BÀI THƠ THIỀN CỦA TRẦN NHÂNTÔNG
                    
                  
                  
                    
                    
                    
                    Hà Thúc Minh
                    
                  
                  
                    
                    
                    
                    ---o0o---
                    
                  
                  
                    
                    
                              Trần Nhân Tông (1258-1308) là con đầu của Trần 
                    Thánh Tông. ông là một vị vua anh minh quả cảm, nhiều lần 
                    xông pha trận mạc đánh tan quân Nguyên Mông, đội quân hùng 
                    mạnh vào bậc nhất thế giới thời bấy giờ, hai lần (1258, 
                    1288) xâm lấn nước ta.  
                  
                  
                    
                    
                               Ông không những là vị tướng tài ba mà còn là con 
                    người có tâm hồn phóng khoáng. Nếu đem so sánh những bài thơ 
                    Thiền và những chiến công hiển hách của ông ở trận tiền thì 
                    người ta ngỡ là của hai người khác nhau. Nhưng thật ra đó 
                    chỉ là sự thống nhất kỳ diệu giữa khí phách và tâm hồn của 
                    người Việt Nam. Ai mà không cảm thấy nỗi buồn “thu cô liêu” 
                    khi đọc những bài thơ:  
                  
                  
                    
                    
                                Niềm thị phi rụng theo hoa buổi sớm 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Lòng danh lợi lạnh theo trận mưa đêm
                    
                  
                  
                    
                    
                                Hoa rụng hết, mưa đã tạnh, núi non tịch mịch
                    
                  
                  
                    
                    
                                Một tiếng chim kêu lại cảnh xuân tàn. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                (Mạn hững ở Sơn Phòng) 1 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Thị phi niệm trục triêu hoa lạc 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Danh lợi tâm tùy dạ vũ hàn 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Hoa tận vũ tình sơn tịch tịch 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Nhất thanh đề điểu hạ xuân tàn. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                (Sơn Phòng mạn hứng) 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Ngôi chùa cổ lạnh lẽo sau lớp khói mùa thu 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Thuyền câu hiu quạnh chuông chùa bắt đầu điểm 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Nước trong núi lặng, chim âu trắng bay qua 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Gió im mây nhởn nhơ, cây lơ thơ lá đỏ. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                (Cảnh chiều ở Châu Lạng) 2 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Cổ tự thê lương thu ái ngoại 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Ngư thuyền tiêu sắt mộ chung sơ 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Thuỷ tinh sơn tĩnh bạch âu quá 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Phong định vân nhàn hồng thụ sơ. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                (Lạng Châu vãn cảnh) 
                    
                  
                  
                    
                    
                               Có lẽ cũng đừng vội cho rằng đó chỉ là lời thở 
                    dài của một kẻ chán đời. Một con người chán đời không thể 
                    chấm phá đồng quê bằng những nét bút hữu tình như:  
                    
                  
                  
                    
                    
                                Thôn trước thôn sau mờ mờ như khói phủ 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Cảnh vật trong bóng chiều nửa có nửa không 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Mục đồng cất tiếng sáo lùa trâu về 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Cò trắng từng đôi là là xuống đồng.
                    
                  
                  
                    
                    
                                (Ngắm cảnh ờ Thiên Trường) 3 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Bán vô bán hữu tịch dương biên 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Mục đồng địch lý quy ngưu tận 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Bạch lộ song song phi hạ điền.
                    
                  
                  
                    
                    
                                (Thiên Trường vãn vọng) 
                    
                  
                  
                    
                    
                               Có lẽ cũng nên thay đổi cách nhìn. Cái mà người 
                    ta quen cho là bi quan chán đời không phải trường hợp nào 
                    cũng đúng vậy. Ở Trần Nhân Tông, không phải là tâm trạng bi 
                    quan mà chính là trạng thái đạt đạo trong tâm hồn. Ông đã 
                    bình thản trước mọi cám dỗ vật dục. Phải chăng toàn bộ tinh 
                    thần đạo Thiền Trúc Lâm của ông đã quy tụ trong bài kệ : 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Cư trần lạc đạo thả tuỳ duyên 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Cơ tắc xan hề khốn tắc miên 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Ðối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Tạm dịch: 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Sống ở trên đời theo với hoàn cảnh mà vui với 
                    đạo 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Ðói thì ăn, mệt thì ngủ 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Của báu sẵn trong nhà khỏi tìm kiếm 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Ðứng trước cảnh vật mà vô tâm thì không phải hỏi 
                    Thiền là gì. 
                    
