TÁM ĐỀ MỤC CHUYỂN HOÁ TÂM
                    
                  
                  
                    
                    
                    
                    The Eight Verses of Thought Transformation
                    
                  
                  
                    
                    
                    
                    By His Holiness the Dalai Lama - Tuệ Uyển chuyển ngữ
                    
                  
                  
                    
                    
                    
                    ---o0o---
                    
                  
                  
                    
                    
                                Tám đề mục chuyển hoá tâm, một văn bản của 
                    Kadampa hành giả Langri Tangpa giải thích tuệ trí và phương 
                    pháp thực hành của Ba la mật thừa (Paramitayana ), bảy đề 
                    mục đầu nói về phương pháp - từ bi yêu thương, tâm giác ngộ 
                    hay tâm bồ đề - đề mục thứ tám nói về tuệ trí. 
                  
                  
                    
                    
                                1- Quyết định đạt đến lợi ích to lớn nhất có thể 
                    cho tất cả chúng sinh, những người quý báu hơn những viên 
                    ngọc ước, tôi sẽ luôn luôn ôm ấp họ như những người thân 
                    thương nhất.
                    
                  
                  
                    
                    
                                Tự chính chúng ta và tất cả những chúng sinh 
                    khác muốn hạnh phúc và hoàn toàn thoát khỏi khổ đau.  Trong 
                    điều này chúng ta thật sự bình đẳng.  Tuy vậy, mỗi chúng ta 
                    chỉ là một cá thể, trong khi những chúng sinh khác là vô 
                    lượng. 
                  
                  
                    
                    
                                Giờ đây, có hai thái độ để quan tâm:  đó là vị 
                    kỷ yêu mến chính chúng ta và đó là yêu mến những những người 
                    khác.  Thái độ tự yêu mến một cách vị kỷ làm cho chúng ta 
                    cứng nhắc, chúng ta nghĩ là chúng ta cực kỳ quan trọng và 
                    khao khát căn bản của chúng ta là cho chính chúng ta được 
                    hạnh phúc và cho mọi thứ diễn tiến tốt đẹp cho chúng ta.  
                    Tuy vậy, chúng ta không biết làm thế nào để đem đến điều này.  
                    Trên thực tế là hành động yêu mến vị kỷ không bao giờ làm 
                    cho chúng ta hạnh phúc. 
                  
                  
                    
                    
                                Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn 
                    những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá 
                    sự giúp đở người khác trên tát cả những thứ khác.  Và, hành 
                    động trong cách này, ngẩu nhiên tự họ trở nên rất hạnh phúc.  
                    Thí dụ, những chính trị gia chân thành quan tâm giúp đở hay 
                    phục vụ người khác thu hoạch những thành tích với sự tôn 
                    trọng, trong khi những ai đó luôn luôn lợi dụng và làm những 
                    việc xấu cho những người khác hạ bệ như những thí dụ của 
                    những kẻ xấu. 
                  
                  
                    
                    
                                Tạm thời bỏ qua một bên tôn giáo, đời sống tái 
                    sinh và niết bàn, ngay cả trong đời sống hiện tại những 
                    người vị kỷ đem đến những phản ứng tiêu cực ngược lại cho 
                    chính họ bởi những hành động của vị kỷ của họ.  Về phương 
                    diện khác, những người như mẹ Teresa, người chân thành cống 
                    hiến cả cuộc đời và năng lực vô vị lợi phục vụ cho những 
                    người nghèo túng, khốn cùng, và neo đơn, luôn luôn được ghi 
                    nhớ bởi những hành động cao quý của họ, với sự kính trọng; 
                    những người khác không có bất cứ điều gì tiêu cực để nói về 
                    họ.  Thế thì, điều này là kết quả của sự yêu mến những kẻ 
                    khác:  cho dù chúng ta có muốn hay không, ngay những kẻ 
                    không phải là người thân của chúng ta luôn luôn yêu thích 
                    chúng ta, cảm thấy vui vẻ với chúng ta và có một cảm giác ấm 
                    áp đối với chúng ta.  Nếu chúng ta là loại người luôn luôn 
                    nói năng lich sự trước mặt những người khác những lại nói 
                    xấu sau lưng họ, dĩ nhiên, không ai thích chúng ta. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Vì vậy, trong đời sống này, nếu chúng ta cố gắng 
                    giúp đở kẻ khác bằng nổ lực tối đa mà chúng ta có thể làm và 
                    có ít nhất những tư tưởng ích kỷ, chúng ta sẽ có nhiều kinh 
                    nghiệm của hạnh phúc.  Đời sống chúng ta không quá dài; một 
                    trăm năm là tối đa.  Nếu trãi qua đời sống này chúng ta cố 
                    gắng ân cần, với một trái tim ấm áp, lưu tâm  cho lợi ích 
                    của những người khác và ít vị kỷ cùng giận tức, điều ấy sẽ 
                    thật tuyệt vời, xuất sắc, điếu ấy thật sự là nguyên nhân của 
                    hạnh phúc.  Nếu chúng ta ích kỷ, luôn luôn đặt chính mình 
                    trước nhất và những kẻ khác là thứ yếu,  kết quả chắc chắn  
                    là chúng ta sẽ hoàn tất cuối cùng.  Trong ý nghĩ đặt chúng 
                    ta sau cùng và những người khác trước nhất là con đường để 
                    chúng ta  tiến ra phía trước. 
                  
                  
                    
                    
                                Vì vậy đừng lo lắng về kiếp sống tới hay niết 
                    bàn; những việc này sẽ tiến đến dần dần.  Nếu trong kiếp 
                    sống này chúng ta duy trì là một người tốt, ấm áp, không ích 
                    kỷ, chúng ta sẽ là một công dân tốt của thế giới.  Cho dù 
                    chúng ta là một Phật tử, một Ki tô hữu hay là một người cộng 
                    sản không quan hệ; điều quan trọng là khi nào chúng ta vẫn 
                    là một con người chúng ta nên là một con người tốt.  Đấy là 
                    giáo nghĩa của Đạo Phật;  đấy là thông điệp của tất cả mọi 
                    tôn giáo trên thế giới. 
                  
                  
                    
                    
                                Tuy nhiên, giáo nghĩa của Đạo Phật chứa đựng mọi 
                    kỷ năng để loại trừ và nhổ gốc rể vị kỷ và biến thành hiện 
                    thực thái độ yêu mến người khác. Thí dụ, văn bản tuyệt diệu 
                    của Tôn giả Bình Thiên  (Shantideva), "Hướng dẫn về đời sống 
                    của con đường Bồ tát", rất hữu ích cho điều này.  Tự chính 
                    chúng tôi thực hành theo quyển sách ấy;  nó hữu dụng một 
                    cách tuyệt vời.   Tâm tư chúng ta cực kỳ giảo quyệt và rất 
                    khó kiểm soát, nhưng nếu chúng ta tiến hành những tác động 
                    ảnh hưởng liên tục và kiên định, hành động không mệt mõi với 
                    suy luận hợp lý và phân tích cẩn thận, chúng ta sẽ có thể 
                    kiểm soát và chuyển hoá nó tốt hơn. 
                  
                  
                    
                    
                                Một số triết gia Tây phương nói rằng chúng ta 
                    không nên đàn áp sự giận tức của chúng ta mà bày tỏ nó - 
                    rằng chúng ta nên thực tập giận tức!  Tuy nhiên, chúng ta 
                    nên có một sự phân biệt rõ ràng quan trọng ở đây giữa những 
                    vấn đề tinh thần nên bày tỏ, biểu lộ  và những vấn đề không 
                    nên làm như vậy.   Thỉnh thoảng chúng ta có thể có những sai 
                    lầm thật sự và thật đúng đắn để chúng ta bày tỏ để gở mối 
                    day dứt,tự thán thay vì để nó trở thành một nội kết phiền 
                    muộn trong tâm ta.  Nhưng chúng ta không nên biểu lộ nó bằng 
                    sự giận dữ.   Nếu chúng ta nuôi dưỡng, ấp ủ những tâm tư 
                    phiền não tiêu cực như giận tức chúng sẽ trở thành một thành 
                    phần của cá nhân chúng ta;  mỗi lần chúng ta biểu lộ giận dữ 
                    nó trở nên dễ dàng để biểu lộ như thế một lần nữa.  Chúng ta 
                    cứ làm như thế lần này rồi lần khác cho đến khi chúng ta đơn 
                    giản chỉ là một người cuồng dại hoàn toàn không thể kiểm 
                    soát.  Vì vậy, trong phạm trù của những vấn đề tinh thần, có 
                    những vấn đề nào đấy thích đáng để bày tỏ còn những vấn đề 
                    khác thì không nên. 
                  
