chắc. Nếu một trong ba nhánh ấy bị sụm thì hai nhánh 
                kia cũng ngả nghiêng. Cùng thế ấy, những yếu tố trong Thập Nhị 
                Nhân Duyên cũng nâng đỡ lấy nhau bằng nhiều cách.
 
                - 
                
                II. Hành (Sankhàra)
 
                - 
                Avijjà paccayà 
                sankhàrà 
                (skt samkàràh), tùy thuộc Vô Minh, phát sanh Hành với đặc tánh 
                đưa đến tái sanh. Danh từ sankhàra còn có một nghĩa khác. Trong 
                câu "sabbe sankhàrà aniccà" hay "aniccà vata sankhàrà" (tất cả 
                các vật cấu tạo đều vô thường), danh từ sankhàra là những vật 
                cấu tạo và phát sanh do điều kiện mà nhà Phật gọi là pháp hữu 
                vi, tức là tất cả những vật phát sanh như hậu quả của những nhân 
                và điều kiện trước đó, và tác động như nhân và điều kiện để cho 
                quả khác phát sanh sau này.
 
                - 
                Trong pháp Tùy Thuộc 
                Phát Sanh (Paticca-Samuppàda) sankhàra chỉ giản dị là tất cả 
                những hành động thiện và bất thiện (kusala-akusala kamma), biểu 
                hiện bằng thân, khẩu, hay ý mà đem lại phản ứng. Rất khó tìm ra 
                một danh từ diễn đạt đầy đủ và chính xác những ý nghĩa bao hàm 
                trong phạm ngữ sankhàra. Vậy ta nên hiểu rằng ở đây nó là những 
                hành động có tác ý và có tánh cách đưa đến tái sanh, hay là 
                những hợp thành của tác ý, hoặc chỉ giản dị là nghiệp (kamma, 
                skt karma).
 
                - 
                Vô Minh (Avijjà) bắt 
                nguồn từ bên trong con người, làm cho con người trở nên mù 
                quáng, không nhận định được hành động của mình đúng theo sự thật 
                và do đó, để cho ái dục lôi cuốn mình đến những hành động mới 
                khác nữa. Nếu không có Vô Minh ắt không có hành động tương tợ 
                (Sankhàra). Không có hành động, do Vô Minh tạo điều kiện để khởi 
                phát, sẽ không có tái sanh. Và toàn thể khối đau khổ sẽ chấm 
                dứt. Ðể chỉ rõ tác dụng của mười hai yếu tố của Thập Nhị Nhân 
                Duyên trong những kiếp sống nối tiếp, công thức này trải dài 
                trên ba kiếp sống nối tiếp, công thức này trải dài trên ba kiếp 
                sống kế tiếp nối liền nhau: quá khứ, hiện tại và tương lai.
 
                - 
                Vô Minh và Hành thuộc 
                về kiếp sống quá khứ. Hành trong sạch có thể đưa đến tái sanh 
                tốt, tức là sanh vào trạng thái nhàn lạc. Hành ô nhiễm có thể 
                đưa đến tái sanh xấu, tức sanh vào trạng thái đau khổ. Ta nên 
                ghi nhận rằng tất cả Hành (Sankhàra) - hành động thiện và bất 
                thiện - đều do Vô Minh tạo điều kiện để phát khởi. Ðến đây một 
                câu hỏi có thể được nêu lên: làm thế nào những hành động phát 
                sanh do Vô Minh tạo điều kiện lại có thể đưa đến tái sanh tốt?
 
                - 
                Từ trạng thái của 
                người phàm tục (còn là chúng sanh trong tam giới: Dục, Sắc, và 
                Vô Sắc) có giới đức (Kalyànaputhujjana) đến người đã chuẩn bị 
                đầy đủ và sẵn sàng để nhập lưu (cùlasotapanna) chí đến ngay khi 
                đạt thành đạo quả A-La-Hán, tất cả những hành động thiện 
                (kusala) chỉ là những hành động trong đó tri kiến chiếm ưu thế 
                hơn si mê và hạnh dứt bỏ hơn ái dục, trong một mức độ nào. Hành 
                động thiện là hậu quả trực tiếp của một sự hiểu biết chơn chánh 
                nào đó của người hành động. Không phải do si mê và ái dục mà 
                người kia khước từ làm một hành động sát sanh v.v... mà chính vì 
                người ấy có đủ trí tuệ để thấy những hậu quả xấu của hành động 
                bất thiện và cũng vì người ấy có những phẩm hạnh như từ bi và 
                giới đức. Ngoại trừ chư Phật và chư vị A-La-Hán, ta không thể 
                hành động với tâm tuyệt đối dứt bỏ và hoàn toàn trí tuệ. Không 
                thể quan niệm được một người thường mà có trí tuệ toàn hảo như 
                vậy. Cũng như Eddington nói: nếu" hiểu biết" có nghĩa là "biết 
                chắc chắn như vậy" thì danh từ "hiểu biết" ắt sẽ có ít cơ hội 
                được người không muốn độc đoán dùng đến. Và nếu "có tâm dứt bỏ"
                [8] là luôn luôn thản nhiên và hoàn toàn xả chấp thì, đối 
                với người không toàn thiện, danh từ này trở nên vô nghĩa. Nhưng, 
                thỉnh thoảng, từng cơ hội, có thể dứt bỏ được. Và đối với người 
                thông minh và đức hạnh, cũng có thể có một mức độ trí tuệ nào 
                vừa thích nghi để hiểu biết cái gì là tốt đẹp, hành động nào là 
                trong sạch và khôn ngoan, khả dĩ đem lại quả lành. Trên thế gian 
                ngày nay, có nhiều việc người ta làm mà không có hy vọng được 
                tán thưởng hay công nhận, có những việc người ta làm vì lòng bi 
                mẫn hay để đem lại sự hiểu biết, hòa bình v.v... Những việc ấy 
                chắc chắn phải được căn cứ trên đức tri kiến và hạnh dứt bỏ, có 
                lẽ không phải theo ý nghĩa đạo lý, tín điều, hay siêu hình suông 
                mà dưới ánh sáng của tư tưởng lành mạnh, không độc đoán, không 
                bị ảnh hưởng của tín điều. Những hành động tốt cũng có thể bị 
                thúc đẩy do những động cơ không hoàn toàn trong sạch, như muốn 
                gặt hái quả lành chẳng hạn. Tuy nhiên, chí đến những trường hợp 
                này, mặc dầu cũng bị lòng tham và si - ở mức độ nào - đượm 
                nhuần, trong những hành động tương tợ - thí dụ như một hành động 
                bố thí - vẫn có sự dứt bỏ, không bám víu để cho ra, và trí tuệ 
                thấy không cho gì hết là xấu, thấy lợi ích của hành động bố thí. 
                Sự hiện hữu của Vô Minh và Ái Dục ở bên trong một người không có 
                nghĩa là người ấy không bao giờ có thể hành động với trí tuệ và 
                với tâm dứt bỏ.
 
                - 
                Bây giờ, ta cũng phải 
                hiểu biết rằng mặc dầu con người có thể thực hiện những hành 
                động thiện mà không có ẩn ý mạnh mẽ ước muốn được đền đáp lại 
                trong kiếp sống này, nhưng có thể sâu ẩn trong tiềm thức vẫn có 
                sự ham muốn được tái sanh tốt đẹp, êm dịu và sâu kín, hay một 
                cảm giác nhẹ nhàng trong sự ước mong được ân thưởng về sau. Lại 
                nữa, mặc dầu con người có thể làm một điều thiện vì lòng từ bi 
                và không ẩn ý vụ lợi, nhưng trong lúc ấy, có thể người kia thiếu 
                sự thấu hiểu trọn vẹn và đầy đủ, bản chất thật sự của đời sống 
                là vô thường, khổ não và vô ngã. Sự kiện không thấu hiểu bản 
                chất thật sự của đời sống tuy không phải thô kịch và hùng mạnh 
                như tâm Si để dẫn đến hành động hung bạo, nhưng cũng đưa đến 
                hành động trong sạch, tạo nghiệp lực đem lại tái sanh tốt. Một 
                tái sanh tốt, dầu vào cảnh Trời đi nữa cũng vẫn là tạm thời, 
                không bền vững, và liền sau khi hết tuổi thọ nơi đó, có thể tiếp 
                theo bằng một tái sanh xấu, đưa vào những trạng thái bất hạnh.
 
                - 
                Sự không thấu hiểu 
                tương tợ thúc đẩy và nhuộm màu hành động thiện. Thí dụ, người 
                kia thực hiện hành động thiện do sự thúc đẩy của lòng ham muốn 
                được gặt quả lành trong một kiếp sống nhàn lạc ở cảnh Trời, hay 
                cảnh người. Ðó là không thấu hiểu bản chất vô thường và khổ não 
                của mọi kiếp sinh tồn trong tam giới. Sự không thấu hiểu ấy trở 
                thành một điều kiện (điều kiện trợ duyên, upanissaya) đưa đến 
                tái sanh tốt. Bằng cách ấy, và bằng các lối khác, Vô Minh có thể 
                tác hành như điều kiện đưa đến tái sanh tốt bằng cách thúc đẩy 
                và nhuộm màu những hành động tốt có tác ý (sankhàra) của một bản 
                chất tại thế. Ðó là bản chất cố hữu của Vô Minh.
 
                - 
                Vô Minh, hay không 
                thấu hiểu bản chất thật sự của đời sống, trước hết là không thấu 
                đạt Tứ Diệu Ðế. Chính vì không thông hiểu những Chơn Lý ấy mà 
                chúng sanh mãi mãi phiêu bạt trong vòng luân hồi, sanh tử triền 
                miên, trở đi trở lại. Ðức Phật dạy:
 
                - 
                "Này chư Tỳ Khưu, 
                chính vì không am hiểu, không thấu đạt Tứ Diệu Ðế mà chúng ta đã 
                chạy mãi trên con đường dài, đã lê bước lang thang trên con 
                đường xa xôi diệu vợi, cả các con và Như Lai... Nhưng khi đã am 
                tường và thấu đạt Tứ Diệu Ðế, khi ái dục duyên theo sinh tồn đã 
                bị diệt tận gốc rễ, những gì đưa đến mọi trở thành mới đều đã bị 
                tiêu trừ thì không còn tái sanh nữa".
 
                - 
                [- Digha Nikàya 
                (Trường A-Hàm)- Mahà Parinibbàna Sutta, (Kinh Ðại Niết Bàn),
                
 
                - 
                - Samyutta Nikàya 
                (Tạp (A-Hàm) câu 430. 
 
                - 
                - Vinaya Pitaka (Tạng 
                Luật) 1, 231.]
 
                - 
                Chỉ có hành động của 
                người đã trọn vẹn tận diệt tất cả những khuynh hướng tiềm tàng 
                (anusaya) và tất cả những chi nhánh khác nhau của nhân đau khổ 
                mới không tạo nghiệp lực dẫn đến tái sanh, bởi vì các hành động 
                ấy không có năng lực tái tạo. Hạng người ấy là bậc A-La-Hán, bậc 
                Toàn Thiện, là hạng người mà nhãn kiến sáng tỏ và tuệ minh sát 
                sâu sắc, thông suốt sâu xa vào tận thâm cung bí hiểm của đời 
                sống, là hạng người đã hoàn toàn dập tắt mọi hình thức ái dục do 
                sự thấu triệt bản chất thật sự của vạn pháp, nằm phía dưới những 
                lớp mặt che ở trên. Người như thế ấy đã vượt lên tất cả sắc 
                tướng, trên tất cả mọi lầm lạc, đã tuyệt đối không thể lầm lẫn. 
                Và chỉ có tuệ Minh Sát (Vipassanà) mới đem lại được khả năng ấy. 
                Vậy, người ấy đã thoát ra khỏi Vô Minh (Avijjà) và hành động của 
                Ngài không đưa đến tái sanh.
 
