NGƯỜI ĐƯA THƯ KHÔNG TRỞ LẠI
                    
                  
                  
                    
                    
                    
                    Huệ Trân
                    
                  
                  
                    
                    
                    
                    ---o0o---
                    
                  
                  
                    
                    
                              Túi vải đã sẵn trên vai, gã nhìn quanh căn phòng 
                    tạm trú, với tay, lấy chiếc mũ nỉ trong tủ áo, chụp lên đầu 
                    rồi khép cửa, bước ra đường. 
                  
                  
                    
                    
                              Nắng buổi trưa như đổ lửa, nóng hừng hực. Gã đứng 
                    ngơ ngác trước ngã tư, mất định hướng, dù gã đã được cho 
                    biết nơi gã tạm trú là đường Vĩnh Viễn, đi thẳng, sẽ gặp 
                    đường Lê Hồng Phong, rẽ trái không xa sẽ là Ngã Bẩy. Ngôi 
                    nhà xưa ở trong một đường hẻm gần đấy. 
                  
                  
                    
                    
                              Những địa danh này từng quá quen thuộc, nhưng sau 
                    hơn ba mươi ba năm, gã đang là người khách lạ giữa lòng quê 
                    hương. Rừng xe gắn máy đủ loại, ngược xuôi hối hả, luồn lách 
                    tài tình quanh những xe tải, xe taxi, khách bộ hành. Người 
                    và xe đều thản nhiên chen lấn trên những con đường hẹp.
                    
                  
                  
                    
                    
                              Gã đứng đó, nhìn xuôi, nhìn ngược một lúc, chợt 
                    bật cười khi có cảm tưởng đang lạc vào một hành tinh khác, 
                    chứ không chỉ lạc giữa lòng quê hương, vì những người đi xe 
                    gắn máy đều đội nón sắt, đeo khẩu trang, trừ hai con mắt, 
                    chẳng ai nhìn rõ mặt mũi nhau ra sao! Họ như đoàn người máy 
                    bận rộn, lạnh lùng. Lòng gã chợt nao nao bóng hình tà áo lụa 
                    Hà-Đông e ấp bay trong gió, tiếng guốc ai khoan thai gõ nhịp 
                    trên những hè phố thân quen … 
                  
                  
                    
                    
                              Gã giật mình khi một chiếc Honda, vừa ép sát lề 
                    đường, vừa hỏi trống không: 
                  
                  
                    
                    
                              - Đi đâu? 
                  
                  
                    
                    
                              Gã nhìn quanh, không chắc có phải người lái xe hỏi 
                    mình.  
                  
                  
                    
                    
                              - Đi không? 
                  
                  
                    
                    
                              Xe vẫn nổ máy, nhưng đã ngừng ngay trước mặt gã. 
                    Vậy, chắc là hỏi gã rồi. Gã cũng trả lời trống không, cho 
                    cùng một tần số: 
                  
                  
                    
                    
                               - Đi. 
                  
                  
                    
                    
                               - Đi đâu? 
                  
                  
                    
                    
                               - Gò Vấp, đường Lê Quang Định. Có xa không?
                    
                  
                  
                    
                    
                              Ngôn ngữ như phải xài tằn tiện lắm nên thay vì trả 
                    lời, người lái xe đưa cho gã một chiếc nón an toàn. Loay 
                    hoay một lúc gã mới đội được chiếc nón sắt vẽ hoa lá đủ mầu 
                    sắc lộn xộn, để cùng trở thành “người từ hành tinh khác” như 
                    gã vừa nghĩ dăm phút trước đây. 
                  
                  
                    
                    
                              Chiếc Honda lao vào giòng xe cộ đông nghẹt. Đôi 
                    lúc, gã nhắm mắt, chờ nghe một tiếng “rầm” vì không thể 
                    tưởng tượng có thể quẹo như thế, chạy như thế, tránh như thế 
                    mà không va chạm nhau! Ấy vậy mà cũng tới được đường Lê 
                    Quang Định, quận Gò Vấp, còn đủ tứ chi! 
                  
                  
                    
                    
                               - Xuống đâu? Khúc nào? 
                  
                  
                    
                    
                               - Ơ ….. chùa Quảng Hương Già Lam ở khúc nào?
                    
                  
                  
                    
                    
                               - Gần chùa Dược Sư phải không? 
                  
                  
                    
                    
                                Gã đáp bừa: 
                  
                  
                    
                    
                               - Ừ! 
                  