                  
                    
                    
                                Trước tiên chúng ta cảm thấy khó khăn trong việc 
                    cố gắng để kiểm soát những tâm tư phiền não tiêu cực.  Ngày 
                    đầu tiên, tuần đầu tiên, tháng đầu tiên chúng ta không thể 
                    kiêm soát chúng tốt đẹp được.  Nhưng với sự liên tục tác 
                    động những tiêu cực của chúng ta sẽ dần dần giảm xuống.  
                    Tiến trình trong sự tu dưỡng phát triển tâm không phải đến 
                    từ việc dùng thuốc uống hay những thứ hóa chất khác; nó tùy 
                    thuộc vào việc kiểm soát tâm. 
                  
                  
                    
                    
                                Vì vậy chúng ta có thể thấy rằng nếu chúng ta 
                    muốn hoàn thành những nguyện ước của chúng ta, là tạm bợ tức 
                    thời hay căn bản rốt ráo, chúng ta nên hướng thệ nguyện đến 
                    những chúng sinh khác nhiều hơn cả là những viên ngọc ước và 
                    luôn luôn yêu mến họ trên tất cả những thứ khác. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Câu hỏi: Có phải tất cả những mục tiêu của việc 
                    thực tập này để tu dưỡng phát triển tâm chúng ta hay thực sự 
                    là làm những việc để giúp đở những người khác?  Điều nào là 
                    quan trọng hơn?
                    
                  
                  
                    
                    
                                Trả lời: 
                    Cả hai đều quan trọng.  Trước tiên, nếu chúng ta không có 
                    động cơ trong sạch, bất cứ những gì chúng ta làm có thể 
                    không hài lòng.  Vì vậy, việc trước nhất chúng ta nên làm là 
                    phát triển động cơ trong sạch. Nhưng chúng ta không phải chờ 
                    cho đến khi động cơ ấy hoàn toàn phát triển trước khi thật 
                    sự hành động giúp đở những kẻ khác.  Dĩ nhiên, để giúp đở 
                    những kẻ khác trong những phương thức hữu hiệu nhất có thể 
                    chúng ta phải hoàn toàn giác ngộ như những Đức Phật.  Ngay 
                    cả giúp đở những người khác trong những phương thức rộng lớn 
                    bao quát cùng khắp chúng ta cần đạt đến những tầng bậc của 
                    một vị Bồ tát, đấy là, phải có kinh nghiệm trực tiếp, nhận 
                    thức vô phân biệt thực tại của tính không và phải đạt đến 
                    những năng lực ngoài những giác quan cảm giác thông thường, 
                    hay thần thông.  Tuy vậy, có nhiều trình độ khác nhau để 
                    giúp đở những người khác.  Ngay cả trước khi chúng ta đạt 
                    đến những phẩm chất này chúng ta có thể hành động như những 
                    vị Bồ tát, nhưng thông thường những hành động của chúng ta 
                    kém hiệu quả hơn những vị ấy.  Vì vậy, không phải đợi cho 
                    đến khi chúng ta đấy đủ hoàn toàn những phẩm chất, chúng ta 
                    có thể phát sinh những động cơ tốt đẹp, hảo thiện và với sự 
                    cố gắng đấy để giúp đở những kẻ khác trong những phương thức 
                    tốt nhất mà chúng ta có thể hành động.  Điều này là một sự 
                    tiếp cận cân bằng hơn và tốt hơn là chỉ đơn giản ẩn trú một 
                    nơi cô lập nào đấy để thiền định và tụng niệm.  Dĩ nhiên, 
                    điều này tủy thuộc rất nhiều trên từng cá nhân.  Nếu chúng 
                    ta tin tưởng rằng an trú tại một nơi biệt lập chúng ta có 
                    thể đạt được những sự thực chứng rõ rệt  trong một thời điểm 
                    nào đấy, đó lại là chuyện khác.  Có lẻ tốt nhất nên dành 
                    phân nửa thời gian của chúng ta để hoạt động và phân nửa kia 
                    để thực tập thiền định. 
                  
                  
                    
                    
                                Câu hỏi:  Tây Tạng là một xứ sở Phật giáo.  Nếu 
                    những giá trị mà Ngài đã diễn tả là của Đạo Phật, tại sao có 
                    rất nhiều thứ không cân bằng trong xã hội Tây Tạng.
                    
                  
                  
                    
                    
                                Trả lời:  
                    Con người yếu đuối.  Mặc dù Tây Tạng đúng thực là một xứ sở 
                    Phật giáo, nó cũng có những người xấu hay hư đốn.  Ngay cả 
                    trong những cơ sở chùa chiền, tu viện, cũng có thể trở thành 
                    thối nát hay biến thành nơi bị lợi dụng.  Nhưng tất cả đều 
                    giống nhau, so sánh với nhiều xã hội khác, Tây Tạng thanh 
                    bình hơn, hòa hiệp hơn và ít có những vấn nạn hơn. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                2- Khi kết thân với những người khác, tôi sẽ xem 
                    như  tự mình là thấp nhất trong tất cả, và từ chiều sâu của 
                    con tim ôm ấp những người khác thân thương và quan trọng 
                    nhất.
                    
                  
                  
                    
                    
                                Không kể chúng ta là ai với chúng ta, chúng ta 
                    thường nghĩ những việc như, “Tôi mạnh hơn người kia, “ tôi 
                    đẹp hơn người kia”, tôi thông minh hơn người kia,” tôi giàu 
                    có hơn”, tôi xứng đáng hơn người kia rất nhiều”, v.v và v.v…-  
                    chúng ta phát sinh rất nhiều tự hào.  Điều này không tốt.  
                    Thay vì vậy, chúng ta nên luôn luôn duy trì khiêm tốn.  Ngay 
                    cả khi chúng ta giúp đở những kẻ khác và tham gia vào hoạt 
                    động từ thiện, chúng ta không nên  xem chính mình trong cách 
                    kiêu căng như những người hộ vệ vĩ đại lợi ích những kẻ yếu. 
                    Điều này cũng là kiêu ngạo.  Tốt hơn, chúng ta nên liên hệ 
                    trong những hành động như thế một cách thật khiêm tốn và 
                    nghĩ rằng chúng ta dâng hiến sự phụng sự của chúng ta đến 
                    mọi người. 
                  
                  
                    
                    
                                Khi chúng ta so sánh chúng ta với những con thú, 
                    thí dụ, chúng ta có thể nghĩ, “ta có thân thể một con người” 
                    hay “ta là người thọ giới” và cảm thấy cao hơn những người 
                    khác.  Cũng từ quan kiến ấy, chúng ta có thể nói rằng chúng 
                    ta có thân thể con người và đang thực hành lời Phật dạy và 
                    vì vậy chúng ta thật rất là hơn hẳn những côn trùng.  Nhưng 
                    bằng cách khác, chúng ta có thể nói rằng những côn trùng thì 
                    thật vô tội  và chẳng bao giờ lừa đảo, nhưng trái lại chúng 
                    ta thường dối trá , xuyên tạc, bóp méo chính mình trong 
                    trong những cách không thành thật để đạt đến mục tiêu cuối 
                    cùng hay tự làm mình hơn những người khác.  Từ quan kiến này 
                    chúng ta  phải nói là chúng ta thật tệ hơn những côn trùng, 
                    điều mà chúng chỉ tiến đến những hành động của chúng mà 
                    không giả vờ bất cứ điều gì.  Đây là một phương pháp rèn 
                    luyện trong khiêm tốn nhún nhường. 
                  
                  
                    
                    
                                3-  Thận trọng, tỉnh giác, thời khắc một vọng 
                    tưởng xuất hiện trong tâm tôi, nguy hại cho chính mình và 
                    những người khác, tôi sẽ đối diện và ngăn ngừa nó không chút 
                    chậm trễ.
                    
                  
                  
                    
                    
                                Nếu khảo sát tâm chúng ta tại những thời điểm mà 
                    chúng ta thật ích kỷ và bận rộn với chính mình để loại trừ 
                    những người khác, chúng ta sẽ thấy rằng tâm thức phiền não 
                    tiêu cực là gốc rể của thái độ này.  Vì lẻ chúng quấy rầy 
                    tâm chúng ta cực độ, thời điểm chúng ta để ý rằng chúng ta 
                    đang tiến đến gần sự ảnh hưởng của chúng, chúng ta nên áp 
                    dụng một số biện pháp hóa giải chúng.  Đối thủ phổ thông với 
                    tất cả những tâm thức phiền não là thiền định trên tính 
                    không, nhưng cũng có thuốc giải đến từng loại  đặc hữu mà 
                    chúng ta những người mới bắt đầu có thể áp dụng.  Vì vậy, 
                    đối với chấp ngã, thủ trước, dính mắc, chúng ta thiền định 
                    trên tính xấu xí; với giận tức , trên yêu thương; với mù 
                    quáng si mê, trên duyên khởi; cho nhiều tư tưởng phiền não, 
                    trên hơi thở và năng lựơng của gió. 
                  