                - 
                
                III. Thức (Vinnàna)
 
                - 
                Sankhàra paccayà 
                vinnànam 
                (skt vijnàna), tùy thuộc nơi Hành trong kiếp quá khứ, phát sanh 
                Thức (Vinnàna, thức nối liền, hay thức tái sanh). Nói cách khác, 
                tùy thuộc nơi nghiệp thiện hay bất thiện quá khứ Thức được tạo 
                điều kiện để phát sanh trong kiếp hiện tại. Vậy, Thức là yếu tố 
                (nidàna) đầu tiên hay vòng khoen đầu tiên thuộc kiếp sống hiện 
                tại. Vô Minh (Avijjà) và Hành (Sankhàrà) trong quá khứ cùng hợp 
                lại để tạo điều kiện cho Thức (Vinnàna) trong kiếp hiện tại phát 
                sanh. Trong Kinh Mahà Nidàna Sutta của bộ Trường A-Hàm (Dìgha 
                Nikàya) chúng ta thấy tại sao "một khi Vô Minh và Ái Dục bị tận 
                diệt thì không còn hành động thiện và bất thiện nữa, do đó không 
                có thức tái sanh khởi phát trở lại trong một bào thai.
 
                - 
                Như vậy, chúng ta 
                thấy rằng nguyên nhân đưa đến tái sanh là hành động thiện và bất 
                thiện của chính ta chớ không phải là công trình của một nhân vật 
                tối thượng hay Thần Linh Tạo Hóa nào, mà cũng không phải là sự 
                ngẫu nhiên, may rủi.
 
                - 
                Vinnàna này là Thức 
                đầu tiên trong luồng tâm (citta santati) của một kiếp sống 
                (bhava) nên được gọi là patisandhi vinnàna, thức nối liền. Ðây 
                là tái sanh, sanh trở lại, vào trở lại trong một bào thai. Tái 
                sanh là khởi phát, phát sanh, được sanh trở lại trong tương lai 
                (patisandhiti àyatim uppatti). Ðược gọi là hợp lại hay nối liền 
                lại vì Thức này nối liền kiếp sống mới với kiếp vừa qua 
                bhavantara patisandhànato patisandhìti vuccati). Làm dính liền 
                cái mới với cái cũ không để gián đoạn, là cơ năng của sự nối 
                liền lại, hay hợp lại. Vậy, ta nói rằng cơ năng của sự nối liền 
                là làm dính liền lại kiếp sống này với kiếp kia (bhavato 
                bhavassa patisandhànam patisandhi kicam). Thức nối liền 
                (patisandhi vinnàna) là tâm quả (vipàka vinnàna) trong kiếp sống 
                hiện tại nối liền kiếp sống mới với kiếp trước kế đó, và như 
                vậy, cũng được nối liền với vô lượng tiền kiếp của một "chúng 
                sanh tái sanh". Tâm quả này phát sanh tùy thuộc nơi Hành trong 
                kiếp quá khứ.
 
                - 
                Trong Kinh 
                Ànenjasappàya (Trung A-Hàm, 106) Thức Quả (vipàka vinnàna) này 
                được nhắc đến như một "thức nối liền" "samvattanikam vinnànam" 
                khởi phát trong một kiếp sống như một loại tâm quả (vipàka) do 
                nghiệp (kamma) đã tạo trong kiếp sống liền trước đó.
 
                - 
                Khi gọi là "thức nối 
                liền" không phải có một cái thức hay tâm không biến đổi, vẫn giữ 
                nguyên vẹn trạng thái mà không hoại diệt, trải dài suốt châu kỳ 
                của kiếp sinh tồn. Tâm hay thức cũng là pháp hữu vi, cấu tạo, 
                tùy thế, nghĩa là phải có điều kiện để khởi phát. Do đó, tâm 
                không thể trường tồn, bất biến, mà vô thường, biến đổi từng 
                khoảnh khắc. Mỗi nấc tâm, hay chập tư tưởng, phát sanh và hoại 
                diệt, nhường chỗ cho một nấc tâm mới. Và cùng thế ấy, luồng tâm 
                liên tục chảy trôi cho đến khi kiếp sinh tồn chấm dứt. Hiểu một 
                cách, sinh tồn là tâm hay thức. Nếu không có tâm ắt không có 
                "chúng sanh" nào tồn tại trong thế gian hữu giác này.
 
                - 
                Theo các nhà sinh lý 
                học hiện đại, "kiếp sống mới của một người bắt đầu từ khoảnh 
                khắc kỳ diệu khi hột tinh trùng của người cha phối hợp với tế 
                bào trứng, hay minh châu, trong lòng mẹ". Ðó là khoảnh khắc đầu 
                tiên của một kiếp sống. Khoa học chỉ nói đến hai yếu tố vật chất 
                ấy. Phật Giáo đề cập đến yếu tố thứ ba, và yếu tố này hoàn toàn 
                thuộc về tâm.
 
                - 
                Theo Kinh 
                Mahàtanhàsamkhaya Sutta, Majjhima Nikàya (Trung A-Hàm) 38:
 
                - 
                "Do sự phối hợp của 
                ba yếu tố, có mầm sống phát sanh (tức có sự thọ thai). Nếu cha 
                và mẹ hợp nhau mà không nhằm thời kỳ thọ thai của mẹ và không có 
                một chủng tử (gandhabba, chúng sanh đi tái sanh) thì không có 
                mầm sống. Nếu cha mẹ và hợp nhau trong thời kỳ thọ thai của mẹ 
                mà không có một chủng tử (gandhabba) thì cũng không có mầm sống. 
                Nếu cha và mẹ hợp nhau nhằm thời kỳ thọ thai của mẹ và có một 
                chủng tử thì có mầm sống, do sự phối hợp của ba yếu tố."
 
                - 
                Yếu tố thứ ba này 
                (gandhabba hay chủng tử) chỉ là một danh từ khác để gọi thức tái 
                sanh, patisandhi vinnàna. Có một chập tư tưởng cuối cùng (cuti 
                citta) thuộc kiếp sống vừa qua. Tức khắc sau khi chập tư tưởng 
                ấy chấm dứt thì chập đầu tiên của kiếp sống hiện tại khởi phát, 
                gọi là "thức nối liền" (patisandhi vinnàna). Nấc tâm cuối cùng 
                của kiếp sống trước vừa chấm dứt thì nấc tâm đầu tiên của kiếp 
                sống mới khởi phát, nối liền theo. Giữa hai chập tư tưởng, hay 
                nấc tâm ấy không có một khoảng trống, không có một chúng sanh 
                trong bụng hay ở lưng chừng giữa trạng thái chết và tái sanh 
                (antaràbhava hay antaràbhavasatta). Ta phải thấu hiểu phân minh 
                rằng "thức tái sanh" này không phải là một "tự ngã", một "linh 
                hồn", hay một thực thể đơn thuần nào có thể gọi là "Ta" để chịu 
                quả dữ hay hưởng quả lành. Kinh Mahàtanhàsankhaya Sutta có ghi 
                chép diễn biến sau đây:
 
                - 
                Vào thời Ðức Phật, có 
                vị tỳ khưu hiểu biết lầm lạc tên Sàti thường nói rằng: "Theo sự 
                hiểu biết của tôi, Giáo Pháp của Ðức Phật dạy rằng có một cái 
                tâm nguyên vẹn, đi thênh thang vô định, và chuyển sanh (từ kiếp 
                này sang kiếp khác)". Những vị tỳ khưu khác nghe vậy cố gắng 
                giải thích cho tỳ khưu Sàti để dẫn dắt thầy trở về con đường 
                chơn chánh. "Này Ðại Huynh Sàti, không nên nói như thế, không 
                nên làm cho người ta hiểu lầm Ðức Thế Tôn, chớ nên trình bày sai 
                lạc giáo huấn của Ðức Thế Tôn mà cũng không nên nói như thế bởi 
                vì, này Ðại Huynh Sàti, bằng nhiều phương cách khác nhau Ðức Thế 
                Tôn đã giảng giải dài dòng pháp Tùy Thuộc Phát Sanh. Ngài dạy 
                rằng tâm chỉ phát sanh do điều kiện, và ngoại trừ do điều kiện, 
                tâm không thể khởi phát. Tuy nhiên thầy Sàti vẫn cố chấp tà kiến 
                của mình. Câu chuyện được bạch lại với Ðức Phật, Ngài cho gọi 
                Ðại Ðức Sàti đến và hỏi:
 
                - 
                - Này Sàti, có lời 
                tường thuật rằng con đang nuôi dưỡng một tà kiến nguy hại. Ðúng 
                vậy không? Theo lời tường thuật ấy, con nói: theo sự hiểu biết 
                của tôi, Giáo Pháp của Ðức Phật dạy rằng chỉ có một cái tâm và 
                chính cái tâm ấy tiếp tục chạy, tiếp tục diễn tiến, chớ không 
                phải tâm nào khác?
 
                - 
                - Bạch Hóa Ðức Thế 
                Tôn, theo con hiểu, Giáo Pháp của Ngài dạy rằng chính cái tâm ấy 
                tiếp tục chạy, tiếp tục diễn tiến, chớ không phải tâm nào khác.
 
                - 
                - Này Sàti, tâm ấy là 
                gì?
 
                - 
                - Bạch Hóa Ðức Thế 
                Tôn, đó chính là cái tâm làm cho ta nói, thọ cảm, và chứng 
                nghiệm, nay ở đây, mai ở chỗ kia, hậu quả của những hành động 
                lành hay dữ, cao thượng hoặc suy đồi.
 
                - 
                - Nhưng, hỡi con 
                người điên rồ, ai làm cho con hiểu rằng Giáo Pháp của Như Lai 
                truyền dạy là như vậy? Này người cuồng si, phải chăng Như Lai đã 
                giảng giải dông dài và bằng nhiều phương cách rằng tâm khởi phát 
                do những điều kiện? Phải chăng Như Lai hằng dạy rằng ngoại trừ 
                do điều kiện, không có tâm khởi phát? Này con người điên rồ, hôm 
                nay con lại chẳng những trình bày sai lạc giáo lý của Như Lai, 
                vì chính sự lầm lạc của con, mà còn làm tổn hại đến chính con, 
                làm phát sanh nhiều phiền não mà, này người điên cuồng, về sau 
                sẽ đem đến con những điều bất hạnh lâu dài". -- (Majjhima 
                Nikàya, Trung A-Hàm, quyển 1, bài số 38.)
 
                - 
                Theo lời của chính 
                Ðức Phật, pháp Tùy Thuộc Phát Sanh rõ thật là một giáo lý vừa 
                thâm diệu vừa phức tạp, và trong giáo lý khó hiểu này, điểm tế 
                nhị nhứt, thâm diệu nhứt, và khó lãnh hội nhứt là vòng khoen thứ 
                ba, tức là Thức, hay Thức Nối Liền, vinnàna hay patisandhi 
                vinnàna. Chính vòng khoen này giải thích hiện tượng tái sanh.
 