                  
                    
                    
                              May quá, vừa qua chùa Dược Sư chừng hai trăm thước, 
                    gã nhìn thấy tấm bảng nhỏ treo trên cột đèn ngoài đầu hẻm: 
                    “Tu viện Quảng Hương Già Lam”. Gã rối rít nói: 
                  
                  
                    
                    
                               - Ngừng đây! Ngừng đây đi! 
                  
                  
                    
                    
                               - Không vào tới chùa hả? 
                  
                  
                    
                    
                               - Không, đây được rồi. Bao nhiêu? 
                  
                  
                    
                    
                               - Cho bẩy chục. 
                  
                  
                    
                    
                              Gã móc túi vải, trả tiền, chờ chiếc Honda rồ máy, 
                    phóng đi, mới thở một hơi thật sâu, lững thững vào con hẻm 
                    nhỏ. 
                  
                  
                    
                    
                                Gã bước chậm lắm. Bước mà như không bước. Gã 
                    muốn cởi giầy, đi chân không, để nền đất này tiếp xúc với 
                    gan bàn chân, truyền ra từng tế bào, từng mạch máu. Gã nghe 
                    tiếng thổn thức không ngừng bên lồng ngực trái, nơi trái tim 
                    đang đập lạc nhịp.  
                  
                  
                    
                    
                              Hôm đầu tiên, gã cứ tưởng gã sẽ khóc nức nở hay ít 
                    nhất, cũng thầm lặng rung động toàn thân khi máy bay đáp 
                    xuống sân bay, nơi hơn ba mươi ba năm trước gã đã hốt hoảng 
                    rời quê hương ra đi. Vậy mà lòng gã lạnh tanh! Gã thử cấu 
                    mạnh vào cánh tay, xem còn cảm giác không. Còn chứ! Vết cấu 
                    trắng bạch vì máu bị chặn, rồi sau đó đỏ bầm! Hay vì chuyến 
                    bay khá dài, thần hồn chưa về với thần xác? Cũng không phải 
                    nốt, vì gã đã ăn uống, nghỉ ngơi, tắm gội tỉnh táo thoải mái 
                    rồi mới bắt đầu “phiêu lưu ký.” Gã đã gặp dăm bạn cũ, đã thử 
                    đi trên vài góc phố xưa, nhưng lạ quá, lòng dửng dưng trước 
                    người xưa cảnh cũ nên đi như chỉ để mà đi! Đi như kẻ độc 
                    hành trên con đường thiên lý mịt mù!  
                  
                  
                    
                    
                              Đêm qua, trở về nhà trọ, gã nằm khóc vì sự mất mát 
                    bất ngờ này. Người đã lạ, cảnh đã dời, hay chính gã đã sẵn 
                    những chắn song vô hình vạch lằn ranh oan nghiệt??? Có thể 
                    tất cả đã trộn lẫn với nhau thành sự hủy hoại vô tình, vốn 
                    là bản chất của tự thể vạn hữu!  
                  
                  
                    
                    
                              Nhưng gã còn một sợi nắng để bám víu. Gã vẫn để 
                    dành sợi nắng này, như kẻ nghèo khó cẩn thận cất giữ vật quí 
                    giá cuối cùng, chỉ dùng khi đứng trước sự sống và cái chết. 
                    Bảo vật của gã là ngôi cổ tự mà gã đang tìm đến, một nơi mà 
                    trong trí tưởng và trong cả niềm tin, đẹp như tranh vẽ của 
                    vua Lý Thái Tôn: 
                  
                  
                    
                    
                              “Hạo hạo Lăng-già nguyệt 
                  
                  
                    
                    
                              Phân phân Bát-nhã liên”
                    
                  
                  
                    
                    
                              Tạm dịch là: 
                  
                  
                    
                    
                              “Lăng-già ngời trăng tỏ 
                  
                  
                    
                    
                              Bát-nhã ngát hương sen”
                    
                  
                  
                    
                    
                              Nét tịch-lặng-như-nhiên không thể đến từ vết 
                    thương của những mưu toan tuyệt vọng, mà phải từ hạnh nguyện 
                    Bồ Tát “Hư không hữu tận. Ngã nguyện vô cùng”, là lời kinh 
                    Phổ Hiền Hạnh Nguyện, phát nguyện rằng “Hư không còn có thể 
                    đến chỗ cùng tận, nhưng tâm nguyện đại bi của ta thì vô cùng 
                    vô tận.”  
                  