                  
                    
                    
                                Hỏi:  Điều gì là tùy thuộc hưng khởi hay duyên 
                    khởi?
                    
                  
                  
                    
                    
                                Trả lời: 
                    Mười hai khoen nhân duyên, hay nguyên khởi tùy thuộc tương 
                    liên.  Chúng bắt đầu bằng vô minh và đi qua đến  già và chết.  
                    Trên những trình độ vi tế hơn chúng ta có thể dùng duyên 
                    khởi như một nhân để chứng minh rằng mọi sự, mọi vật thì 
                    trống rỗng  trong sự hiện hữu thật sự. 
                  
                  
                    
                    
                                Hỏi:  Tại sao chúng ta nên thiền định trên tính 
                    xấu xí để vượt thắng chấp ngã, thủ trước, hay dính mắc?
                    
                  
                  
                    
                    
                                Trả lời:  
                    Chúng ta phát triển sự chấp trước đến những sự kiện, sự vật 
                    bởi vì chúng ta thấy chúng như là rất hấp dẫn.  Cố gắng để 
                    nhìn chúng như là không hấp dẫn, hay xấu xí, làm nó mất tác 
                    dụng hay hóa giải nó.  Thí dụ, chúng ta có thể phát triển 
                    chấp trước đến thân thể một ai đấy, thấy hình dáng người ấy 
                    rất hấp dẫn.  Khi chúng ta bắt đầu phân tích sự dính mắc này 
                    chúng ta thấy rằng nó chỉ căn cứ trên hình ảnh đơn thuần của 
                    làn da.  Tuy nhiên, tính tự nhiên của thân thể này xuất hiện 
                    đến chúng ta như  đẹp đẻ là thịt, máu, xương, da v.v…của 
                    điều nó tập hợp.  Giờ đây hãy phân tích làn da con người:  
                    thí dụ, lấy của chính chúng ta.  Nếu một mãnh da rơi ra và 
                    chúng ta để nó trong một ngăn khoảng vài ngày nó trở nên ghê 
                    gớm thật sự.  Đây là tính tự nhiên của da.  Tất cả những 
                    phần khác của thân thể cũng như vậy.  Không có sự xinh đẹp 
                    trong từng mãnh thịt, của con người;  khi chúng ta thấy máu 
                    chúng ta có thể cảm thấy sợ, không vướng bận.  Ngay cả một 
                    khuôn mặt mỹ miều xinh đẹp:  nếu nó bị trầy xước không có gì 
                    đẹp đẻ về nó;  rửa sạch phấn son – không còn gì cả!  Xấu xí 
                    là tính tự nhiên của thân thể vật lý.  Xương người, cả bộ 
                    xương người, cũng là ghê sợ; hình ảnh sọ người cùng xương 
                    chéo X có một ý nghĩa thật tiêu cực và dữ dội. 
                  
                  
                    
                    
                                Vâng đấy là phương pháp để phân tích đối với 
                    những gì mà chúng ta dính mắc, ái luyến, hay yêu mến -  sử 
                    dụng ngôn ngữ này trong ý nghĩa tiêu cực của sự dính mắc 
                    khao khát ước vọng.  Hãy suy nghĩ thêm những đối tượng về 
                    phương diện xấu xí; phân tích tính tự nhiên của con người 
                    hay sự vật từ quan điểm này.  Ngay cả nếu điều này không 
                    kiểm soát sự vướng mắc, chấp trước của chúng ta hoàn toàn, 
                    tối thiểu nó cũng giúp chúng ta giảm bớt sự dính mắc một ít.  
                    Đây là mục tiêu của thiền định hay thiết lập nên thói quen 
                    quán sát khía cạnh xấu xí của những sự vật. 
                  
                  
                    
                    
                                Một loại yêu thương khác, sự ân cần tử tế, nó 
                    không căn cứ trên lý do rằng “những người như vậy và như thế 
                    là xinh đẹp, vì vậy, tôi  phải tôn trọng và tử tế.”  Căn bản 
                    thiết yếu của lòng yêu thương tinh khiết  là, “Đây là một 
                    chúng sinh muốn vui tươi hạnh phúc, không muốn phiền muộn 
                    khổ đau và có quyền để hạnh phúc.  Vì vậy, tôi nên cảm nhận 
                    yêu thương và từ bi.”  Loại yêu thương này hoàn toàn khác 
                    biệt với loại yêu thương đầu tiên, điều căn cứ trên sự si mê 
                    vô minh và vì vậy hoàn toàn không lành mạnh, không chính 
                    đáng.  Đấy là những lý do của lòng yêu thương rộng lớn hay 
                    từ bi là lành mạnh, chính đáng, đúng đắn.  Với tình yêu căn 
                    cứ trên sự chấp trước , hay dính mắc, nếu có một sự thay đổi 
                    nhỏ trên đối tượng, như một tí thay đổi của thái độ, lập tức 
                    là nguyên nhân để chúng ta đổi thay.  Đấy là bởi vì cảm xúc 
                    của chúng ta chỉ căn cứ những gì trên bề mặt rất cạn cợt.  
                    Lấy một thí dụ,  một cuộc hôn nhân mới mẻ.  Thường thì sau 
                    vài tuần, vài tháng, hay vài năm cặp hôn nhân trở thành 
                    những kẻ thù và cuối cùng đi đến ly dị.  Họ đã kết hôn trong 
                    sự yêu thương sâu lắng – không ai chọn thành thân với sự thù 
                    ghét – nhưng sau một thời gian ngắn mọi thứ thay đổi.  Tại 
                    sao?  Do bởi căn cứ cạn cợt trên bề mặt của mối quan hệ; một 
                    sự thay đổi nhỏ của một người là nguyên nhân cho một sự thay 
                    đổi hoàn toàn thái độ của người kia. 
                  
                  
                    
                    
                                Chúng ta nên nghĩ, “người kia là một con người 
                    như tôi.  Chắc chắn là tôi muốn hạnh phúc; vì vậy, cô ta /cậu 
                    ta cũng phải muốn hạnh phúc.  Như một chúng sinh tôi có 
                    quyền để hạnh phúc; cùng lý do ấy, người kia cũng thế, có 
                    quyền để hạnh phúc an lạc.  “Lý do chính đáng này cho khởi 
                    lên một lòng yêu thương và từ bi.  Thế thì không cần biết 
                    quan niệm của chúng ta với sự thay đổi của người kia là thế 
                    nào – từ tốt đến xấu đến vô cùng tệ hại -  người kia luôn 
                    luôn căn bản là một chúng sinh.  Vì vậy, lý do chính để hiển 
                    lộ lòng từ bi yêu thương là luôn luôn ở đấy, cảm nhận của 
                    chúng ta đối với người kia là kiên định một cách toàn hảo.
                    
                  
                  
                    
                    
                                Thuốc giải độc cho sân hận-giận tức là thiển 
                    định về yêu thương, bởi vì sân hận-giận tức là một tâm thức 
                    rất thô lổ, sống sượng, cộc cằn vì thế cần được làm dịu dàng, 
                    mềm mỏng với tình yêu thương. 
                  
                  
                    
                    
                                Khi chúng ta vui thích với những đối tượng mà 
                    chúng ta nối kết, gắn bó, hay dính mắc, chúng ta chắc chắn 
                    trải qua kinh nghiệm hân hoan, khoái lạc hay thú vị; nhưng 
                    như Tổ Long Thọ đã từng nói, điều ấy như có một mụn ngứa và 
                    gảy ngứa; nó cho chúng ta sự thích ý nhưng chúng ta sẽ khá 
                    hơn nếu trước tiên chúng ta đừng có cái mụn ngứa ấy. Cũng 
                    giống như thế, khi chúng ta nhận được những thứ mà với chúng 
                    ta bị ám ảnh, mê thích chúng ta cảm thấy vui sướng, nhưng 
                    chúng ta sẽ khá hơn nếu chúng được tự do với điều mà chúng 
                    ta bị dính mắc,vướng bận, mong mỏi  và là nguyên nhân để 
                    chúng ta trở nên bị ám ảnh với những thứ ấy. 
                  
                  
                    
                    
                                4- Bất cứ khi nào tôi thấy những chúng sinh xấu 
                    xa, tệ ác, nguy hại một cách tự nhiên và tràn ngập bởi những 
                    hành vi bạo động tiêu cực và khổ đau, tôi sẽ ôm ấp những 
                    người yêu mến hiếm hoi như vậy, y như là tôi vừa tìm thấy 
                    một kho tàng trân quý.
                    