                - 
                
                IV. Danh sắc (Nàma-Rùpa)
 
                - 
                Vinnàna paccayà 
                nàma-rùpam 
                (skt cũng giống vậy), tùy thuộc Thức phát sanh Danh Sắc. Chữ 
                Nàma ở đây có nghĩa là tâm sở (cetasika), hay trạng thái tâm, ta 
                thường dịch là Danh. Nói một cách chính xác, Danh (Nàma) ở đây 
                là ba uẩn: Thọ (vedanàkkhandha, thọ uẩn), (sannàkkhandha tưởng 
                uẩn) và Hành (sankhàrakkhandha, hành uẩn).
 
                - 
                Cái được gọi "chúng 
                sanh" (satta, skt. Sattva) là sự kết hợp của năm uẩn, hay năm 
                nhóm (pancakkhandha) : Sắc, thọ, tưởng, hành, thức (rùpa, 
                vedanà, sannà, sankhàra và vinnàna). Nếu Thức được xem là tâm 
                thì Thọ, Tưởng, và Hành, là thành phần phụ tùy, đồng khởi, đồng 
                diệt với tâm, hay là những yếu tố của cái tâm ấy, gọi là tâm sở. 
                Bây giờ, khi chúng ta nói tùy thuộc Thức, Danh Sắc (Nàma-Rùpa) 
                phát sanh thì Sắc ở đây là thể xác vật chất cùng với những thành 
                phần và khả năng của nó còn Danh là những yếu tố của tâm như đã 
                đề cập ở phần trên. Nói cách khác, vinnàna paccayà nàma-rùpam có 
                nghĩa là: tùy thuộc nơi Thức, phát sanh ba yếu tố tinh thần phụ 
                tùy (Thọ, Tưởng, Hành) hợp thành "Danh" cùng với phần thể xác 
                vật chất, trong giai đoạn thai bào đầu tiên.
 
                - 
                Tâm, hay thức, và 
                những yếu tố của tâm, tức tâm sở (citta và cetasika) luôn luôn 
                liên quan mật thiết với nhau và tùy thuộc lẫn nhau. Tâm không 
                thể khởi phát và hoạt động mà không tùy thuộc nơi tâm sở 
                (cetasika). Ngược lại, tâm sở cũng không thể khởi phát và hoạt 
                động nếu không có tâm. Cả hai, tâm và tâm sở, phát sanh đồng 
                thời (sahajàta paccaya) và không thể tồn tại một cách độc lập.
 
                - 
                
                V. Lục căn (Salàyatana)
 
                - 
                Nàma-rùpam paccayà 
                salàyatanam 
                (skt cũng giống vậy), 
                tùy thuộc nơi Danh Sắc, phát sanh Lục Căn, tức ngũ căn (nhãn, 
                nhĩ, tỷ, thiệt, thân) và ý căn (manàyatana). Manàyatanà là một 
                danh từ chung bao hàm nhiều loại tâm khác nhau, thí dụ như năm 
                loại tâm liên quan đến giác quan (nhãn thức, nhĩ thức v.v...) và 
                nhiều loại tâm khác của ý thức. Do đó "trong lục căn năm là hiện 
                tượng vật lý như mắt, tai, mũi, lưỡi v.v... còn căn thứ sáu đồng 
                nhứt với Thức". [9]
 
                - 
                Cơ năng của Thức 
                (vinnàna) có nhiều loại.
 
                - 
                Yếu tố thứ ba của 
                Vòng Thập Nhị Nhân Duyên đã được gọi là Thức. Bây giờ, một lần 
                nữa, ta lại nghe nhắc đến ý căn, manàyatana, một danh khác đồng 
                nghĩa với Thức. Ở đây manàyatana chỉ là những loại tâm khác 
                nhau. Nên ghi nhớ rằng tâm, hay thức, không phải là cái gì 
                thường tồn bất biến mà luôn luôn biến đổi, luôn luôn trở thành 
                cái gì khác và không thể tồn tại y hệt trong hai khoảnh khắc kế 
                tiếp. Một loại tâm phát sanh rồi tức khắc hoại diệt, nhường chỗ 
                lại cho loại tâm mới.
 
                - 
                "Các hiện tượng tâm 
                linh ấy chỉ là sắc thái khác nhau của những đơn vị tâm phát sanh 
                và tức khắc biến mất, giống như những cái nhoáng trong đêm tối"
                [10]
 
                - 
                Nếu không có Danh - 
                Sắc tức không thể có Lục Căn phát sanh. Vì có Sắc (Rùpa) mới có 
                ngũ quan, (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân), và vì có Ý Căn 
                (Manàyatana), tức những loại tâm khác nhau, ngũ quan mới hoạt 
                động. Như vậy, Danh - Sắc và Lục Căn nhất định phải liên quan 
                với nhau và tùy thuộc lẫn nhau, không thể tránh.
 
                - 
                
                VI. XÚC (Phassa)
 
                - 
                Salàyatana paccayà 
                phasso 
                (skt sparsa), tùy thuộc nơi Lục Căn phát sanh Xúc. Trong câu này 
                chúng ta thấy đề cập đến Lục Căn (sáu àyatanas) nhãn, nhĩ v.v... 
                tức là sáu căn nằm bên trong chúng ta (ajjhàttika - àyatana). 
                Bên ngoài thể xác vật chất này có năm đối tượng (cũng gọi là 
                cảnh), tương xứng theo thứ tự với năm giác quan: sắc, thinh, 
                hương vị, xúc; và sau cùng là pháp, đối tượng hay cảnh của Ý. 
                Sáu ngoai cảnh này được gọi là Lục Trần (bàhira-àyatana). Lục 
                Trần là thức ăn đối với Lục Căn của con người. Do đó Lục Căn và 
                Lục Trần (bàhira-àyatan). Lục Trần là thức ăn đối với Lục Căn 
                của con người. Do đó Lục Căn và Lục Trần liên quan mật thiết với 
                nhau. Mặc dầu có sự liên hệ thuộc về cơ năng giữa khả năng nhạy 
                của Lục Căn và đối tượng của nó là Lục Căn, chỉ do Thức 
                (Vinnàna) mới có sự hay biết. Vì lẽ ấy ta nói rằng "thức phát 
                sanh do mát (nhãn) và hình sắc (sắc) được gọi là nhãn thức".
 
                - 
                Khi có đủ cả hai yếu 
                tố, mắt và hình sắc, nhãn thức phát sanh tùy thuộc nơi hai yếu 
                tố ấy. Cùng thế ấy khi có tai (nhĩ) và tiếng động (thinh), mũi 
                (tỷ) và mùi (hương) v.v... tư tưởng (ý) và đối tượng của ý 
                (pháp).
 
                - 
                Khi mắt, hình sắc, và 
                nhãn thức hợp lại, sự trùng hợp ấy là Xúc. Do Xúc phát sanh Thọ, 
                v.v... [11]
 
                - 
                Như vậy, rõ ràng Xúc 
                (Phassa) phát sanh do cả hai, Lục Căn và Lục Căn, tạo điều kiện.
 
                - 
                Tóm tắt, tùy thuộc 
                nơi Lục Căn phát sanh Xúc có nghĩa là: nhãn thúc páht sanh do 
                mắt, nhĩ xúc phát sanh do tai, tỷ xúc phát sanh do mũi, thiệt 
                xúc phát sanh do lưỡi, thân xúc phát sanh do cơ thể, và pháp xúc 
                phát sanh do tâm, tạo điều kiện.
 
                - 
                
                VII. THỌ (Vedanà)
 
                - 
                Phassa paccayà vedanà 
                (skt cũng giống như pàli), tùy thuộc nơi Xúc phát sanh Thọ 
                (Vedanà). Có sáu loại Thọ, là Thọ phát sanh do nhãn xúc, Thọ 
                phát sanh do nhĩ xúc, Thọ phát sanh do tỷ xúc, Thọ phát sanh dho 
                thiệt xúc, Thọ phát sanh do thân xúc, Thọ phát sanh do ý xúc.
 
                - 
                Thọ, hay cảm giác, có 
                thể là hạnh phúc (sukha, lạc), có thể là đau khổ (dukkha, khổ), 
                hoặc vô ký, tức không hạnh phúc, không đau khổ (adukkhamasukha 
                upekkhà).
 
                - 
                Như đã đề cập ở phần 
                trên, một đối tượng của giác quan không bao giờ có thể được ghi 
                nhận nếu không có một loại thức tương ứng. Nhưng khi hội đủ ba 
                yếu tố (giác quan, đối tượng của giác quan, và thức tương ứng), 
                tức nhiên có Xúc. Ðồng thời với sự phát sanh của Xúc, Thọ 
                (Vedanà) cũng khởi phát, và không có quyền lực hay năng lực nào 
                có thể ngăn chận không cho Thọ phát sanh một khi đã có Xúc. Ðó 
                là bản chất của Xúc và Thọ. Sự chứng nghiệm một quả lành hay dữ, 
                do những hành động thiện hay bất thiện hiện tại hay quá khứ tạo 
                nên, là một trong những điều kiện chánh yếu làm cho Thọ có thể 
                phát sanh.
 
                - 
                Trong khi thấy một 
                hình sắc, nghe một âm thanh, hửi một mùi, nếm một vị, sờ chạm 
                một vật, hay nảy sanh một ý nghĩ, con người có một loại gảm 
                giác, hay Thọ. Nhưng ta không thể nói rằng tất cả mọi chúng sanh 
                đều cảm một loại Thọ giống nhau trước một đối tượng giống nhau. 
                Một đối tượng có thể tạo Thọ lạc cho người này mà gây Thọ khổ 
                cho người kia, và Thọ vô ký cho một người khác nữa. Lại nữa, 
                cùng một người và một đối tượng, Thọ có thể khác nhau trong hai 
                thời kỳ hay hai hoàn cảnh khác nhau. Ðối tượng nọ đã có gợi cho 
                ta một loại Thọ khổ lúc nào, nay có thể lại tạo cho ta Thọ lạc, 
                trong một hoàn cảnh mới, trước một bối cảnh hoàn hoàn khác hẳn, 
                như điều kiện địa dư, khí hậu v.v... Như vậy, chúng ta đã hiểu 
                Xúc tạo điều kiện cho Thọ phát sanh ra sao.
 
                - 
                
                VIII. ÁI (Tanhà)
 
                - 
                Vedanà paccayà tanhà
                (skt. 
                trsnà), tùy thuộc nơi Thọ phát sanh Ái. Ái, bắt nguồn, khởi 
                nguyên, và phát sanh từ Thọ. Ái (Tanhà) bao gồm tất cả những 
                hình thức thèm khát, tham ái, khát vọng, ước mong, dục vọng, ham 
                muốn, nóng lòng, bám bíu, luyến ái, thiên về. Ðó là một ít, 
                trong rất nhiều ý nghĩa của danh từ tanhà mà, theo lời của Ðức 
                Phật, là nguyên nhân đưa đến Hữu (bhavanetti, sự trở thành, sự 
                biến đổi). Hữu biểu hiện dưới hình thức dukkha, đau khổ, băn 
                khoăn, và đó là loại Thọ mà chính ta đang chứng nghiệm. Kẻ thù 
                của toàn thể thế gian là Ái (Tanhà). Xuyên qua Ái tất cả phiền 
                não đến với chúng sanh. Nhơn loại bị vướng víu trong cảnh bấn 
                loạn rối reng. Do sự thấu hiểu rõ ràng và minh bạch bản chất của 
                Ái, nguồn gốc của Ái, sự chấm dứt Ái, và con đường chơn chánh 
                đưa đến sự chấm dứt Ái, ta tự tháo mở, tự gỡ rối, và làm cho 
                hoàn cảnh trở nên quang đãng.
 