                  
                    
                    
                              Không thực hiện ý định cởi giầy mà đi được nửa 
                    đường hẻm, gã bỗng cảm thấy gan bàn chân co giựt thật nhẹ. 
                    Những tế bào li ti đang kể cho nhau nghe cuộc điện đàm ngắn 
                    ngủi với một sư-cô, đã hỏi gã hơn một năm trước đây: 
                    
                  
                  
                    
                    
                              - Sư-phụ của em là ai? Có phải vị ẩn-sư trong ngôi 
                    cổ tự Già Lam không? 
                  
                  
                    
                    
                              Gã im lặng. 
                  
                  
                    
                    
                              - Có phải em đã về đó để xin Thầy xuống tóc?
                    
                  
                  
                    
                    
                              Gã im lặng. 
                  
                  
                    
                    
                              - Hay ngoài này có ai đại diện Thầy, xuống tóc cho 
                    em? 
                  
                  
                    
                    
                              Gã im lặng.  
                  
                  
                    
                    
                              Gã không có câu trả lời vì tự thể những câu hỏi đó 
                    đã thấp thoáng tinh thần Bát-Nhã “có mà không, không mà có.” 
                    Ấy thế mà do đâu, những câu hỏi đã thành hình? Có phải giữa 
                    bao hữu hình ngộ nhận còn có những vô hình chứng thực sự mầu 
                    nhiệm chân-như? 
                  
                  
                    
                    
                              Hôm nay, những câu hỏi mà thực chẳng phải câu hỏi, 
                    lại đang xôn xao theo bước chân gã, đi tìm cái 
                    vô-hình-vô-hạn trong chật hẹp của cái hữu-hình-hữu-hạn!
                    
                  
                  
                    
                    
                              Thầy ơi, con đang bước những bước đến rất gần Thầy. 
                    Con biết, con đang bước trên đường quê hương, vì quê hương 
                    đích thực chỉ có một. Người ta có thể không chấp nhận những 
                    dị đồng về chủ thuyết, ý thức hệ, nhân sinh quan …v… v… 
                    nhưng làm sao chối bỏ được quê hương, khi những dị đồng đó 
                    đều sẽ thành rồi hoại, đến rồi đi. Lịch sử nhân loại có bao 
                    giờ ngừng chứng minh sự thăng trầm bất tận này đâu! Thực 
                    chất của giòng chảy đó chỉ mong manh như ngọn thu phong làm 
                    rụng những lá vàng, mà quê hương là ngút ngàn tuyết sơn 
                    thinh lặng, trơ gan cùng tuế nguyệt. Theo biến chuyển của 
                    lịch sử, người ta cũng có thể có quê hương thứ hai, thứ ba, 
                    thứ tư, nhưng vẫn biết và biết rất rõ, từ mảnh đất nào người 
                    ta đã hiện hữu.  
                  
                  
                    
                    
                                Có gì là tội lỗi trước sự thực này không? Con 
                    muốn tự chứng nghiệm nên đã về đây. Thời gian hơn một phần 
                    tư thế kỷ có thể là quá dài với một đời người, nhưng vẫn là 
                    quá ngắn với giòng lịch sử không ngừng đổi thay, hưng phế… 
                    
                  
                  
                    
                    
                              Từng bước chậm, con đang tiến vào ngôi cổ tự, nơi 
                    có tôn tượng Quán Thế Âm Bồ Tát ở sân trước, có cầu thang xi 
                    măng bên trái, dẫn lên từng lầu một. Hết những bực thang, 
                    bước thêm dăm bước sẽ thấy bên phải là tấm bình phong đan 
                    bằng tre đơn sơ, nhìn từ đó có thể thấy rõ hành lang hẹp, 
                    treo chiếc võng xanh, mầu đã bạc, gai đã sờn, chiếc nón lá 
                    móc gần đấy cũng đã cũ. Trên hành lang nền gạch đá hoa mầu 
                    huyết dụ là chiếc bàn nhỏ, có một khay gỗ để dăm cái tách, 
                    chiếc bình thủy trắng và một ấm đất nung, để pha trà. Hành 
                    lang này chính là “phòng khách” in bao dấu chân khách vãng 
                    lai đến rồi đi, chỉ những giỏ phong lan là vẫn còn đó với 
                    tháng năm, qua bao mùa mưa nắng. Cảnh trí này từng phổ biến 
                    nhiều nơi, từ nhiều năm vẫn chỉ có bấy nhiêu nên tuy đến lần 
                    đầu mà con thấy quen thuộc quá! 
                  