                  
                  
                    
                    
                                Nếu chúng ta quán sát những người như bởi tự 
                    nhiên rất bạo ác, thô lỗ, tục tằn và khó chịu, phản ứng 
                    thông thường của chúng ta là lẫn tránh người ấy.  Trong 
                    những trường hợp như thế tình yêu thương của chúng ta hướng 
                    đến người khác có khả năng bị giảm sút.  Thay vì cho phép 
                    tình yêu thương của chúng ta đến người khác yếu đuối bởi suy 
                    nghĩ rằng kẻ kia là một người xấu ác hay tội lổi, chúng ta 
                    nên thấy người ấy như một đối tượng đặc biệt của tỉnh thương 
                    và từ bi và yêu mến người ấy dường như là chúng ta tình cờ 
                    bắt gặp một kho tàng quý giá, khó khăn để tìm thấy. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                5-  Khi, vì sự thèm muốn, đố kỵ, ghen tỵ, những 
                    người khác ngược đãi tôi với sự lạm dụng, xỉ vả hay gièm pha,…,tôi 
                    sẽ chấp nhận thua cuộc và dành thắng  lợi cho những kẻ khác.
                    
                  
                  
                    
                    
                                Nếu có những người xỉ vả, ngược đãi hay bình 
                    phẩm, chỉ trích chúng ta, nói rằng chúng ta kém cõi, bất tài, 
                    không đủ khả năng làm bất cứ việc gì, v.v…,  chúng ta chắc 
                    là có thể rất giận dữ và phản bác lại những gì người kia nói.  
                    Chúng ta không nên hành động như vậy, thay vì thế, với sự 
                    khiêm tốn và bao dung, chúng ta nên chập nhận những gì đã 
                    được phát biểu. 
                  
                  
                    
                    
                                Nơi mà nói rằng chúng ta nên chấp nhận thất bại 
                    và nhường sự thắng lợi cho người khác,  chúng phải phân làm 
                    hai loại khác nhau của tình trạng.  Nếu một mặt, chúng ta bị 
                    ám ảnh với lợi ích của chính chúng ta và động cơ rất là ích 
                    kỷ, chúng ta nên chấp nhận thua cuộc và nhường chiến thắng 
                    cho kẻ khác, ngay cả có thể đời sống chúng ta bị lâm nguy.  
                    Nhưng có thể về phương diện khác, trường hợp tình trạng như 
                    vậy mà quyền lợi của những kẻ khác bị lâm nguy, chúng ta 
                    phải hành động thật  năng nổ và đấu tranh vì quyền lợi của 
                    những người khác, và không chấp nhận thua cuộc với bất cứ 
                    giá nào. 
                  
                  
                    
                    
                                Một trong bốn mươi sáu thệ nguyện của một vị Bố 
                    tát liên hệ đến một trường hợp khi mà ai đấy làm những hành 
                    vi rất là tai hại và chúng ta phải dùng đến những biện pháp 
                    vũ lực hay bất cứ cách nào khác cần thiết để chấm dứt những 
                    hành vi bạo ngược của kẻ ấy lập tức – nếu chúng ta không 
                    hành động, chúng ta vị phạm lời thệ nguyện ấy.  Có thể thấy 
                    rằng lời thệ nguyện của một vị Bố tát và đề mục thứ năm này, 
                    nói rằng một người nên chấp nhận thua cuộc và nhường thắng 
                    lợi cho kẻ khác, là mâu thuẫn, nhưng không như vậy.  Thệ 
                    nguyện của một vị Bố tát đáp ứng với một tình trạng mà điểm 
                    chính yếu là sự quan tâm của một người đối với quyền lợi của 
                    những kẻ khác: nếu ai đấy đang làm những hành vi cực kỳ tai 
                    hại và nguy hiểm thì thật là sai lầm nếu không có những hành 
                    động mạnh mẻ để chấm dứt chúng, nếu cần thiết. 
                  
                  
                    
                    
                                Ngày nay, ngay trong những xã hội tranh đua, 
                    những hành động tự vệ mạnh mẽ hay tương tự như thế thì 
                    thường luôn luôn được đòi hỏi.  Động lực như thế này không 
                    nên  bị ích kỷ nhuốm màu nhưng là những cảm giác rộng rãi 
                    bao la của ân cần và từ bi yêu thương đối với kẻ khác.  Nếu 
                    chúng ta hành động với những cảm nhận, ý thức như thế để hổ 
                    trợ, cứu giúp kẻ khác tránh khỏi tai họa do những nghiệp cảm 
                    tiêu cực tạo ra, điều này hoàn toàn đúng đắn. 
                  
                  
                    
                    
                                HỎI:  Nếu đôi khi có thể cần thiết để có những 
                    hành động mạnh mẻ khi chúng ta thấy những điều gì ấy là sai, 
                    nhưng phán đoán của ai mà chúng ta có thể tin tưởng đối với 
                    những quyết định như thế?  Chúng ta có thể dựa trên nhận 
                    thức của chính chúng ta đối với thế giới không?
                    
                  
                  
                    
                    
                                ĐÁP:  
                    Điều ấy thật phức tạp.  Khi chúng ta quyết định nhận lấy 
                    phần thua cho chính mình, chúng ta phải thấy hoặc nhường 
                    phần thắng cho kẻ kia sẽ lợi ích cho họ căn bản hay chỉ tạm 
                    thời.  Chúng ta cũng phải quan tâm ảnh hưởng mà khi nhận 
                    phần thua trên chính mình sẽ có trên khả năng hay năng lực 
                    của chúng ta để hổ trợ kẻ khác trong tương lai.  Nó cũng có 
                    thể là bằng việc hành động điều gì ấy mà tai hại đến kẻ khác 
                    ngay bây giờ, chúng ta tạo nên một công đức to lớn và nó sẽ 
                    có thể hổ trợ cho chúng ta làm những việc lợi ích rộng lớn 
                    hơn cho những kẻ khác về lâu về dài; đây là một nhân tố khác 
                    chúng ta phải tiếp nhận vào trong nhận thức và tạng thức, về 
                    tầm quan trọng của nó. 
                  
                  
                    
                    
                                Như đã nói trong “Hướng dẫn về đời sống của con 
                    đường Bố tát” (Bodhicaryavatara ), chúng ta phải thử nghiệm, 
                    cả bề mặt và chiều sâu, không biết những lợi ích của những 
                    hành động vốn vị cấm đoán là có nhiều tác dụng hơn là nhược 
                    điểm hay không.  Tại những thời điểm khi nó thật khó khăn để 
                    mà phán quyết, chúng ta nên kiểm soát lại động cơ thúc đẩy. 
                    Trong Toát yếu Giáo nghĩa Đạo Phật (Shiksa-Samuccaya), Bình 
                    Thiên Tôn giả nói rằng những lợi ích của những hành động 
                    được làm với tâm bố đề có tác dụng nhiều hơn là những tiêu 
                    cực đối với khi hành động không có động cơ như thế.  Mặc dù 
                    nó cực kỳ quan trọng, những có thể đôi khi thật khó khăn để 
                    thấy lằn ranh giữa điều gì nên làm và điều gì không nên làm, 
                    vì vậy, chúng ta nên học hỏi những kinh luận giải thích về 
                    những điều như thế.  Trong những luận giải thấp hơn nó sẽ 
                    nói rằng những hành vi nào đấy là bị cấm đoán trong khi 
                    những luận giải cao hơn nói với chúng ta rằng cũng cùng 
                    những hành vi ấy nhưng được cho phép.  Càng thông hiểu hơn 
                    về tất cả những điều này nó càng dễ dàng hơn, nó sẽ được 
                    quyết định điều gì nên làm trong bất cứ mọi trạng huống.
                    
                  
                  
                    
                    
                                6- Khi những ai đấy mà tôi đã từng làm lợi ích 
                    đến và trong những ai đấy tôi đã từng có những niềm hy vọng 
                    lớn lao lại mang đến cho tôi những tai họa khủng khiếp, tôi 
                    sẽ nhìn người ấy như bậc đạo sư thánh thiện của tôi.
                    
                  
                  
                    
                    
                                Thông thường chúng ta dự tưởng rằng những ai đấy 
                    mà mình từng giúp đở những gì to tát là phải rất biết ơn 
                    chúng ta và nếu họ lại hành động đến mình với sự vô ơn chắc 
                    là chúng ta phải giận dữ.  Trong những trường hợp như thế, 
                    chúng ta không nên khó chịu nhưng thay vì thế phải thực hành 
                    nhẫn nại.  Hơn thế nữa, chúng ta nên thấy những người như 
                    thế là những vị thầy thử thách sự nhẫn nhục của chúng ta và 
                    vì thế nên đối xử với họ một cách tôn trọng.  Đề mục này 
                    chứa đựng tất cả trong “Hướng dẫn về đời sống của con đường 
                    Bố tát” về nhẫn nhục. 
                  