                  
                  
                    
                    
                              “Duyên”, tiếng Phạn gọi là Pratyaya, Pali gọi là 
                    Paccaya, có nghĩa là diều kiện. Sách Trung luận ghi : “chúng 
                    duyên hợp” (các điều kiện hội đủ). “Tuỳ duyên” tiếng Phạn 
                    gọi là Yatha-Pratyaya, nghĩa là thuận theo với biến đổi của 
                    hoàn cảnh (điều kiện). Sách Ðại thừa khởi tín luận giải 
                    thích “chân như” có hai nghĩa: nghĩa thứ nhất, cũng giống 
                    như Duy thức luận, chân như là chân lí tối cao. Trên đời này 
                    không thể có cái gì tồn tại độc lập tự nó được, mọi thứ đều 
                    do duyên khởi mà thành, cho nên tất cả là “không”. Nghĩa thứ 
                    hai, ngoài chân lí tối cao ra, chân như còn là biểu hiện của 
                    tâm, vừa ở trạng thái tịnh vừa ở trạng thái động, động - 
                    tịnh như nhau (động - tịnh nhất như), cho nên gọi là tâm 
                    chân như. Chân như vừa có tính khách thể vừa có tính chủ thể. 
                    Nói cách khác, chân như vừa bất biến vừa tuỳ duyên. Cho nên 
                    Trần Nhân Tông vừa theo với đời (tuỳ duyên) nhưng không bị 
                    đời lôi cuốn (bất biến).  
                  
                  
                    
                    
                               “Ðói thì ăn, mệt thì ngủ”, điều đó tưởng chừng 
                    quá dễ nhưng thực ra người đời lao vào cảnh bon chen cho nên 
                    ăn không ngon, ngủ không yên là chuyện thường. Mấy ai đã 
                    thực hiện được điều tưởng chừng quá dễ đó ?  
                  
                  
                    
                    
                               “Của báu sẵn trong nhà khỏi tìm kiếm”, Thiền tông 
                    cho rằng Phật tính có sẵn nơi con người. Ðàn kinh ghi : 
                    “Kiến tính thành Phật”. Sách Truyền tâm pháp yếu ghi : “Tổ 
                    sư Tây lai trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật. bất tại 
                    ngôn thuyết” (Tổ sư từ phương Tây đến, chỉ thẳng cho con 
                    người rằng Phật tính tại tâm chứ không phảỉ ở lời nói). 
                    
                  
                  
                    
                    
                               “Ðối cảnh vô tâm”, ý nghĩa từ kinh Kim cương : 
                    “Ưng vô sở trụ nhi sinh kì tâm” (Ðừng để tâm biến động theo 
                    bên ngoài). Lục tổ Huệ Năng sở dĩ giác ngộ là do câu này. 
                    
                  
                  
                    
                    
                               Với tâm hồn đạt đạo, Trần Nhân Tông đã bình thản 
                    trước mọi cám dỗ vật dục, từ đó yêu ra yêu, ghét ra ghét, 
                    sống ra sống, chết ra chết. Ðó là khí phách và tâm hồn của 
                    con người Việt Nam. Nếu không phải như vậy thì Trần Nhân 
                    Tông làm sao có thể nhìn con ngựa đá mà phác hoạ ra hai câu 
                    thơ để lại nghìn đời cho con cháu:  
                  
                  
                    
                    
                                Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Sơn hà thiên cổ điện kim âu 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Trần Trọng Kim dịch là : 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Xã tắc hai phen chồn ngựa đá 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Non sông nghìn thuở vững âu vàng 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Ðúng là khí phách và tâm hồn của một dân tộc bất 
                    khả chiến bại ! 
                  
                  
                    
                    
                                Ghi chú:
                    
                  
                  
                    
                    
                               1- Mạn hứng ở Sơn Phòng. Thơ văn Lý - Trần. Nxb 
                    KHXH. Hà Nội 1989: tr469 (Ðỗ Văn Hỷ dịch)
                    
                  
                  
                    
                    
                     
                             2- Cảnh chiều ở Châu Lạng. 
                    Sđd. tr.468 (Trần Lê Văn dịch) 
                              3- Ngắm cảnh ở Thiên Trường. Sđd. tr 464 (Ngô 
                    Tất Tố dịch)