                  
                    
                    
                              Dừng lại trước tấm bình phong ngăn ranh giới đó, 
                    khách chỉ cần lên tiếng: “Thưa Thầy”, là giây lát thôi, tấm 
                    màn trúc trước Thị Ngạn Am lay động, và vị thầy tu “mình hạc 
                    sương mai” bước ra.  
                  
                  
                    
                    
                              Như thế đó, ngoài những giờ Thầy miệt mài với dịch 
                    kinh, với soạn bài cho các lớp học, thì ai có lòng viếng 
                    thăm, xin cứ đến. Cửa ngõ chẳng bao giờ đóng, mâm cao cỗ đầy 
                    chẳng bao giờ có để mời, nên ai đến thì cũng như ai; tâm chủ 
                    an nhiên tự tại rộng mở, tâm khách ra sao, tự khách biết, vì 
                    “Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về” (*) 
                  
                  
                    
                    
                              Cố trấn tĩnh thế nào, gã cũng nghe giọng mình 
                    nghẹn ngào khi cất tiếng “Thưa Thầy”. Rồi tấm màn trúc lay 
                    động. Thầy bước ra: 
                  
                  
                    
                    
                              - Thầy đó. 
                  
                  
                    
                    
                              Vẫn tấm áo nhật bình dài quá đầu gối mà khi xưa, 
                    các học tăng Phật học viện Hải Đức trên đồi Trại Thủy đã 
                    thầm thì với nhau: “Không ngờ giảng sư trẻ qúa! Mà sao y 
                    phục Thầy giản dị thế!” Vẫn nhân dáng đó, phong cách đó, ánh 
                    mắt đó, nụ cười đó, trước sau như một, có phải là thể hiện 
                    của “Bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm” 
                    mới “viễn ly điên đảo mộng tưởng” như thế? 
                  
                  
                    
                    
                              - Ai đó? Mời vào! 
                  
                  
                    
                    
                              Tuy hỏi nhưng rõ ràng khách là ai, không cần biết. 
                    Điều đáng biết là tấm lòng khách đã tới đây thì xin mời vào!
                    
                  
                  
                    
                    
                              Gã lách qua tấm vách tre, vừa thở chánh niệm, vừa 
                    cúi đầu, bước vào.  
                  
                  
                    
                    
                              “Ôi mênh mông một trời Bát Nhã.
                    
                  
                  
                    
                    
                              Từ bi tâm hiển lộ liên hoa
                    
                  
                  
                    
                    
                              Mở trang Kinh Ngọc, thơm ba cõi
                    
                  
                  
                    
                    
                              Đảnh lễ Thầy, sông núi chia xa” (+)
                    
                  
                  
                    
                    
                              Gã đã quỳ xuống, đảnh lễ Thầy. Lúc ngửng lên, Thầy 
                    nhìn gã bằng đôi mắt từ ái, rồi bất ngờ hỏi: 
                  
                  
                    
                    
                              - Diệu Trân, phải không? 
                  
                  
                    
                    
                              Trái tim gã như muốn rớt ra khỏi lồng ngực: 
                    
                  
                  
                    
                    
                              - Dạ, bạch Thầy, con đây ạ. 
                  
                  
                    
                    
                              Chỉ có thế thôi. Cuối cùng thì cũng phải tới  lúc 
                    gã đi tìm Thầy. Và Thầy đã nhận ra gã. Gã chỉ xúc động chứ 
                    không hề ngạc nhiên khi Thầy mỉm cười nhẹ nhàng hỏi, mà thực 
                    đã biết.  
                  
                  
                    
                    
                              “Người đưa thư đã không trở lại.” Thầy nói 
                    như thế khi gã nhắc tới lá thư nhờ trao tận tay Thầy mấy năm 
                    trước đây. Trong thư, gã xin Thầy một pháp danh. Người đưa 
                    thư sẽ trở lại nhận hồi âm, nếu lời thỉnh cầu này được chấp 
                    thuận. Khi nhận được pháp danh thì từ phương xa, gã sẽ hướng 
                    về trời Nam, đảnh lễ Thầy và xuống tóc. 
                  
                  
                    
                    
                              Tâm là họa sỹ, tự sáng tác mọi họa phẩm theo hoài 
                    mong và trí tưởng. Tâm gã như thế, nhưng không được hồi âm 
                    nên bức họa dở dang. May thay, những nghịch duyên đời-thường 
                    lại là thuận duyên để gã quyết tâm đi tiếp cho bức họa hoàn 
                    thành, dù lời thỉnh cầu năm xưa không một âm vang vọng lại!
                    