                  
                    
                    
                                7- Trong vắn tắt, cả trực tiếp và gián tiếp, tôi 
                    xin dâng hiến mọi niềm hạnh phúc, an lạc và lợi ích đến tất 
                    cả những bà mẹ của tôi.  Tôi sẽ gánh vác một cách bí mật 
                    trên tôi tất cả những hành động tai hại và khổ đau của họ.
                    
                  
                  
                    
                    
                                Điều này hướng đến việc thực hành gánh vác trên 
                    chính chúng ta tất cả những khổ đau của những người khác và 
                    dâng hiến đến họ tất cả những niềm hạnh phúc, an lạc của 
                    chúng ta, động cơ thúc đẩy bởi lòng từ bi và yêu thương mạnh 
                    mẽ.  Tự chính chúng ta muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau 
                    và có thể thấy rằng tất của hữu tình chúng sinh cũng cảm 
                    nhận như thế.  Chúng ta cũng có thể thấy rằng những hữu tình 
                    chúng sinh khác ngập tràn khổ đau nhưng không biết làm thế 
                    nào để lìa xa chúng.  Vì vậy, nên phát sinh ý niệm gánh vác 
                    tất cả những khổ đau và nghiệp báo tiêu cực và nguyện cầu 
                    cho nó chin muồi, trổ quả trên chính chúng ta ngay lập tức.  
                    Giống như thế, rõ ràng những hữu tình chúng sinh trống vắng 
                    hạnh phúc, họ tìm kiếm nhưng không biết làm thế nào để gặp 
                    được hạnh phúc.  Vì vậy, không có chút gì bỏn xẻn xan lẫn, 
                    chúng ta nên dâng hiến cho họ tất cả những hạnh phúc của 
                    chúng ta – thân thể, phú quý và công đức – và cầu nguyện cho 
                    những điều này chin muồi, kết quả trên họ ngay lập tức.
                    
                  
                  
                    
                    
                                Dĩ nhiên, không chắc rằng chúng ta thật thực sự 
                    có thể gánh vác những khổ đau của kẻ khác và trao tặng hạnh 
                    phúc của chúng ta cho họ.  Khi những hoán chuyển như thế 
                    giữa những hữu tình chúng sinh thật sự xảy ra, nó là kết quả 
                    của một số liên hệ nghiệp quả liên tục rất mạnh mẻ nào đấy 
                    từ quá khứ kiếp.  Tuy thế, sự thiền định đề mục này là rất 
                    mãnh liệt có ý nghĩa của việc xây dựng nên sự can đảm trong 
                    tâm chúng ta và vì thế là một thực hành có lợi ích cao 
                    thượng. 
                  
                  
                    
                    
                                Trong “Bảy điểm chuyển hóa tâm” nói rằng chúng 
                    ta nên luân phiên thực hành “cho và nhận” và trang bị chúng 
                    trên từng hơi thở.  Và ở đây, Langri Tangpa nói rằng những 
                    điều này nên được hoàn thành một cách bí mật.  Khi nó được 
                    giải thích trong “Hướng dẫn về đời sống của con đường Bố tát”, 
                    điều thực hành này không thích hợp với tâm lý những Bố tát 
                    sơ tâm – nó là những gì được chọn lựa ở một số ít hành giả.  
                    Vì thế, nó được gọi là bí mật. 
                  
                  
                    
                    
                                HỎI:  Trong “Hướng dẫn về đời sống của con đường 
                    Bố tát”, Bình Thiên Tôn Giả nói rằng: “…nếu vì lợi ích của 
                    kẻ khác mình làm tổn hại chính mình, tôi sẽ đảm nhận tất cả, 
                    điều ấy thật cừ khôi, trác tuyệt.  Mặt khác, Tổ Sư Long Thọ 
                    nói rằng, chúng ta không nên hành hạ thân thể mình.  Thế thì, 
                    trong phương thức nào của Tôn Giả Bình Thiên lại có ý nghĩa 
                    một người nên làm tổn hại chính mình?
                    
                  
                  
                    
                    
                                ĐÁP:  
                    Điều này không có nghĩa là chúng ta phải tự đánh vào đầu 
                    mình hay những việc tương tự.  Tôn Giả Bình Thiên (Shantideva) 
                    đang nói rằng tại nhưng thời điểm khi những tư tưởng tự 
                    luyến ái khởi lên mảnh liệt chúng ta phải tranh luận rất 
                    mạnh mẻ với chính mình và dùng những ý nghĩa sinh động đầy 
                    sức thuyết phục để chinh phục hay làm dịu chúng xuống; trong 
                    ý nghĩa khác, chúng ta phải tự làm tổn hại hay hao mòn tâm 
                    thức tự ngã ái luyến chính mình.  Chúng ta phải phân biệt rõ 
                    ràng giữa cái "tôi" hoàn toàn bị ám thị với những quyền lợi 
                    của chính nó và cái "tôi" sẽ trở nên giác ngộ:  đấy là một 
                    sự khác biệt lớn lao.  Và chúng ta phải thấy câu này của 
                    “Hướng dẫn về đời sống của con đường Bố tát”, trong văn bản 
                    với những dòng này trước và thực hành theo.  Có nhiều cách 
                    khác nhau cái "tôi" được bàn cải: sự vướng mắc chấp trước 
                    chính là đặc tính của cái "tôi", ái luyến tự ngã, cái "tôi" 
                    mà chúng ta phối hợp với nó trong sự quán sát những sự kiện 
                    từ quan điểm của những kẻ khác và v.v...Chúng ta phải thấy 
                    sự bàn luận về tự ngã trong những luận giải khác nhau.
                    
                  
                  
                    
                    
                                Nếu nó thật sự lợi ích cho người khác, nếu nó 
                    lợi ích ngay cả cho một chúng sinh, nó xứng đáng cho chúng 
                    ta đảm đương trên chính mình những khổ đau hiện hữu trong 
                    tam giới hay đi đến một trong những địa ngục, và chúng ta 
                    nên có sự can đảm, dõng cảm để làm điều này.  Để đạt đến 
                    giác ngộ vì lợi ích của chúng sinh chúng ta nên hoan hỉ, 
                    quyết tâm và tự nguyện để sống ở địa ngục thấp nhất, ngục A 
                    tỳ, trong thời gian vô tận.  Đây là ý nghĩa của việc đảm 
                    đương những tổn hại, điều làm khổ sở, đớn đau,ưu phiền của 
                    kẻ khác trên chính chúng ta. 
                  
                  
                    
                    
                                HỎI:  Chúng ta phải làm gì để vào địa ngục thấp 
                    nhất?
                    
                  
                  
                    
                    
                                ĐÁP: 
                    Điểm để phát triển lòng quả cảm, can đảm, dõng mãnh là quyết 
                    tâm tự nguyện để đi đến một trong những địa ngục; nó không 
                    có nghĩa là chúng ta thật sự phải đi đến đấy.  Khi hành giả 
                    Kadampa geshe Chekawa đang sắp viên tịch, ngài đột nhiên gọi 
                    đệ tử của ngài và yêu cầu họ làm những sự cúng dường, những 
                    đàn tràng và cầu nguyện cho ngài bởi vì những sự hành trì 
                    của ngài đã không thành tựu.  Những đệ tử rất bất an bởi vì 
                    họ nghĩ rằng có điều gì kinh khiếp không lành sẽ xảy ra.  
                    Tuy nhiên, ngài giải thích rằng, mặc dù suốt cuộc đời ngài 
                    đã từng cầu nguyện để được sinh ra trong những địa ngục vì 
                    lợi ích của kẻ khác, giờ đây, ngài tiếp nhận một linh cảm 
                    thuần khiết của những gì sẽ tiếp diễn - ngài sẽ được tái 
                    sinh ở cõi Tịnh Độ thay vì ở địa ngục - và đấy là tại sao 
                    ngài bối rối.  Cũng như thế, nếu chúng ta phát triển một 
                    nguyện ước mãnh liệt, chân thành để tái sinh trong những 
                    cảnh giới thấp nhất vì lợi ích của những chúng sinh khác, 
                    chúng ta sẽ tích tập được một công đức to lớn vô biên và 
                    điều ấy sẽ mang đến những kết quả ngược lại. 
                  