                - 
                Vậy, Ái là gì? Chính 
                Ái làm cho chúng sanh "trở thành trở lại", "sanh trở lại", nay 
                đây mai đó, cùng với khát vọng đi tìm dục lạc, mãi mãi chạy theo 
                những thú vui mới.
 
                - 
                Có ba loại Ái (Tanhà) 
                là kàma-tanhà, Ái duyên theo nhục dục ngũ trần, bhava-tanhà, Ái 
                duyên theo sự sinh tồn, và vibhava-tanhà, Ái duyên theo sự tuyệt 
                diệt. [12] 
 
                - 
                "Ái bắt nguồn từ đâu, 
                và phát sanh ở đâu? Nơi nào có thỏa thích và dục lạc, nơi đó có 
                Ái bắt nguồn và phát sanh. Sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, có 
                thỏa thích và dục lạc. Vậy, Ái bắt nguồn từ đó và phát sanh ở 
                đó". [13] 
 
                - 
                Khi Ái bị chướng ngại 
                thì trở thành phẫn nộ và bất toại nguyện.
 
                - 
                "Ái dục sanh sầu 
                muộn. Ái dục sanh lo sợ. Người đã trọn vẹn dập tắt ái dục không 
                còn sầu muộn, càng ít lo sợ". [14] 
 
                - 
                Con người luôn luôn 
                bị thích thú và dục lạc thu hút. Trong khi mưu tìm thích thú và 
                dục lạc, con người không ngừng chạy theo, và cố bám lấy những 
                đối tượng tương ứng của Lục Căn, tức Lục Trần. Nhưng ít khi con 
                người nhận thức rằng không có số lượng sắc, thinh, hương, hay 
                vị, xúc, pháp, nào có thể hoàn toàn thỏa mãn mắt, tai, mũi, 
                lưỡi, thân, ý. Trong khi mãnh liệt khát khao được có quyền sở 
                hữu, hay được thỏa mãn tham vọng, con người càng tự ràng buộc 
                mình vào bánh xe luân hồi, càng bị giày vò xô xát và khổ sở quằn 
                quại, vướng mắc trong những cây căm của vòng bánh xe. Và chính 
                con người đã khóa chặt cánh cửa đưa vào trạng thái giải thoát 
                cuối cùng. Ðức Phật rất thiết tha trong việc chận đứng cuộc chạy 
                đua điên rồ để rượt bắt dục lạc này. Ngài khuyên dạy:
 
                - 
                "Dục lạc là trói 
                buộc, là thỏa thích trong chốc lát
 
                - 
                Mà không mùi vị, và 
                dẫn đến đau khổ.
 
                - 
                Bậc trí giả nhận thức 
                rằng
 
                - 
                Ðó là miếng mồi đã 
                được móc vào lưỡi câu".
 
                - 
                -- (Sutta Nipàta, câu 
                61)
 
                - 
                Tất cả khoái lạc t 
                rần tục đều tạm bợ, nhứt thời. Giống như những viên thuốc độc 
                bọc đường, nó chỉ làm cho ta thất vọng, chỉ lừa phỉnh ngầm hại 
                ta.
 
                - 
                Như đã được ghi nhận 
                ở phần trên, khi Ái duyên theo nhục dục ngũ trần thì gọi là "ái 
                dục", khi Ái có liên quan đến sự tin tưởng vào tánh cách trường 
                tồn vĩnh cửu của kiếp sinh tồn thì được gọi là "ái duyên theo 
                kiếp sinh tồn vĩnh cửu", đó là sassata ditthi, thuyết vĩnh cửu 
                (thường kiến). Khi Ái có liên quan đến sự tin tưởng vào tánh 
                cách tuyệt diệt của kiếp sinh tồn, sau kiếp này, tức là tin rằng 
                sau kiếp sống này không có gì còn tồn tại, sau khi chết thì tất 
                cả đều trở nên hư vô, thì được gọi là "ái duyên theo sự tuyệt 
                diệt", hay uccheda-ditthi, thuyết tuyệt diệt (đoạn kiến).
 
                - 
                Không phải chỉ có Thọ 
                lạc, hay cảm giác vui và sung sướng, mới tạo điều kiện cho Ái 
                phát sanh. Ái cũng phát sanh tùy thuộc nơi Thọ khổ, tức buồn và 
                đau đớn. Trong cơn phiền não hay đau đớn con người thèm khát 
                được thoát ra khỏi cảnh bất hạnh ấy và mong mỏi, nóng lòng, ước 
                muốn, được hạnh phúc an vui. Tóm tắt, người nghèo nàn thiếu 
                thốn, người bịnh hoạn, ươn yếu, tật nguyền - những người đau khổ 
                - khao khát (tức Ái) được vui vẻ, an toàn. Còn người giàu có, 
                khỏe mạnh, và đã có nếm mùi hạnh phúc, người đã phần nào lướt 
                qua khỏi đau khổ và thất vọng, cũng nuôi dưỡng ái dục. Hạng 
                người sau này vẫn khao khát được có thêm thích thú, và có thêm 
                nữa. Như vậy, ái dục không khi nào được thỏa mãn hoàn toàn. Cũng 
                như đàn bò thả ăn ngoài đồng, luôn luôn đi tìm đám cỏ mới, con 
                người luôn luôn chạy theo những thích thú tạm bợ mới và luôn 
                luôn châm dầu vào để nuôi dưỡng và bảo trì ngọn lửa của kiếp 
                sinh tồn. Lòng tham của con người quả thật không có trật tự, 
                không bao giờ biết là đủ.
 
                - 
                Tất cả đều bị thiêu 
                đốt. Tất cả đều nằm trên ngọn lửa. Và cái "tất cả" ấy là gì mà 
                nằm trên ngọn lửa và đang bị thiêu đốt? Ngũ quan và ngũ trần 
                đang bị thiêu đốt. Tâm và tư tưởng, ý và pháp, đang bị thiêu 
                đốt. Ngũ uẩn có đặc tánh cố bám và bảo thủ (panca 
                upàdànakkhandhà) đang bị thiêu đốt. Và "tất cả" đang bị thiêu 
                đốt bởi ngọn lửa nào? Bởi lửa tham ái, lửa sân hận, và lửa si 
                mê.
 
                - 
                Ngày nào còn nhiên 
                liệu thì lửa còn cháy. Càng châm nhiều nhiên liệu thì lửa càng 
                cháy mạnh. Ngọn lửa của đời sống cũng dường thế ấy. Ái dục là 
                một ngọn lửa không bao giờ biết thỏa mãn. Không bao giờ có ngọn 
                lửa nào biết tri túc. Mặc dầu cháy to đến đâu, nếu ta châm thêm 
                nhiên liệu thì nó càng cháy to thêm nữa, không bao giờ biết là 
                đủ, không bao giờ tự mình biết ngừng, khi còn nhiên liệu. Ðó là 
                bản chất của ô nhiễm ái dục. Ðứng về phương diện cảnh giới, ái 
                dục theo liền với ta mãi đến cảnh giới cao nhất của kiếp sinh 
                tồn (trong tam giới). Còn về luồng tâm thì nó đeo dính theo ta 
                đễn ngưỡng cửa của các bậc Thánh Nhơn, chí đến tâm chuyển tánh 
                (gotrabhu citta), tức loại tâm chuyển tiếp từ phàm đến thánh. 
                Nơi nào không có Ái (Tanhà) tức nhiên cũng không có "ái dục 
                duyên theo ngũ trần" và nơi nào không còn Ái nơi ấy tất cả phiền 
                não cũng lụn tàn, không khác nào ngọn lửa đã cạn nhiên liệu.
 
                - 
                Ta chỉ nhận thức tánh 
                cách tai hại của loại dây leo ái dục đượm nhuần chất độc này khi 
                đau khổ đến với ta. Trước đó ta không biết. Và loại dây này đeo 
                dính và quấn tròn quanh tất cả những ai chưa phải là A La Hán, 
                tức là bậc hoàn toàn trong sạch, đã diệt tận gốc rễ mọi mầm móng 
                si mê. Ái dục càng mạnh, đau khổ càng sâu đậm. Khao khát bao 
                nhiêu, phiền não bấy nhiêu. Sầu muộn là moín nợ mà nhất định ta 
                phải trả khi đã nuôi dưỡng ái dục. Vậy, hãy nhận thức ngay từ 
                bây giờ rằng ái dục là kẻ thù độc hại nhứt của chúng ta ở đây, 
                trong vòng luân hồi, và chính nó đã lôi cuốn ta vào những kiếp 
                sinh tồn liên tục lập đi lập lại, chính nó đã "xây dựng cái nhà 
                cho ta".
 
                - 
                Khi Ðức Phật đắc quả 
                Vô Thượng, Chánh Ðẳng Chánh Giác, Ngài thốt lên những lời hoan 
                hỉ sau đây:
 
                - 
                "Xuyên qua nhiều kiếp 
                sống, Như Lai thênh thang đi trong vòng luân hồi để tìm, nhưng 
                không gặp, người thợ cất nhà này. Phiền muộn thay, đời sống 
                triền miên tiếp diễn.
 
                - 
                Này hỡi người thợ làm 
                nhà! Ngươi đã bị bắt gặp. Ngươi không con cất nàh nữa. Tất cả 
                rui mè của ngươi đã gãy. Cây đòn dông của ngươi cũng bị phá tan.
 
                - 
                Tâm của Như Lai đã 
                thành đạt trng thái vô vi (Niết Bàn).
 
                - 
                Mọi hình thức ái dục 
                đã hoàn toàn chấm dứt".
 
                - 
                -- Kinh Pháp Cú, câu 
                153, 154.
 
                - 
                
                IX. THỦ (Upàdàna)
 
                - 
                Tanhà paccayà 
                upàdànam 
                (skt cũng vậy), tùy thuộc nơi Ái phát sanh Thủ. Ðó là trạng thái 
                tâm (tâm sở) luyến ái, bám vào, và nắm chặt lấy đối tượng. Thủ 
                là Ái ở cao độ. Vì Thủ mà con người phải làm nô lệ cho khát vọng 
                của mình và rơi vào cái lưới mà chính mình đã dệt bằng lòng khao 
                khát dục lạc, giống như con nhộng nằm trong cái kén rối nùi mà 
                chính nó đã làm ra.
 
                - 
                Thủ (Upàdàna, sự bám 
                bíu, đeo níu) có bốn là:
 
                - 
                1. Bám bíu vào khoái 
                lạc vật chất (kàmma-upàdàna);
 
                - 
                2. Bám bíu vào những 
                quan kiến sai lầm và bất thiện (ditthi-upàdàna);
 
                - 
                3. Bám bíu vào những 
                nghi thức bề ngoài, cúng tế và lễ bái (sìlabbata-upàdàna), tin 
                rằng những nghi thức này có thể đưa đến giải thoát;
 
                - 
                4. Bám bíu vào tự 
                ngã, xem như một thực thể đơn thuần trường tồn bất biến (attavà 
                upàdàna).
 