                  
                  
                    
                    
                              Thầy nhìn gã, ánh mắt vừa hoan hỷ, vừa xót thương 
                    rồi lẳng lặng đứng lên, khuất sau màn trúc. Một lát, Thầy 
                    trở ra, ngồi xuống chỗ cũ. Vẫn ánh mắt vừa hoan hỷ, vừa xót 
                    thương, Thầy trao cho gã một tờ mộc bản. Trên nền giấy đã úa 
                    vàng, những nét chữ Hán vẫn bay bướm, vẫn thong dong. Gã đưa 
                    hai tay nhận, chăm chú nhìn. Thầy chỉ vào hai chữ chính giữa 
                    và hỏi: 
                  
                  
                    
                    
                              - Biết chữ gì đây không? 
                  
                  
                    
                    
                              Gã ấp úng: 
                  
                  
                    
                    
                              - Dạ … chữ … 
                  
                  
                    
                    
                              - Hạnh Chi. 
                  
                  
                    
                    
                              Gã mừng rỡ vì đã ngờ ngợ nhận ra chữ “Chi”. Gã 
                    thưa: 
                  
                  
                    
                    
                              - Bạch Thầy, phải chữ “Chi” ở đây là “cành”, như 
                    “Nhất chi Mai” là “Một cành Mai” không ạ? 
                  
                  
                    
                    
                              - Phải, “Chi” này là “cành” chứ không phải “Tri” 
                    là “biết”, và “Hạnh” đây không phải “hạnh kiểm” mà là “cái 
                    Hạnh, nét đẹp của trí tuệ”. Tôi đã viết hai chữ này ngay khi 
                    nhận thư. Nhưng người đưa thư không thấy trở lại. Tôi vẫn 
                    giữ đây. 
                  
                  
                    
                    
                              Gã nhìn trân trối tờ giấy mỏng, lay động vì những 
                    nét chữ trên đó đang cùng nhảy múa theo một cung bực trầm 
                    bổng mơ hồ nào, mà hát ra lời giải tỏa nỗi mong chờ đằng 
                    đẵng bao năm: “Người đưa thư đã không trở lại. Người đưa thư 
                    đã không trở lại. Ơi …Ớ … Ơi. Người đưa thư đã không trở lại 
                    Ơi Ớ Ời …Ơi …Ớ … Ời …” 
                  
                  
                    
                    
                              Không kềm lòng nổi, gã đã nấc lên “Trời ơi!”
                    
                  
                  
                    
                    
                              Phong linh treo trên những giò lan chợt lao xao 
                    trong gió. Âm thanh quyện với hương trà Thầy tự tay pha, đãi 
                    trò, khiến gã rưng rưng khi nâng tách. Không còn thấy ranh 
                    giới nào của quá khứ, hiện tại, vị lai, chỉ là sự kỳ diệu 
                    của vô thỉ vô chung, không nơi bắt đầu, không chỗ kết thúc.
                    
                  
                  
                    
                    
                    Tách trà nằm yên mãi trên tay.  
                  
                  
                    
                    
                              Thầy lặng thinh, như đang nghe hương lan thẩm thấu 
                    trong hương trà.  
                  
                  
                    
                    
                              Phút giây, gã vụng về để những giọt nước mắt thổn 
                    thức rơi xuống tách. Những giọt nước mắt muộn màng, lặng lẽ 
                    hóa thân thành những câu thơ tưởng đã chôn vùi sau lớp bụi 
                    thời gian: 
                  
                  
                    
                    
                              “Hỡi ơi! Một buổi hoa râm 
                  
                  
                    
                    
                              Trời chưa nắng dại, tóc dầm sương khuya
                    
                  
                  
                    
                    
                              Nụ cười, rồi một chuyến đi
                    
                  
                  
                    
                    
                              Còn e năm tháng đã về trước ta
                    
                  
                  
                    
                    
                              Môi in nửa bóng trăng tà!” (*)
                    
                  
                  
                    
                    
                              Huệ Trân 
                    
                  
                  
                    
                    
                              Cốc Thảnh Thơi – Mùa Trăng, 2008)
                    
                  
                  
                    
                    
                              (*) Thơ Thầy Tuệ Sỹ
                    
                  
                  
                    
                    
                              (+) Thơ dt