                  
                    
                    
                                Đó là tại sao chúng tôi nói rằng, nếu chúng ta 
                    ích kỷ thì chúng ta nên ích kỷ một cách thông minh.  Thực tế, 
                    hay hẹp hòi, ích kỷ làm nguyên nhân chúng ta đi xuống; thông 
                    minh ích kỷ đưa chúng ta đến Phật quả. Điều ấy thật sự thông 
                    tuệ!  Bất hạnh thay, điều chúng ta thường làm trước nhất là 
                    đến với Phật quả.  Theo kinh điển, chúng ta hiểu rằng để đạt 
                    đến Phật quả chúng ta cần tâm bố đề và nếu không có nó chúng 
                    ta không thể trở nên giác ngộ; vì vậy chúng ta nghĩ, "tôi 
                    muốn quả Phật, vì thế tôi phải thực hành bố đề tâm."  Chúng 
                    ta không quá quan tâm nhiều đến bố đề tâm cũng như Phật quả.  
                    Điều này là sai lầm một cách chắc chắn.  Chúng ta phải làm 
                    ngược lại; hãy quên động cơ ích kỷ và thật sự nghĩ làm thế 
                    nào để giúp kẻ khác. 
                  
                  
                    
                    
                                Nếu chúng ta đến địa ngục chúng ta không thể 
                    giúp đở cho người khác hay chính mình.  Chúng ta làm thế nào 
                    để giúp?  Không phải chỉ bằng bố thí cho họ vài thứ gì đấy 
                    hay thi thố thần thông, nhưng bằng diễn giảng giáo pháp.  
                    Tuy nhiên,  trước nhất chúng ta phải có đủ năng lực để giảng 
                    dạy.  Hiện tại chúng ta không thể giải thích toàn bộ con 
                    đường - tất cả những sự hành trì và kinh nghiệm mà một người 
                    phải tiến từng bước từ trình độ thứ nhất đến cuối cùng, giác 
                    ngộ.  Có thể chúng ta có thể giải thích một vài cấp độ sơ cơ 
                    qua kinh nghiệm của chính chúng ta, nhưng không thể nhiều 
                    hơn thế.  Để có thể hổ trợ những người khác trong phương 
                    pháp rộng rãi nhất bằng sự hướng dẫn họ theo toàn bộ con 
                    đường giác ngộ, trước hết chúng ta phải giác ngộ cho chính 
                    mình.  Vì lý do này chúng ta nên thực hành tâm bố đề.  Điều 
                    này hoàn toàn khác biệt với cách suy nghĩ thông thường của 
                    chúng ta, khi mà chúng ta bị buộc phải nghĩ về những người 
                    khác và dâng hiến trái tim của chúng ta cho họ do bởi sự 
                    quan tâm ích kỷ về sự giác ngộ của chính chúng ta.  Cách này 
                    hướng về những thứ hoàn toàn sai lạc, một loại lừa phỉnh.
                    
                  
                  
                    
                    
                                HỎI: Tôi đọc trong một quyển sách nói rằng chỉ 
                    bằng thực hành giáo pháp chúng ta ngăn ngừa chín thế hệ thân 
                    quyến của chúng ta phải sinh vào địa ngục.  Điều ấy có đúng 
                    không?
                    
                  
                  
                    
                    
                                ĐÁP:  
                    Đấy là một ít phô trương!  Thật sự khã dĩ những việc như thế 
                    có thể xãy ra, nhưng thông thường nó không quá đơn giản như 
                    thế.  Thí dụ, chúng ta trì niệm mật ngôn OM MANI PADME HUM 
                    và dâng hiến công đức ấy cho sự nhanh chóng đạt đến giác ngộ 
                    vì lợi ích của tất cả chúng sinh.  Chúng ta có thể nói rằng 
                    chỉ bằng sự trì niệm mật ngôn chung ta sẽ tốc chứng giác ngộ, 
                    nhưng chúng có thể nói rằng những sự thọ trì như thế hành 
                    động như sự đóng góp cho NHÂN của giác ngộ.  Giống như thế, 
                    trong khi sự thực hành giáo pháp của chúng ta sẽ không tự hổ 
                    trợ thân quyến của chúng ta không đến những sự tái sinh thấp 
                    hơn, nhưng nó có thể hoạt động như một sự góp phần cho NHÂN 
                    này. 
                  
                  
                    
                    
                                Cho dù đây không phải là trường hợp, nếu sự hành 
                    trì của chúng ta hoạt động như nguyên nhân chính yếu của một 
                    kết quả kinh nghiệm bởi những người khác, nó sẽ mâu thuẩn 
                    với luật nghiệp báo, sự liên hệ giữa nguyên nhân và hiệu quả.  
                    Thế thì chúng ta chỉ giản dị ngồi lại và nghĩ ngơi thoãi mái 
                    và để chư Phật cùng các vị Bồ Tát làm mọi thứ cho chúng ta; 
                    chúng ta sẽ không phải nhận lấy một trách nhiệm nào đối với 
                    lợi ích của chính mình.  Tuy thế, Đấng giác ngộ hoàn toàn đã 
                    từng nói rằng tất cả những gì ngài có thể làm là giảng dạy, 
                    chỉ dẫn chúng ta giáo pháp, con đường giải thoát khỏi khổ 
                    đau, và thế là nó tuỳ thuộc vào chúng ta đặt mình vào sự 
                    thực hành - Ngài đã rửa tay của Ngài đối với trách nhiệm ấy!  
                    Như đạo Phật đã dạy rằng không có đấng tạo hoá và rằng chúng 
                    ta tạo dựng mọi thứ cho chính chúng ta, vì thế chúng ta là 
                    đạo sư của chính chúng ta -  trong giới hạn của luật nhân 
                    quả.  Và đây là luật nghiệp báo dạy rằng nếu chúng ta làm 
                    việc lành chúng ta sẽ trải qua kết quả kinh nghiệm lành và 
                    nếu chúng ta làm việc xấu chúng ta sẽ phải trải qua những 
                    kinh nghiệm của bất hạnh, khổ đau. 
                  
                  
                    
                    
                                HỎI:  Làm thế nào để phát triển nhẫn nhục?
                    
                  
                  
                    
                    
                                ĐÁP:  
                    
                    Có rất nhiều phương pháp.  Tri thức và tin tưởng vào luật 
                    nghiệp báo tự chinh nó sinh ra nhẫn nhục.  Chúng ta nhận 
                    thức rằng, "điều khổ đau này tôi đang gánh chịu là lỗi lầm 
                    của tôi hoàn toàn, kết quả của những hành động của chính tôi 
                    tạo nên trong quá khứ.  Vì rằng tôi không thể tránh khỏi nó 
                    tôi phải sống với nó.  Tuy vậy,  nếu tôi muốn tránh khổ đau 
                    trong tương lai tôi cũng có thể hành động bằng sự phát triển 
                    đạo đức như nhẫn nhục chẳng hạn.  Tức tối hay giận dữ với 
                    khổ đau này sẽ chỉ tạo nên những nghiệp tiêu cực, nguyên 
                    nhân của bất hạnh tương lai". Đây là một cách thực hành nhẫn 
                    nhục. 
                  
                  
                    
                    
                                Một việc khác chúng ta có thể làm là thiền định 
                    trên sự khổ đau tự nhiên của thân thể:  "Thân thể và tâm 
                    thức này là cơ sở của tất cả những khổ đau, nó là tự nhiên 
                    và không có cách nào trông mong rằng khổ đau ơi, đừng khởi 
                    lên."  Loại nhận thức này hổ trợ rất hiệu quả cho việc phát 
                    triển nhẫn nhục. 
                  
                  
                    
                    
                                Chúng ta cũng có thể nhắc lại những gì đã nói 
                    trong  “Hướng dẫn về đời sống của con đường Bố tát” (Bodhicaryavatara):
                    
                  
                  
                    
                    
                                - Tại sao không vui vẻ với những gì?
                  
                  
                    
                    
                                - Nếu nó có thể được cứu chửa. 
                  
                  
                    
                    
                                - Và điều gì là thói quen của chúng sinh không 
                    vui vẻ về những gì? 
                  
                  
                    
                    
                                - Nếu nó không thể được cứu chửa. 
                  
                  
                    
                    
                                Nếu có một phương pháp vượt thoát khổ đau hay 
                    một cơ hội để làm như thế, chúng không phải lo lắng.  Nếu 
                    thật sự không có gì chúng ta có thể làm để thoát khổ, lo 
                    lắng không giúp được gì cả.  Điều này thật đơn giản và rất 
                    rõ ràng. 
                  