                - 
                Tóm lại, upàdàna là 
                gắn bó, bám chặt vào sự thỏa thích (kama-upàdàna), trong tất cả 
                những cảnh giới sinh tồn và gắn bó, bám chặt vào tà kiến 
                (ditthi-upàdàna). Hai điểm, thứ ba và thứ tư (sìlabbata và 
                attavàda) đã được hàm xúc trong điểm thứ nhì (ditthi-upàdàna).
 
                - 
                Danh từ kàma trong 
                kàma-upàdàna bao gồm cả hai ái dục, tức lòng khao khát dục lạc 
                (kilesa kàma), và đối tượng của dục lạc (vatthukàma). Khi lòng 
                khao khát này tăng trưởng đến một mức độ cao thì nó trở thành 
                kàma-upàdàna. Con người thường nuôi dưỡng những tư tưởng ái dục, 
                và tâm si của con người nhiều hay ít che lấp những tư tưởng ấy. 
                Ta càng không nhận diện được những tư tưởng ái dục ấy thì chúng 
                càng tăng trưởng, càng trở nên hùng mạnh, đến độ ngoan cố, ương 
                ngạnh, càng cố bám chặt, Thủ (upàdàna).
 
                - 
                Tất cả những quan 
                kiến sai lầm (ditthi, tà kiến) vào thời Ðức Phật có thể xếp vào 
                hai loại là đoạn kiến (uccheda ditthi), chủ trương thuyết tuyệt 
                diệt, tức cho rằng chết là hết, sau kiếp sống này là hư vô, 
                không còn gì sẽ tồn tại, và thường kiến (sassata ditthi), chủ 
                trương có linh hồn trường cửu, bất diệt. Ðối với một vài người, 
                nhứt là hàng trí thức, đôi khi từ bỏ một quan kiến còn khó hơn 
                là từ bỏ một khoái lạc vật chất. Trong tất cả những quan kiến 
                sai lầm sự tin tưởng vào linh hồn, hay tự ngã, xem như một thực 
                thể đơn thuần và trường cửu (atta vàda upàdàna) là mạnh nhứt, ăn 
                sâu và bám chặt nhứt.
 
                - 
                Không phải không có 
                những lý do vững chắc mà Ðức Phật bác bỏ ý niệm về một linh hồn 
                hay tự ngã trường cửu. Trong sự biến đổi liên tục của danh và 
                sắc, hai thành phần luôn luôn sanh - diệt diệt - sanh và không 
                thể tồn tại in hệt trong hai khoảnh khắc kế tiếp, Ðức Phật không 
                thể nhận ra một cái gì giống như một linh hồn vĩnh cửu và bất 
                diệt. Nói cách khác, ngài không thể tìm ra một linh hồn đơn 
                thuần, nguyên vẹn, trong chúng sanh không ngừng biến đổi. Do đó, 
                Ðức Tôn Sư quả quyết phủ nhận một tự ngã (attà) dầu ở trong ngũ 
                uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) hay bất luận ở một nơi nào 
                khác. Ngài dạy:
 
                - 
                "Tất cả đều không có 
                một tự ngã đơn thuần (attà) hoặc cái gì khác mà có bản chất của 
                một tự ngã đơn thuần".
 
                - 
                Sunnam idam attena và 
                attaneiyena và.
 
                - 
                Nếu quan kiến sai lầm 
                này được dứt bỏ, tất cả những tà kiến khác đương nhiên cũng chấm 
                dứt.
 
                - 
                
                X. HỮU (Bhava) 
 
                - 
                Upàdàna paccayà bhavo 
                (skt cũng cùng một chữ), tùy thuộc nơi Thủ phát sanh Hữu 
                (Bhava). Hữu có hai, và phải được xem là hai tiến trình: tiến 
                trình của nghiệp (kamma-bhava), và tiến trình tái sanh xem như 
                hậu quả của nghiệp (upapatti bhava). Kamma bhava, tiến trình của 
                nghiệp, là những hành động thiện và bất thiện đã được tích trữ. 
                Về phương diện nghiệp báo, đó là phần "tích cực của đời sống", 
                Upapatti bhava là phần tiêu cực, về phương diện nghiệp báo và vô 
                ký, về phương diện đạo đức của đời sống". Ðó là tiến trình tái 
                sanh trong kiếp sống kế, xem như hậu quả của nghiệp. Kiếp sống 
                kế có thể diễn tiến trong bất luận cảnh giới nào: Dục (kàma 
                bhava), Sắc (rùpa bhava), hay Vô sắc (arùpu bhava).
 
                - 
                Trong câu avijjà 
                paccayà sankhàrà, tùy thuộc nơi Vô Minh, Hành phát sanh, chữ 
                Hành được giải thích là những hành động thiện và bất thiện 
                (kamma, nghiệp). Nếu vậy, có phải chăng ở đây ta lập lại một 
                giai đoạn đã có trải qua, vì kamma bhava, Hữu, được ghi nhận ở 
                đây cũng là hành động thiện và bất thiện? Nên hiểu rằng pháp Tùy 
                Thuộc - Phát Sanh, Paticca - Samuppàda, không phải chỉ đề cập 
                vỏn vẹn đến kiếp sống hiện tại mà cũng liên quan đến ba kiếp: 
                quá khứ, hiện tại, và tương lai. Ở câu trước, Hành là nghiệp, 
                tức những hành động thiện và bất thiện, trong quá khứ. Kiếp sống 
                hiện tại thùy thuộc những hành động quá khứ ấy. Trong câu này, 
                upàdàna paccayà bhavo, Hữu là nghiệp, tức hành động thiện và bất 
                thiện, thuộc kiếp sống hiện tại, và những hành động trong hiện 
                tại này tạo điều kiện cho kiếp sống tương lai. Upàdàna paccayà 
                bhavo có nghĩa: Thủ là điều kiện để tiến trình nghiệp và tiến 
                trình tái sanh xem như hậu quả của nghiệp khởi phát.
 
                - 
                
                XI. SANH (Jàti)
 
                - 
                Bhava paccayà jàti 
                (skt cũng cùng một chữ), tùy thuộc nơi Hữu, Sanh khởi phát. Ở 
                đây chữ Sanh không có nghĩa là hành động lâm bồn, hay cái sanh 
                thật sự, ra em bé, mà là sự phát hiện của năm uẩn (sắc, thọ, 
                tưởng, hành, thức) trong lòng bà mẹ ngay lúc thọ thai. Chính 
                kamma bhava tạo điều kiện cho tiến trình Sanh này.
 
                - 
                Ái và Thủ (hay tác ý 
                bám bíu) trong kiếp quá khứ đưa đến tái sanh ở hiện tại. Ái và 
                Thủ (Tanhà Upàdàna) trong kiếp hiện tại đưa đến tái sanh trong 
                tương lai. Theo giáo lý của Ðức Phật, chính tác ý (cetanà) phân 
                chia, làm cho chúng sanh cao hay thấp.
 
                - 
                "Chúng sanh là người 
                thừa kế của chính hành động mình, là người mang theo hành động 
                của mình, và hành động của mình là cái bào thai từ đó chúng sanh 
                được sanh ra" -- (Majjhima 135).
 
                - 
                Chỉ xuyên qua hành 
                động của mình chúng sanh mới có thể tự biến cải từ xấu ra tốt, 
                tự tạo trở lại, và thành đạt giải thoát của chính mình ra khỏi 
                phiền não. Ðó là con đường duy nhứt.
 
                - 
                Chúng ta đang gặt hái 
                những gì chính ta đã gieo trồng trong quá khứ. Ðôi khi ta cũng 
                đang gặt hái ở đây những gì ta gieo trong chính kiếp sống này, 
                và ta cũng hiểu biết như thế. Cùng một lối ấy, hành động của 
                chúng ta trong hiện tại đang uốn nắn tương lai của chúng ta, và 
                chúng ta bắt đầu thấu hiểu vị trí của mình trong võ trụ bí hiểm 
                này. Nếu trong đêm tối dài dẳng của vòng luân hồi chúng ta không 
                tự tạo cho mình hoàn cảnh hiện tại, xuyên qua Vô Minh, Ái Dục và 
                Thủ, thì tại sao có sự chênh lệch rất xa giữa các chúng sanh mà 
                ta có thể nhìn thấy trong thế gian ngày nay? Có thể quan niệm 
                được chăng một cái tâm, duy nhứt, đủ vĩ đại, đủ bao quát và khúc 
                chiết, để tạo nên thế gian muôn mặt, muôn màu sắc, và thiên hình 
                vạn trạng, đang bao quanh chúng ta?
 
                - 
                Như vậy, nghiệp báo 
                là hệ luận của tái sanh. Ðàng khác, tái sanh là hệ luận của 
                nghiệp báo. Ðến đây ta có thể tự hỏi: nếu nghiệp là nguyên nhân 
                tạo duyên đưa đến tái sanh và nếu Phật Giáo quả quyết phủ nhận 
                một linh hồn hay một tự ngã siêu việt thì làm sao tiến trình của 
                nghiệp có thể đưa đến tái sanh?
 
                - 
                "Không bao giờ có một 
                năng lực nào tan biến mất tiêu. Và không có lý do nào để nghĩ 
                rằng năng lực đã biểu hiện trong mỗi chúng sanh dưới hình thức 
                tâm và thể xác, danh và sắc, lại có thể tan biến mất tiêu. Năng 
                lực ấy phải luôn luôn biến đổi. Chính ngay trong hiện tại, vào 
                giờ phút này, nó cũng đang biến đổi, từng chập, từng khoảng 
                khắc, trong đời sống của chúng ta. Ðến lúc ta chết nó cũng không 
                chấm dứt. Luồng sinh lực tâm linh chỉ được đặt trở lại vào vị 
                trí mới, được đặt trở lại trong những điều kiện hòa hợp, tương 
                ứng với tính chất của nó, cũng như âm thanh, phát ra từ một máy 
                phát thanh được thâu, hay đặt trở lại vào máy thâu thanh, theo 
                đúng băng tầng của nó. Mỗi chúng sanh tái sanh bắt đầu kiếp sống 
                của mình với những khả năng tiềm tàng và những kinh nghiệm đã 
                tích tụ trong quá khứ. Vì lẽ ấy, mỗi người có một tâm tánh khác 
                nhau, mỗi người có những tài năng khác nhau, và những khả năng 
                vô cùng tận". [15] 
 
                - 
                Không có cái gì đơn 
                thuần và nguyên vẹn được truyền sang, hay chuyển qua, từ kiếp 
                sống này đến kiếp kế, như sự chuyển sinh linh hồn. Từ một ngọn 
                đèn đang cháy, mồi lửa sang ngọn đèn khác (đang tắt), có phải là 
                ta đem ngọn lửa của cây đèn này truyền sang, hay chuyển qua, cây 
                đèn kia không? Ta có thấy sự liên tục cháy của ngọn đèn không? 
                Không phải hoàn toàn là cùng một ngọn lửa, cũng không tuyệt 
                nhiên là hai ngọn khác nhau.
 
                - 
                Như vậy, tiến trình 
                nghiệp (kamma bhava) là "một năng lực dựa theo đó phản ứng của 
                hành động tiếp nối theo hành động"; đó là động năng từ kiếp sống 
                hiện tại tạo điều kiện cho kiếp sống tương lai, theo một sự liên 
                tục không gián đoạn.
 
                - 
                "Lòng ham muốn đưa 
                đến hành động. Hành động đưa đến hậu quả. Hậu quả tự biểu hiện 
                như một cơ thể mới mang theo ham muốn mới. Hậu quả của hành động 
                nhứt định phải theo hành động, không thể tránh, cũng như bóng 
                theo hình. Ðó chỉ là định luật thiên nhiên của võ trụ, trong 
                phạm vi đạo đức, để bảo tồn năng lực. Cũng như trong võ trụ 
                không bao giờ năng lực tan biến mất tiêu, bên trong mỗi cá nhơn 
                không có cái gì còn lại của năng lực tích tụ do lòng tham muốn 
                mà biến tan tiêu mất. Năng lực tích tụ ấy luôn luôn được chuyển 
                sang một kiếp sống mới và chúng ta vĩnh viễn sống vì lòng khao 
                khát, bám bíu vào sự sống. Tuy nhiên, cái mà làm cho đời sống 
                khả dĩ có là nghiệp (kamma). -- (Paul Dahlke, Buddhist Essays, 
                London, 1908, trang 115)
 
                - 
                
                XII. LÃO và TỬ (Jaràarana)
 
                - 
                Jàti paccayà 
                jaràmaranam 
                (skt cũng cùng một chữ), tùy thuộc nơi Sanh, Lão và Tử khởi 
                phát. Và cùng với Lão và Tử, phát sanh phiền não ta thán, đau 
                khổ, âu sầu và tuyệt vọng.
 
                - 
                Ðã có sanh tức nhiên 
                phải có trưởng thành và chết. Không có sanh ắt không có trưởng 
                thành và chết. Như vậy, toàn thể khối đau khổ này khởi phát tùy 
                thuộc ở pháp Thập Nhị Nhân Duyên chia làm mười hai giai đoạn. 
                Sanh tiếp nối theo già và chết. Ðàng khác già và chết tiếp nối 
                theo sanh. Và cặp này liên tục nối nhau triền miên mãi mãi.
 
                
                   
                  - * * *
 
                  
                
                - 
                Trong thế gian không 
                có cái gì đứng nguyên một chỗ. Tất cả đều quay cuồng, không 
                ngừng nghỉ. Con người đắp xây những mộng đẹp, kiến tạo những ước 
                vọng tươi tốt và thảo những kế hoạch cho ngày mai. Nhưng một 
                ngày kia, giờ phút ra đi có thể đến đột ngột, bất ngờ chấm dứt 
                kiếp sống ngắn ngủi này, cùng với những ước vọng, những mộng đẹp 
                và những chương trình. Ngày nào mà con người còn bám bíu vào 
                kiếp sinh tồn vì chưa thoát ra khỏi Vô Minh, Ái Dục và Thủ thì 
                cái chết chưa phải là mức chấm dứt cuối cùng, và con người còn 
                tiếp tục mang theo gánh nặng, quay cuồng trong bánh xe của đời 
                sống, còn phải bị vướng víu, giày xéo, và tả tơi quằn quại trong 
                những cây căm của bánh xe này. Vậy, hãy nhìn thế gian, nhìn 
                những hạng người rất khác biệt nhau chung quanh ta, nhìn những 
                hoàn cảnh hữu phước và bất hạnh sai biệt rất xa nhau, chúng ta 
                sẽ thấu hiểu rằng những sự kiện ấy không thể hcỉ do ngẫu nhiên 
                hay may rủi mà ra.
 
                - 
                Một năng lực ngoại 
                lai hay một động lực nào từ bên ngoài, hành phạt những việc làm 
                dữ và ân thưởng những hành động lành của chúng sanh không thể có 
                chỗ đứng trong tư tưởng Phật Giáo. Người Phật tử không bao giờ 
                cầu cạnh một trung gian đặc biệt hữu phước nào, hay vái van một 
                nhơn vật bí ẩn không bao giờ được biết đến, để mong nhờ siêu 
                thoát. Chí đến Ðức Thế Tôn tối thượng cũng không thể đem ai ra 
                khỏi những trói buộc của vòng luân hồi. Chính trong tay ta có đủ 
                khả năng uốn nắn đời sống của ta. Phật tử là người Kammavàdin, 
                người tin tưởng ở hiệu năng của hành động thiện và bất thiện, 
                nghĩa là tin ở lý nghiệp báo.
 
                - 
                Theo giáo lý của Ðức 
                Thế Tôn, nguyên nhân trực tiếp của mọi chênh lệch, bất bình 
                đẳng, của mọi khác biệt giữa những cá nhơn trong đời sống là 
                attakamma, hành động thiện và bất thiện của mỗi cá nhơn tức cái 
                biệt nghiệp của mỗi chúng sanh, trong quá khứ. Nói cách khác, 
                mỗi người đang gặt hái những gì chính mình đã gieo trồng trong 
                quá khứ. Cùng một thế ấy, hành động của con người ở đây xây dựng 
                tương lai cho con người trong một ngày mai.
 
                - 
                Trong tất cả các hành 
                động - thiện và bất thiện - tâm là yếu tố quan trọng nhứt.
 
                - 
                "Tất cả những trạng 
                thái tâm (tâm sở) đều do tâm dẫn đầu. Tâm là chủ. Tất cả đề do 
                tâm tạo nên. Nếu ta phát ngôn hay hành động với tâm ô nhiễm, đau 
                khổ sẽ theo liền với ta như bánh xe lăn theo chơn con thú kéo 
                xe.
 
                - 
                Cùng thế ấy
 
                - 
                "Do hậu quả của tâm, 
                nếu ta nói hay làm với tâm trong sạch và sáng suốt, hạnh phúc sẽ 
                theo ta như bóng theo hình".
 
                - 
                -- (Kinh Pháp Cú, câu 
                1 và 2)
 
                - 
                Con người luôn luôn 
                thay đổi, từ tốt ra xấu hay từ xấu ra tốt. Sự biến đổi ấy là một 
                điều tất phải có, không thể tránh, và hoàn toàn tùy thuộc nơi 
                hành động của chính con người và hoàn cảnh bao quanh con người.
 
                - 
                Thế gian hình như 
                không được toàn hảo, cũng không quân bình. Chúng ta thường phải 
                đối đầu với nhiều khó khăn và thiếu kém. Người này khác biệt với 
                người kia trên nhiều phương diện và nhiều sắc thái. Giữa chúng 
                ta là những chúng sanh sống trong cảnh người - nói chi đến loài 
                cầm thú - chúng ta thấy rằng có kẻ sanh ra khốn khổ cùng cực, 
                đắm chìm trong tuyệt vọng sâu xa và hết sức bất hạnh. Trái lại, 
                người khác trưởng thành trong vòng phong phú dồi dào và hạnh 
                phúc đầy đủ, hưởng một cuộc sống xa hoa thạnh vượng và tương đối 
                không biết gì nhiều đến phiền não của thế gian. Lại nữa, một ít 
                người sanh ra với bẩm tánh thông minh xuất chúng, khả năng tinh 
                thân trí thức cao siêu, trong khi nhiều người khác thì mê mờ ngu 
                muội, phải trải qua suốt cuộc đời trong dốt nát tối tăm. Tại sao 
                một vài người trong chúng ta được khỏe mạnh, đẹp đẽ và có đông 
                đảo bạn bè, trong khi ó những người khác ươn yếu bịnh hoạn, gầy 
                còm xấu xí và đơn độc một cách đáng thương hại? Tại sao có người 
                sanh ra để sóng đến tuổi già còn kẻ phải lìa bỏ cuộc đời giữa 
                thời xuân xanh niên thiếu? Tại sao có người sanh ra với đầy đủ 
                phước báu, danh thơm tiếng tốt vang lừng, ai cũng biết, ai cũng 
                khen, trong lúc đó có kẻ rõ ràng bị lãng quên trong đêm tối, 
                không ai màng biết đến? Tất cả những thắc mắc ấy đều là những 
                vấn đề phức tạp, đòi hỏi một lời giải đáp thích ứng. [16]
 
                - 
                Nếu chúng ta chỉ dừng 
                lại trong giây phút và bình tâm quan sát, vô tư suy luận, và 
                sáng suốt tìm hiểu sự vật, chúng ta sẽ nhận thức rằng những khác 
                biệt cách nhau rất xa kia hẳn không phải là công trình của một 
                nguyên lực ngoại lai hay một chúng sanh siêu việt nào. Chúng ta 
                sẽ thấy rằng chúng ta phải gánh chịu trách nhiệm về những hành 
                động của chúng ta, và chúng ta là người tạo ra cái nghiệp của 
                chính chúng ta.
 
                - 
                Ðức Phật dạy:
 
                - 
                "Chúng sanh gặt hái 
                bông trái như thế nào
 
                - 
                Tùy theo hột giống đã 
                gieo.
 
                - 
                Người làm điều thiện 
                sẽ gặp thiện,
 
                - 
                Hành ác, gặp ác.
 
                - 
                Hãy gieo hột giống 
                tốt và gia công vun bồi cây,
 
                - 
                Sẽ được hưởng trái 
                lành".
 
                - 
                -- (Samyutta 1, trg. 
                227 - The Kindred Sayings I, trg. 293)
 
                - 
                Quả thật không thể 
                quan niệm được một nguyên lực ngoại lai hay một chúng sanh toàn 
                năng, ban bố phước lành nhiều hay ít khác nhau cho những người 
                khác nhau và đôi khi lại vồn vã cho riêng đến một cá nhơn riêng 
                biệt. Vậy, phải chăng hợp lý hơn nếu ta nói:
 
                - 
                "Bất luận điều gì mà 
                người kia làm, chính điều ấy sẽ trở lại.
 
                - 
                Người tốt gặp điều 
                tốt, người làm việc xấu tất gặp xấu.
 
                - 
                Vậy, hành động của 
                chúng ta tựa hồ như hột giống,
 
                - 
                Giống nào sanh quả 
                nấy".
 
                
                   
                  - * * *
 
                  
                
                - 
                "Người bần cùng, làm 
                việc cực nhọc như nô lệ, có thể trở nên một hoàng tử
 
                - 
                Do lòng tốt xứng đáng 
                và công đức thâu đạt
 
                - 
                Người cầm quyền cai 
                trị thiên hạ như một vì vua, có thể rách rưới thênh thang
 
                - 
                Vì những việc đã làm 
                và những việc không làm".
 
                - 
                Người Phật tử không 
                bao giờ phiền trách Ðức Phật hay một chúng sanh siêu nhơn, một 
                vị Trời, hoặc một nhơn vật quyền thế nào khác đã làm cho con 
                người phải chịu đau khổ, cũng không bao giờ tán dương các Ngài 
                vì các Ngài đã ban bố phước lành mà con người được thọ hưởng.
 