                  
                    
                    
                                Những gì khác chúng ta có thể làm là suy tư sự 
                    bất lợi của tức giận và thuận lợi của thực hành nhẫn nhục.  
                    Chúng ta là những con người - một trong những phẩm chất hơn 
                    hẳn của chúng ta là khã năng suy nghĩ và phán đoán của chúng 
                    ta.  Nếu chúng ta mất nhẫn nại và lại tức giận, chúng ta mất 
                    đi khã năng để thực hiện những phán xét cụ thể và vì thế mất 
                    đi một trong những công cụ hiệu lực nhất mà chúng ta có để 
                    giải quyết những vấn nạn: đấy là tuệ trí của con người.  Đây 
                    là những gì mà thú vật không có.  Nếu chúng ta mất đi nhẫn 
                    nhục, và lại cáu tức chúng ta đang làm tổn hại đến công cụ 
                    quý giá này.  Chúng ta nên nhớ điều này; nó càng tốt hơn 
                    nhiều để có can đảm và quyết định và đối diện với khổ đau 
                    bằng nhẫn nhục. 
                  
                  
                    
                    
                                HỎI: Làm thế nào chúng ta có thể khiêm tốn hay 
                    bình thường trong khi cùng lúc hiện thực về những phẩm chất 
                    tốt đẹp mà chúng ta sở hữu?
                    
                  
                  
                    
                    
                                ĐÁP:  
                    
                    Chúng ta phải phân biệt giữa sự tin tưởng vào những khã năng 
                    và tự hào của chúng ta.  Chúng ta phải nên tin tưởng vào bất 
                    cứ những phẩm chất và khã năng thiện xảo mà chúng ta có và 
                    sử dụng chúng một cách quả cảm, can trường, nhưng chúng ta 
                    không  nên có cảm xúc kiêu căng, ngạo mạn, tự mãn về chúng.  
                    Hiện hữu khiêm tốn hay bình thường không có nghĩa là cảm 
                    thấy hoàn toàn bất tài, kém cõi, và không tự lo liệu được.  
                    Sự khiêm tốn nhún nhường được phát triển như sự đối lập với 
                    tự kiêu, nhưng chúng ta nên sử dụng bất cứ những phẩm chất 
                    tốt đẹp nào mà chúng ta có đến sự trọn vẹn của nó. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Một cách lý tưởng, chúng ta nên có một sự đáp 
                    ứng rộng rãi của lòng can trường, quả cảm và năng lực nhưng 
                    không phải là sự khoác lác, niềm kiêu hảnh hay làm một sự 
                    phô trương lớn về nó.  Rồi thì, những khi cần, chúng ta nên 
                    vươn lên đến những trường hợp cụ thể và chiến đấu một cách 
                    dõng mảnh cho những gì đúng.  Điều này là toàn hảo.  Nếu 
                    chúng ta không có những phẩm chất tốt đẹp này mà lại khoác 
                    lác mọi nơi rằng chúng ta vĩ đại thế nào và trong khi cần 
                    thiết lại co đầu rút cổ lại một cách hoàn toàn, chúng ta chỉ 
                    là ngược lại.  Người thứ nhất thì rất can đảm,quả cảm nhưng 
                    không tự hào; người kia thì rất tự kiêu nhưng không có can 
                    trường, dũng cảm. 
                  
                  
                    
                    
                                8- Thuần khiết trước những vết nhơ của sự mê tín, 
                    vướng mắc trên tám sự lưu tâm thế gian, nguyện cho tôi, bằng 
                    sự nhận thức tất cả những hiện tượng như ảo tưởng, được giải 
                    thoát khỏi sự trói buộc của vướng mắc, chấp trước.
                    
                  
                  
                    
                    
                                Đề mục này tương ứng với tuệ trí.  Tất cả những 
                    thực hành trước không nên bị nhuốm bẩn bởi những vết nhơ của 
                    mê tín, vướng mắc đối với tám pháp thế gian (Bát phong: khổ 
                    - vui, được – mất, hơn – thua, khen – chê).  Tám điều này có 
                    thể liên hệ như trắng, đen hay lẫn lộn.   Chúng tôi nghĩ 
                    rằng nó sẽ hoàn hảo nếu chúng tôi giải thích đề mục này từ 
                    quan điểm của những sự thực hành được hoàn tất mà sự hiện 
                    hữu của chúng không bị nhuốm bẩn bởi nhận thức sai lạc của 
                    vưởng mắc đến sự tồn tại thật sự- sự mê tín, chấp trước của 
                    tám  pháp thế gian. 
                  
                  
                    
                    
                                Làm thế nào một người có thể tránh bị nhuốm bẩn 
                    sự thực hành của mình trong cách này?  Bằng sự nhận thức tất 
                    cả sự hiện hữu hay tồn tại như ảo tưởng và không liên hệ với 
                    sự tồn tại thật sự.  Trong cách này, một người được giải 
                    thoát khỏi trói buộc của loại liên hệ hay bám víu này.
                    
                  
                  
                    
                    
                                Để giải thích ý nghĩa của "ảo tưởng" ở đây:  sự 
                    tồn tại thật sự xuất hiện trong khía cạnh của nhiều đối 
                    tượng khác nhau,  bất cứ nơi nào chúng là rõ ràng hiển nhiên, 
                    nhưng thực tế không có sự tồn tại thật sự ở đó.  Sự tồn tại 
                    thật sự xuất hiện, nhưng không có gì-  nó là một ảo tưởng.  
                    Mặc dù mọi thứ tồn tại xuất hiện như sự hiện hữu một cách 
                    thật sự, nó thì trống rỗng, một sự tồn tại trống rỗng.  Thấy 
                    những đối tượng là trống rỗng của hiện hữu - rằng ngay cả sự 
                    tồn tại thật sự xuất hiện, không có gì, nó là ảo ảnh, hảo 
                    huyền, không thực có - một người phải nên định rõ sự hiểu 
                    biết về ý nghĩa của tính không: tính không xuất hiện rõ ràng, 
                    sự xuất hiện rõ ràng của tính không. 
                  
                  
                    
                    
                                Trước nhất một người nên chắc chắn rằng tất cả 
                    mọi hiện tượng là trống không của sự tồn tại thật sự.  Rồi 
                    thì về sau, khi mà có điều thuần tuý tự nhiên xuất hiện là 
                    tồn tại một cách thật sự, người ấy phản bác lại sự tồn tại 
                    thật sự bằng sự nhắc lại điều hiểu biết chắc chắn của mình 
                    trước đây là hoàn toàn vắng bóng của sự tồn tại thật sự.  
                    Khi chúng ta đặt hai điều này chung với nhau - sự hiện hữu 
                    của sự tồn tại thật sự và tính không của nó như kinh nghiệm 
                    trước đây - chúng ta khám phá sự ảo tưởng của mọi hiện tượng.
                    
                  
                  
                    
                    
                                Tại thời điểm này không cần một sự giải thích về 
                    phương thức những sự kiện xuất hiện như ảo tưởng tách rời 
                    với những điều vừa trình bày. Bài này chì giải thích đến sự 
                    thiền định trên tính không.  Mật tông tantric giảng dạy như 
                    Guhyasamaja tantra, rằng điều gọi là ảo tưởng thì hoàn toàn 
                    riêng biệt; trong đề mục này. điều được gọi là ảo tưởng 
                    không phải được biểu hiện một cách riêng biệt.  Vì vậy, sự 
                    tồn tại thật sự của điều hoàn toàn tự nhiên là đối tượng của 
                    sự phản bác và nên bị bẻ lại.  Khi những sự kiện, sự vật 
                    xuất hiện dứơi phương thức ảo tưởng hưng khởi một cách gián 
                    tiếp: chúng dường như là tồn tại một cách thật sự nhưng 
                    chúng không như thế. 
                  
                  
                    
                    
                                HỎI:  Làm thế nào những thứ không thể tìm thấy 
                    và tồn tại một cách đơn thuần bởi sự đổ vấy cho cơ chế vận 
                    hành?
                    
                  
                  
                    
                    
                                ĐÁP: 
                    
                    Điều ấy thật khó khăn.  Nếu chúng ta có thể nhận thức rằng 
                    chủ thể và hành động tồn tại bởi lý do của sự hiện hữu tùy 
                    thuộc hưng khởi, tính không sẽ xuất hiện trong sự tùy thuộc 
                    hưng khởi hay duyên khởi.  Đây là điều khó khăn nhất để hiểu.
                    