                - 
                Chính sự hiểu biết 
                nghiệp (kamma) va hậu quả của nghiệp (kammavipàka), hay định 
                luật nghiệp báo - tức định luật nhân quả trong lãnh vực tinh 
                thần đạo đức - thúc giục người Phật tử thuần thành không làm 
                điều bất thiện và cố gắng làm những việc thiện. Người đã thấu 
                hiểu nhân và quả, đã biết rõ rằng chính hành động của mình, chớ 
                không phải gi khác, làm cho mình khốn khổ hay thế nào. Người ấy 
                cũng nhận thức rõ ràng rằng nguyên nhân trực tiếp tạo nên mọi 
                chênh lệch trong kiếp nhơn sinh là các hành động thiện và bất 
                thiện khác nhau của mỗi cá nhơn trong những kiếp sống quá khứ và 
                trong kiếp hiện tại.
 
                - 
                "Con người trong hiện 
                tại là kết quả của hằng triệu triệu tư tưởng và hành động lập đi 
                lập lại. Con người ấy không phải là tiền chế hay được tạo sẵn 
                trọn vẹn. Người ấy trở thành và vẫn còn đang trở thành. Chính 
                con người quyết định và tạo nên tâm tánh của mình. Tư tưởng, 
                hành động, mà con người đã chọn là một thói quen, tạo khung cảnh 
                cho con người trở thành.
 
                - 
                Tuy nhiên, nên nhớ 
                rằng, theo Phật Giáo, không phải mỗi việc xảy ra đều do hành 
                động quá khứ. Vào thời Ðức Phật, có những vị giáo chủ, ngoài 
                Phật Giáo, như Nigantha Nàtaputta, Makkhali-Gosàla v.v... chủ 
                trương rằng bất luận cảm giác nào mà một cá nhơn chứng nghiệm - 
                dầu thọ lạc, thọ khổ, hay thọ vô ký - tất cả đều do những hành 
                động, hay nghiệp, quá khứ. (Majjhima 101, Dighà 2 - Quan điểm 
                này cũng được nghiên cứu trong Anguttara I, 173). Ðức Phật bác 
                bỏ một sự tiền định bất khả kháng, bất di bất dịch, của quá khứ 
                (pubbekatahetu) và xem đó là vô lý. Nhiều việc xảy đến cho ta là 
                hậu quả của những hành động trong kiếp sống hiện tại, và nguyên 
                nhân của những hành động ấy lại ở ngoài ta. Do đó không thể quả 
                quyết rằng tất cả những gì xảy đến cho ta đều do nghiệp quá khứ, 
                tức những hành động của ta trong quá khứ.
 
                - 
                Một người học trò 
                không chăm học đúng mức, đến khi thi, rớt. Nếu cứ một mực đổ lỗi 
                cho nghiệp quá khứ thì có phải hoàn toàn vô lý không? Người vô ý 
                kia hối hả chạy, vấp phải cục đá, tứ, chịu đau, rồi quả quyết 
                rằng đó là do cái nghiệp của mình, thì có phải cũng là vô lý 
                không? Ta có thể nêu lên nhiều thí dụ tương tợ để chỉ rằng không 
                phải mọi sự việc đều do nghiệp quá khứ tạo nên.
 
                - 
                Khi các nguyên nhân 
                và các điều kiện đèue bị tiêu trừ, tức nhân và duyên không còn 
                nữa, quả cũng đương nhiên chấm dứt. Sầu muộn tan biến khi mà 
                những căn nguyên tạo nên sự sầu muộn ấy đã lược loại trừ. Hột 
                xoài sanh ra cây xoài. Nhưng, nếu người kia đốt cái hột xoài ấy 
                cháy ra tro thì ắt không bao giờ nó mọc lên thành cây được. Ðối 
                với tất cả các vật hữu vi (dầu vô tri vô giác hay hữu giác hữu 
                tri) cũng vậy. Nghiệp là chính ta tạo nên. Vậy, chúng ta cũng có 
                đủ khả năng cắt đứt sợi dây dài vô tận, hay đập tan bánh xe luân 
                hồi ấy. Nhắc đến các bậc toàn giác đã tự chiến thắng mình bằng 
                cách tận diệt mọi ô nhiễm Ðức Phật dạy như sau trong kinh Ratana 
                Sutta (Sutta Nipata);
 
                - 
                "Quá khứ của các vị 
                ấy đã chết, cái mới [17] không còn phát sanh nữa,
 
                - 
                Tâm không bám bíu vào 
                sự trở thành trong tương lai.
 
                - 
                Mầm mống đã diệt [18] 
                các vị ấy không còn ham muốn trưởng thành
 
                - 
                Bậc thiện trí ấy đã 
                ra đi, chẳng khác nào ngọn đèn kia". [19]
 
                - 
                Pháp Tùy Thuộc Phát 
                Sanh (Paticca Samuppàda), cùng với mười hai vòng khoen, bắt đầu 
                từ Vô Minh và chấm dứt nơi Lão Tử, cho ta thấy tại sao con 
                người, đã bị trói chặt, phải mãi mãi thênh thang trong vòng luôn 
                hồi, từ kiếp này sng kiếp khác. Nhưng khi đã tiêu trừ mười hai 
                yếu tố ấy, con người có thể tự giải thoát ra khỏi mọi đau khổ và 
                luân hồi. Ðức Phật đã chỉ dạy phương cách chấm dứt cuộc đi bất 
                định lập đi lập lại triền miên ấy. Chính nhờ sự cố gắng chận 
                đứng lại Bánh Xe Luân Hồi ấy mà chúng ta có thể tìm con đường 
                thoát ra khỏi mọi rối loạn phức tạp của đời sống. Câu Phật ngôn 
                liên quan đến sự chấm dứt đau khổ được trình bày như sau:
 
                - 
                "Do sự chấm dứt trọn 
                vẹn Vô Minh, Hành chấm dứt,
 
                - 
                "Do sự chấm dứt trọn 
                vẹn Hành, Thức
 
                - 
                "Do sự chấm dứt trọn 
                vẹn Thức, Danh Sắc chấm dứt,
 
                - 
                "Do sự chấm dứt trọn 
                vẹn Danh Sắc, Lục Căn chấm dứt,
 
                - 
                "Do sự chấm dứt trọn 
                vẹn Lục Căn, Xúc chấm dứt,
 
                - 
                "Do sự chấm dứt trọn 
                vẹn Xúc, Thọ chấm dứt,
 
                - 
                "Do sự chấm dứt trọn 
                vẹn Thọ, Ái chấm dứt,
 
                - 
                "Do sự chấm dứt trọn 
                vẹn Ái, Thủ chấm dứt,
 
                - 
                "Do sự chấm dứt trọn 
                vẹn Thủ, Hữu chấm dứt,
 
                - 
                "Do sự chấm dứt trọn 
                vẹn Hữu, Sanh chấm dứt,
 
                - 
                "Do sự chấm dứt trọn 
                vẹn Sanh, Lão và Tử, phiền não, ta thán, đau khổ, âu sầu và 
                tuyệt vọng chấm dứt,.
 
                - 
                Vậy, toàn thể khối 
                đau khổ chấm dứt.
 
                - 
                -- (Anguttara Nikaya 
                I, 176)
 
                - 
                Theo Phật Giáo, thời 
                gian chỉ là một khái niệm (pannatti). Mặc dầu vậy, trong ngôn 
                ngữ thông thường, để diễn đạt chơn lý qui ước (samuti sacca) 
                chúng ta nói đến ba thời kỳ, và công thức Thập Nhị Nhân Duyên 
                bao gồm cả ba thời kỳ ấy là quá khứ, hiện tại, và tương lai. Hai 
                yếu tố đầu tiên, Vô Minh và Hành, thuộc về quá khứ. Tám yếu tố 
                kế đó, từ Thức đến Hữu, thuộc về hiện tại, và sau cùng, cặp Sanh 
                và Lão Tử, thuộc về vị lai.
 
                - 
                Trong Vòng Luân Hồi 
                có ba nấc khoen nối liền (sanhdhi). Giữa Hành (sankhara), yếu tố 
                cuôsi cùng của thời quá khứ và Thức (Vinnana), yếu tố đầu tiên 
                trong hiện tại, có sự nối liền nhân quá khứ vào quả hiện tại 
                (hetu-phala, nhân - quả). Thức, Danh - Sắc, Lục Căn, Xúc, và Thọ 
                là quả trong hiện tại do Vô Minh và Hành trong quá khứ tạo nên. 
                Do năm yếu tố Thức, Danh - Sắc, Lục Căn, Xúc, và Thọ phát sanh 
                ba yếu tố kế đó là Ái, Thủ, và Hữu. Ba yếu tố này tạo duyên đưa 
                đến trong tương lai. Như vậy khoảng giữa Thọ va Ái có sự nối 
                liền khác liên kết quả hiện tại vào nhân hiện tại (phala-het, 
                quả - nhân). Vì có Ái, Thủ và Hữu trong hiện tại nên có Sanh và 
                Lão Tử trong tương lai. Do đó, giữa Hữu và Sanh có một sự nối 
                liền nữa. Ba nấc khoen nối liền này chia vòng sinh tồn làm bốn 
                chặn: 
 
                - 
                1) Vô Minh, Hành,
                
 
                - 
                2)Thức, Danh - Sắc, 
                Lục Căn, Xúc, Thọ, 
 
                - 
                3) Ái, Thủ, Hữu,
                
 
                - 
                4) Sanh, Lão - Tử .
 
                - 
                "Năm nhân trong quá 
                khứ,
 
                - 
                Và bây giờ quả chia 
                làm năm phần.
 
                - 
                Năm nhân ở hiện tại
 
                - 
                Và năm quả sẽ đến".
 
                - 
                -- (Visuddhi Magga - 
                Thanh Tịnh Ðạo quyển II, tr.579)
 
                - 
                qKinh điển thường ghi 
                nhận Vô Minh và Hành là nhân quá khứ.
 
                - 
                "Tuy nhiên, người vô 
                minh khao khát, người khao khát bám bíu, và do bám bíu có sự trở 
                thành. Vậy, Ái, Thủ và Hữu cũng được bao hàm trong đó". Do đó ta 
                nosi rằng: "Trong tiến trình biến đổi của nghiệp (tức Hữu) trước 
                đã có ảo kiến (Si, tức Vô Minh), có sự tích trữ (tức Hành), có 
                sự luyến ái (tức Ái), có sự bám chặt (tức Thủ), và có tác ý (tức 
                Hữu). Vậy, năm yếu tố trong tiến trình biến đổi của nghiệp trước 
                tạo duyên cho vòng khoen thức nối liền ở đây (trong sự trở thành 
                hiện tại).
 
                - 
                Bây giờ, năm quả 
                trong kiếp sống hiện tại, như đã có ghi trong sách, được tiêu 
                biểu qua năm yếu tố Thức, Danh - Sắc, Lục Căn, Xúc, và Thọ.
 
                - 
                Chúng ta đang tạo năm 
                nhân trong hiện tại, mà trong sách chỉ ghi có ba là Ái, Thủ và 
                Hữu. "Tuy nhiên, khi đề cập đến Hữu, Hành, phát sanh trước hay 
                cùng một lúc với Hữu, cũng được bao hàm luôn. Và trong khi đề 
                cập đến Ái và Thủ, Vô Minh cùng phát sanh với Ái cũng được bao 
                hàm trong đó. Như vậy tất cả có năm". [20]
 
                - 
                Có năm quả mà chúng 
                ta sẽ gặt hái trong tương lai. Ðó là Thức, Danh - Sắc, Lục Căn, 
                Xúc, Thọ. Theo sách trên, Sanh và Lão - Tử bao gồm năm quả trong 
                tương lai: Trên thực tế, Sanh là tất cả năm yếu tố bắt đầu từ 
                Thức và chấm dứt với Thọ, còn Lão và Tử là sự trưởng thành và sự 
                châmd dứt của năm yếu tố ấy.
 
                - 
                Phân tách rốt ráo, ta 
                thấy rõ rằng trong pháp Tùy Thuộc - Phát Sanh (Paticca 
                Samuppàda), tiến trình mãi mãi lập đi lập lại của hiện tượng san 
                - tử, tử - sanh, trong vòng luân hồi, không có cái gì trường 
                tồn, không có cái gì cùng loại với một linh hồn, xem như một 
                thực thể đơn thuần bền vững, không biến đổi, chuyển từ kiếp sống 
                này sang kiếp khác. Tất cả các pháp (dhamma) đều tùy thuộc ở 
                nguyên nahan, tức phải có điều kiện, hay duyên, để phát sanh 
                (sabbe dhammà paticca-samupannà). Và tiến trình này của những 
                diễn biến rõ ràng không liên quan gì đến một tiểu hồn (jĩvàtma, 
                một linh hồn vi tế trong võ trụ), hay một đại hồn (paramàtma, võ 
                trụ hồn). CHính sự xác nhận tằng linh hồn (àtma) chỉ là một ảo 
                kiến, một ảo ảnh, làm cho giáo lý của Ðức Phật khác hẳn các hệ 
                thống tín ngưỡng khác và có tách cách cách mạng trong phạm vi 
                tôn giáo.
 
                - 
                Ðức Phật tuyên bố:
 
                - 
                "Tin tưởng rằng chính 
                người hành động sẽ thọ cảm hậu quả của hành động ấy (trong một 
                kiếp sống tương lai) là một cực đoan. Tin rằng người hành động 
                và người thọ carm hậu quả là hai người khác nhau là một cực đoan 
                khác. Như Lai tránh xa hai cực đoan ấy và truyền dạy chơn lý nằm 
                khoảng giữa cả hai. Ðó là: Do Vô Minh tạo duyên, Hành phát sanh 
                Do Hành tạo duyên, Thức phát sanh v.v... (xem công thức). Như 
                thế ấy toàn thể khôsi đau khổ phát sanh".
 
                - 
                Do đó có lời người 
                xưa:
 
                - 
                "Không có người hành 
                động
 
                - 
                Cũng không có người 
                thọ cảm hậu quả của hành động,
 
                - 
                Chỉ có những hiện 
                tượng liên tục chảy trôi
 
                - 
                Không có quan kiến 
                nào káhc mà đúng chơn lý".
 
                
                   
                  - * * *
 
                  
                
                - 
                "Vì ở đây không có 
                Ðấng Phạm Thiên, hay Tạo Hóa
 
                - 
                Sanh ra vòng luân 
                hồi, sanh tử triền miên,
 
                - 
                Chỉ có những hiện 
                tượng liên tục chảy trôi,
 
                - 
                Nguyên nhân và thành 
                phần cấu hợp là điều kiện".
 
                - 
                (Bhikkhu Nanamoli - 
                The Path of Purification, tr.700)
 
                - 
                Trong khi kết luận 
                bản khái luận về pháp Tùy Thuộc - Phát Sanh, người viết thấy cần 
                phải giải rõ một thắc mắc có thể làm bận trí người đọc.
 
                - 
                Theo pháp Tùy Thuộc - 
                Phát Sanh, sự vật khởi phát do những điều kiện. Như vậy ta có 
                khuynh hướng nghĩ rằng chính Ðức Phật khuyến khích thuyết tất 
                định, hay thuyết định mạng, còn tự do cá nhơn và "tự do ý chí" 
                thì được gác qua một bên.
 
                - 
                Nhưng, thuyết tất 
                định là gì? Theo tự điển triết học, Dictionary of Philosophy, 
                "Thuyết tất định (fatalism) là định mạng chủ nghĩa 
                (determinism), nhứt là trong hình thức thần học. Thuyết này quả 
                quyết rằng tất cả những hoạt động của con người đã được Thượng 
                Ðế sắp đặt trước". Theo tự điển Oxford English Dictionary, "định 
                mạng chủ nghĩa là một chủ thuyết triết học cho rằng hành động 
                của con người không được tự do mà cần thiết phải được định đoạt 
                trước do những động cơ, và động cơ này được xem là những năng 
                lực ngoại lai chi phối ý chí".
 
                - 
                Lý nghiệp báo bác bỏ 
                luận cứ này. Một sự hiểu biết rõ ràng về Phật Giáo cho thấy Ðức 
                Phật không bao giờ dạy rằng tất cả mọi sự vật đều bất di bất 
                dịch, hay nhứt định phải như thế nào, không thể đổi dừoi, hay 
                tất cả mọi sự vật đều xảy ra do một nhu cầu không thể tránh. Ở 
                bất luận nơi nào ta cũng thấy có những định luật hay những điều 
                kiện nào đó đang chi phối sự vật, và một trong những điều kiện 
                ấy là tác ý (cetana) tức là nghiệp (kamma). Không có một người 
                làm ra luật, hay một người ban hành luật, không có năng lực 
                ngoại lai xen vào những sinh hoạt của Danh và Sắc. Sự vật phát 
                sanh do những nguyên nhân và những điều kiện, nhân và duyên. 
                Cùng với sự chấm dứt nahan và duyên, sự vật cũng chấm dứt.
 
                - 
                Ðức Phật không bao 
                giờ chấp nhận rằng mọi sự vật đều bất di bất dịch và xảy ra do 
                nhu cầu nhứt định, không thể tránh - đó là thuyết Ðịnh Mạng Bất 
                Di Dịch (niyati-vàda). Ngài cũng không chủ trương rằng tuyệt đối 
                không có định mạng (adhicca-samuppanna).
 
                - 
                Sự ảnh hưởng lẫn nhau 
                vô cùng tận giữa hành động và phản ứng của hành động luôn luôn 
                tiếp diễn do lý nghiệp báo, và chính nghiệp báo, thì một đàng bị 
                giấu nhẹm sau màng vô minh, đàng khác bị ái dục triền miên thúc 
                đẩy. Nhưng nghiệp báo không hề động đến tự do ý chí và không hề 
                ảnh hưởng đến trách nhiệm cá nhơn của một người về hành động của 
                người ấy.
 
                - 
                Cuối cùng, xin có vài 
                lời về "tự do ý chí". Ý chí không phải là cái gì có tánh cách 
                "tịnh", bất động, mà luôn luôn biến đổi. Ý chí khôn gphải là một 
                thực thể thiết thực, hay cái gì tự nó có sự sống. ý chí chỉ tồn 
                tại nhứt thời, trong khoảnh khắc, như bất luận trạng thái tâm 
                (hay tâm sở), nào khác. Như vậy, không thể có một "ý chí" xem 
                như một "sự vật" để có thể nói rằng "ý chí" ấy có tự do hay 
                không. Ðúng thực ra, "ý chí" là một hiện tượng phát sanh do điều 
                kiện và chỉ tồn tại nhứt thời.
 
                - 
                Ðối với người Phật tử 
                thuần thành, niềm lo âu sơ khởi về đời sống hẳn không phải chỉ 
                là khảo sát hay tranh luận suông, hay vô ích du hành đến tận 
                những vùng tưởng tượng cao xa kỳ lạ mà là thành đạt hạnh phúc 
                thật sự và thoát ra khỏi mọi đau khổ của đời sống. Pháp Tùy 
                Thuộc Phát Sanh - đề cập đến đau khổ và sự chấm dứt đau khổ - là 
                quan niệm nồng cốt của Phật Giáo, và cũng là cành hoa tươi đẹp 
                trong vườn tư tưởng Ấn Ðộ.
 
                - 
                 
 
                - 
                Ghi Chú:
 
                - 
                [1] Samyutta Nikàya, 
                (Tạp A-Hàm) 11, Anamatugga, trang 179.
 
                - 
                [2] Anguttara Nikaya 
                (Tăng Nhứt A-Hàm) IV, 77.
 
                - 
                [3] A-La-Hán (Arahat) 
                là người đã cắt đứt mọi dây trói buộc đã ràng buộc mình vào vòng 
                luân hồi (Samsara), đã thành đạt trạng thái hoàn toàn trong sạch 
                và an tịnh và chứng ngộ Niết Bàn bằng cách thấu đạt Giáo Pháp 
                (Dhamma), Chơn Lý.
 
                - 
                [4] Canh đầu: 6 giờ 
                đến 10 giờ đêm - Canh giữa: từ 10 đến 2 giờ - Canh cuối : từ 2 
                đến 6 giờ sáng.
 
                - 
                [5] Hai danh từ 
                anuloma và patiloma thường được phiên dịch là "theo 
                chiều xuôi" và "theo chiều ngược". Tuy nhiên dịch như vậy sợ e 
                không chính xác vì theo chiều ngược rồi theo chiều xuôi có 
                nghĩa: đọc từ đầu đến cuối rồi đọc ngược lại từ cuối trở lên 
                đầu.
 
                - 
                [6] Udàna, trang 1
 
                - 
                [7] 
                Dhammacakkappavattana Sutta (Kinh Chuyển Pháp Luân), Samyutta 
                Nikàya (Tạp A-Hàm).
 
                - 
                [8] The Philosophy of 
                Physical Science. p. i. Cambridge University Press. 1939.
 
                - 
                [9] Nyanatiloka, 
                Fundamentals of Buddhism (Colombo 1949) trang 67.
 
                - 
                [10] Cùng một quyển 
                sách như trên, trang 65.
 
                - 
                [11] Madhupindika 
                Sutta 18 và Mahàtànhasankhaya Sutta 38, của bộ Trung A Hàm 
                (Majjhima Nikàya).
 
                - 
                [12] Samyutta Nikàya, 
                Tăng Nhứt A Hàm. LVI, II. Dhammacakkappavattana Sutta
 
                - 
                [13] Digha Nikaya 
                (Trường A Hàm), 22
 
                - 
                [14] Dhammapada (Pháp 
                Cú) 216
 
                - 
                [15] Trích trong một 
                bài báo viết cho tập chí Ceylon Observer, tháng 10, 1937, tựa đề 
                "What I Believe"", của Bác Sĩ Cassius A. Pereira, về sau là Ðại 
                Ðức Kassapa Thera.
 
                - 
                [16] Samyutta Nikàya, 
                i, trang 227. The Kindred Sayings I, trang 293
 
                - 
                [17] Danh từ "quá 
                khứ" và "cái mới" ở đây là nghiệp quá khứ và nghiệp mới.
 
                - 
                [18] Mầm mống ở đây 
                là thức tái sanh
 
                - 
                [19] Câu chuyện trong 
                kinh thuật rằng khi Ðức Phật dạy những lời ngày Ngài thấy một 
                ngọn đèn đang tắt.
 
                - 
                [20] Bhikkhu 
                Nanamoli, The Path of Purification (Thanh Tịnh Đạo), tr. 669. 
                Colombo 1956.
 
               
              
             
             | 
   
           
               
       
       |