                  
                  
                    
                    
                                Nếu chúng ta đã từng nhận thức rõ vô hữu thực 
                    hữu tồn tại, kinh nghiệm của đối tượng tồn tại nói lên chính 
                    nó.  Rằng chúng tồn tại bởi tự nhiên bị bác bỏ một cách hợp 
                    lý (logic), và chúng ta có thể chắc chắn một cách hợp lý 
                    rằng những sự kiện không (tồn tại) -  không có cách nào 
                    chúng có thể (tồn tại) – tồn tại một cách cố hữu.  Tuy nhiên 
                    chúng hiện hữu một cách rõ rệt bởi vì chúng ta biết, thấy, 
                    cảm nhận, và kinh nghiệm chúng.  Vậy thì chúng tồn tại như 
                    thế nào?   Chúng tồn tại một cách đơn thuần bởi năng lực của 
                    danh xưng.  Điều này không đang nói rằng chúng không tồn tại; 
                    nó chưa bao giờ nói rằng những sự kiện không tồn tại.  Thế 
                    thì điều gì được nói là chúng tồn tại bởi năng lực của danh 
                    xưng.  Đây là một điểm khó; những gì mà chúng ta có thể hiểu 
                    một cách chậm rãi, một cách chậm rãi qua kinh nghiệm. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Trước nhất chúng ta phải phân tích hoặc là những 
                    thứ tồn tại thực sự hay là không, thật sự có thể tìm thấy 
                    hay không: chúng ta không thể tìm thấy chúng.  Nhưng nếu 
                    chúng ta nói rằng chúng thật không tồn tại gì cả, đây là một 
                    lỗi lầm, bởi vì chúng ta quả có kinh nghiệm về chúng.  Chúng 
                    ta không thể chứng minh qua lý luận hợp lý (logic) rằng 
                    những sự kiện tồn tại một cách có thể tìm thấy, nhưng chúng 
                    ta quả biết qua kinh nghiệm rằng chúng tồn tại.  Vì vậy, 
                    chúng ta có thể làm một kết luận rõ ràng rằng những thứ ấy 
                    quả tồn tại.  Bây giờ, nếu những thứ ấy tồn tại chỉ có hai 
                    cách trong điều chúng có thể làm như thế:  hoặc là từ căn 
                    bản của  chính chúng hoặc là bởi dưới sự kiểm soát của những 
                    nhân tố khác, đấy là, hoàn toàn độc lập hoặc là một cách lệ 
                    thuộc.  Vì lý luận hợp lý không thể chứng minh rằng những 
                    thứ ấy tồn tại một cách độc lập, thì chỉ còn cách là chúng 
                    có thể tồn tại một cách tùy thuộc. 
                  
                  
                    
                    
                                Trên điều gì làm những thứ ấy tùy thuộc cho sự 
                    tồn tại cuả chúng?  Chúng tùy thuộc trên căn bản được gắn 
                    nhãn hiệu và sự tư duy những nhãn hiệu ấy.  Nếu chúng có thể 
                    tìm thấy được khi truy tầm, chúng phải tồn tại bởi tính tự 
                    nhiên của chính chúng, và vì vậy Trung Quán Luận nói rằng, 
                    những thứ ấy không tồn tại bởi tinh tự nhiên của chính chúng, 
                    sẽ là sai.  Tuy nhiên, chúng ta không thể tìm thấy những thứ 
                    ấy khi truy tầm chúng.  Những gì chúng ta tìm thấy tồn tại 
                    dưới sự khống chế của những nhân tố khác, vì vậy điều được 
                    nói là tồn tại chỉ đơn thuần trong danh xưng.  Từ ngữ  “đơn 
                    thuần” ở đây chỉ cho biết là những thứ gì ấy đang bị cắt đứt: 
                    nhưng điều gì đang bị cắt đứt thì không phải là danh xưng, 
                    nó cũng không là điều có một ý nghĩa và là đối tượng của một 
                    tâm thức có căn cứ.  Chúng ta không đang nói rằng không có ý 
                    nghĩa gì đến những thứ khác hơn là những danh xưng của chúng, 
                    hay là ý nghĩa không phải là danh xưng không là đối tượng 
                    của một tâm thức có sở cứ.  Điều gì bị cắt đứt là điều mà nó 
                    tồn tại bởi những thứ khác hơn là năng lực của những danh 
                    xưng.  Những thứ tồn tại đơn thuần bởi năng lực của danh 
                    xưng, nhưng chúng có ý nghĩa, và ý nghĩa ấy là đối tượng của 
                    một tâm thức có sở cứ.  Nhưng tính tự nhiên của những thứ ấy 
                    là chúng tồn tại thường là bởi năng lực của danh xưng.
                    
                  
                  
                    
                    
                                Không có cách nào khác, chỉ là năng lực của danh 
                    xưng.  Điều ấy không có nghĩa là bên cạnh danh xưng không có 
                    gì.  Có sự kiện, có một ý nghĩa và có một danh xưng.  Ý 
                    nghĩa là gì?  Ý nghĩa cũng tồn tại đơn thuần trong danh xưng.
                    
                  
                  
                    
                    
                                HỎI:  Tâm là những gì mà tồn tại một cách thật 
                    sự hay nó cũng chỉ là một ảo tưởng?
                    
                  
                  
                    
                    
                                ĐÁP:  
                    Nó cũng giống như thế.  Theo trường phái Trung Quán 
                    Prasangika, quan điểm tối thượng, chính xác nhất, nó cũng 
                    giống như thế cho dù nó là một đối tượng bên ngoài hay là 
                    nhận thức bên trong hiểu rõ, thấy rõ, nhận thức thấu đáo nó: 
                    cả hai tồn tại bởi năng lực của danh xưng; không có thứ nào 
                    thật sự tồn tại.  Tư duy tự nó tồn tại đơn thuần trong danh 
                    xưng; tính không, Phật, tốt, xấu, và trung tính cũng thế 
                    thôi.  Mọi thứ tồn tại duy chỉ bởi năng lực của danh xưng.
                    
                  
                  
                    
                                
                    Khi chúng ta nói “duy chỉ danh xưng” thì không có cách nào 
                    để hiểu nó có ý nghĩa gì khác hơn là nó cắt đứt những ý 
                    nghĩa mà những ý nghĩa không chỉ là danh xưng.  Thí dụ, nếu 
                    chúng ta lấy một người thật sự và một người ảo tưởng, cả hai 
                    là giống nhau trong điều họ tồn tại chỉ đơn thuần là danh 
                    xưng, nhưng có một sự khác nhau giữa họ.  Bất cứ điều gì tồn 
                    tại hay không tồn tại chỉ đơn thuần là nhãn hiệu gắn lên, 
                    nhưng trong danh xưng, có những thứ tồn tại và những thứ 
                    khác không tồn tại. 
                  
                  
                    
                    
                                Theo trường phái Duy Tâm (hay duy thức) những 
                    hiện tượng bên ngoài xuất hiện vốn dĩ tồn tại, nhưng thực tế 
                    là sự tồn tại bên ngoài vốn dĩ trống không, trong khi ấy tâm 
                    là thật sự tồn tại (Thị chư thức chuyển biến, Phân biệt sở 
                    phân biệt, Do thử bỉ giai vô, Cố nhất thiết duy thức).  Đến 
                    đây, chúng tôi nghĩ rằng điều này cũng đủ về giáo lý đạo 
                    Phật. 
                  
                  
                    
                    
                                HỎI:  Có phải “tâm” và “thức” là những thuật ngữ 
                    tương đương?
                    
                  
                  
                    
                    
                                ĐÁP: 
                    Có những sự phân biệt trong tiếng Tây Tạng, nhưng thật khó 
                    khăn để nói có hay không những từ ngữ tiếng Anh mang cùng ý 
                    nghĩa.  “Tâm”  (mind) liên hệ đến thức chính yếu  (tâm vương) 
                    nó hầu như giống với “thức” ( bát thức-consciousness).  
                    Trong tiếng Tây Tạng, “tỉnh thức”  (awareness) là thuật ngữ 
                    thông dụng nhất và được phân chia thành thức chính yếu (tâm 
                    vương) và những nhân tố tinh thần thứ yếu ( tâm sở), cả hai 
                    có những sự phân chia thêm nữa.  Cũng thế, khi chúng ta nói 
                    về tỉnh thức thì có tỉnh thức của tinh thần và tỉnh thức của 
                    giác quan, và trước đây có nhiều sự phân chia thành những 
                    trình độ của thô và vi tế.  Có hay không những từ ngữ tiếng 
                    Anh tương ứng với thuật ngữ Tây Tạng một cách chính xác …thì 
                    thật khó khăn để nói. 
                  
                  
                    
                    
                                His Holiness the Dalai Lama gave this teaching 
                    in Dharamsala, 7 October 1981. It was translated by 
                    Alexander Berzin, clarified by Lama Zopa Rinpoche, edited by 
                    Nicholas Ribush and first published in the souvenir booklet 
                    for Tushita Mahayana Meditation Centre's Second Dharma 
                    Celebration, November 5-8 1982, New Delhi, India.
                    
                  
                  
                    
                    
                                Published in 2005 in the LYWA publication 
                    Teachings From Tibet.
                    
                  
                  
                    
                    
                                The Eight Verses of Thought Transformation 
                    
                  
                  
                    
                    
                                By His Holiness the Dalai Lama
                    
                  
                  
                    
                    
                                Tuệ Uyển chuyển ngữ 
                      
                  
                  
                    
                    
                                10-14-2008 07:30:23