NHÂN QUẢ VÀ NGHIỆP BÁO
                    
                  
                  
                    
                    
                    
                    Quảng Thông
                    
                  
                  
                    
                    
                    
                    ---o0o---
                    
                  
                  
                    
                    
                                Nói đến đạo Phật là nói đến nhân quả nghiệp báo. 
                    Đó là khía cạnh nhân sinh quan đặc biệt của đạo Phật, là một 
                    cái nhìn hết sức nhân bản về con người mà từ đó có thể thiết 
                    lập một nền đạo đức vững chắc cho đời sống con người và có 
                    khả năng phát triển nhân cách con người lên đến hoàn mãn.
                    
                  
                  
                    
                    
                                Nói đến nhân quả là nói đến thời gian và không 
                    gian. Thời gian cho nhân đi đến kết quả, và không gian để 
                    nhân hội đủ các điều kiện cần để tựu thành kết quả. Không 
                    một sự vật, sự kiện nào, một hiện tượng nào, hay một kết quả 
                    nào xảy ra mà không có nguyên nhân của nó. Có quả tất phải 
                    có nguyên nhân đi trước nó và ngược lại có nhân thời sẽ đưa 
                    đến một kết quả nào đó về sau. 
                  
                  
                    
                    
                                Tuy nhiên ở đời đôi khi với cái nhìn thiển cận, 
                    cắt xén và giới hạn thời gian, chúng ta thường rất mơ hồ về 
                    nhân quả và vì thế đã có sự dẫn đến mất niềm tin đối với 
                    cuộc sống và với chính mình. Nhận thức về nhân quả nghiệp 
                    báo chính là xác định một niềm tin đúng đối với cuộc đời, và 
                    xây dựng một ý thức trách nhiệm về chính những hành động do 
                    mình tạo ra đối với bản thân, và đối với cộng đồng. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Nhân quả, đơn giản, là nguyên nhân và kết quả. 
                    Từ con người cho đến các loài sinh động, vạn vật đều được 
                    tạo ra là có nguyên nhân gần xa của nó và đều là tự tạo, 
                    bằng cách này hay cách khác, chủ động hay thụ động.  
                    
                  
                  
                    
                    
                                Không bao giờ có một vật nào là tự nhiên sinh mà 
                    không có nguyên nhân của nó. Trong môi trường cộng sinh, là 
                    vũ trụ, thế giới này, cũng không bao giờ có một sự vật nào 
                    chỉ xuất hiện với một nguyên nhân độc nhất mà mọi vật phải 
                    được tạo thành ít nhất là hai nhân trở lên. 
                  
                  
                    
                    
                                Ta lấy ví dụ như, cây đậu đang ra bông kết trái 
                    hôm nay là kết quả của những điều kiện đi trước nó, như hạt 
                    đậu, ánh sáng mặt trời, nước mưa, đất, khoáng chất, thán 
                    khí…  
                  
                  
                    
                    
                                Riêng một nguyên nhân nào đó, chẳng hạn chỉ 
                    riêng có hạt đậu, thì không thể có cây đậu. Nếu thiếu yếu tố 
                    đất hay yếu tố nước thì cây đậu sẽ không tồn tại. Và đương 
                    nhiên, cây đậu với quả hạt của nó hôm nay là nguyên nhân cho 
                    những hạt và cây đậu khác trong tương lai cùng với những 
                    điều kiện nhân duyên khác hỗ tương tùy thuộc vào nhau để 
                    sinh trưởng và tồn tại. 
                  
                  
                    
                    
                                Tất cả mọi hiện hữu đều sinh khởi và tồn tại 
                    trong nguyên lý nhân quả nhiều tầng nhiều lớp như thế. Cho 
                    nên không bao giờ có một bàn cãi về nguyên nhân đầu tiên của 
                    vạn hữu trong đạo Phật. Chính đức Phật đã từ chối trả lời và 
                    đàm luận bằng cách giữ một thái độ im lặng, trước sau như 
                    một, đối với những câu hỏi có tính chất triết học thuần tuý 
                    này. Đức Phật chỉ chú trọng đến vấn đề nhận thức khổ đau và 
                    nhấn mạnh đến vấn đề diệt khổ mà thôi. 
                  
                  
                    
                    
                                Để hiểu rõ về nhân quả, chúng ta hãy điểm qua 
                    những đặc tính căn bản của nhân quả để từ đó có một quan sát 
                    cụ thể về một nguyên nhân hay hậu quả nào đó. Chúng ta có 
                    bốn đặc tính có tính cách liên hệ của nhân và quả. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                1- Nhân nào quả nấy 
                  
                  
                    
                    
                                Nhân như thế nào thì quả sẽ như thế ấy. Hạt lúa 
                    rồi sẽ cho cây lúa và thóc gạo, hạt cỏ dại sẽ dẫn đến những 
                    mầm cỏ dại với đầy đủ những điều kiện hỗ trợ của nó. Hành 
                    động thiện sẽ đưa tới một kết quả tốt đẹp và trái lại hành 
                    động xấu sẽ đưa đến một kết quả không như ý. 
                  
                  
                    
                    
                                Tuy nhiên, vấn đề thiện ác, thực ra, vẫn không 
                    có một tiêu chuẩn nhất định chung cho mọi trường hợp. Cùng 
                    một hành động nhưng khi này biểu hiện nó được coi là thiện 
                    nhưng khi khác nó là một điều bất thiện. Ở chỗ này nói thế 
                    này là tốt nhưng ở chỗ kia cùng một cách nói như thế lại là 
                    không đúng.  
                  
                  
                    
                    
                                Suy ngẫm về vấn đề thiện ác này có người đã từng 
                    than: "Chân lý ở đâu khi bên này núi là đúng mà bên kia là 
                    sai lầm!" Nhưng trong đạo Phật không chấp nhận thái độ than 
                    trách như thế mà người Phật tử được khuyên là nên quán sát 
                    động cơ xuất phát của những hạnh nghiệp là tâm ý, và hành 
                    động xuất phát từ ý nghiệp đó có ảnh hưởng như thế nào đối 
                    với chính mình và người khác trong hiện tại hay tương lai. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Nếu hành động (của ba nghiệp - thân, khẩu, ý) có 
                    ảnh hưởng tốt, đem lại an vui cho mình cho người, trong hiện 
                    tại và tương lai, thì hành động đó được gọi là thiện, trái 
                    lại, nếu hành động nào mang đến sự bất an, khổ đau cho mình 
                    cho người trong hiện tại và tương lai, thì hành trạng đó là 
                    bất thiện.  
                  
                  
                    
                    
                                Thiện nghiệp sẽ đưa đến thiện báo và bất thiện 
                    nghiệp sẽ có ác báo. Đương nhiên, về tương đối thì, vấn đề 
                    thiện ác vẫn có phạm vi nhất định và phải được xét trên sự 
                    ảnh hưởng của nó lên số đông và nhất là xét về mặt động cơ 
                    xuất phát của hành động. 
                  
                  
                    
                    
                                Với một xác định về thiện ác như thế, chúng ta 
                    sẽ dễ dàng thấy rằng những hành động của thân và lời nói bị 
                    điều động bởi những tâm lý bất thiện như tham, sân, si, mạn, 
                    tật đố, chia rẽ… sẽ đưa đến những kết quả tương ứng. Đó 
                    chính là những quả báo sầu não, khổ luỵ.  
                  
                  
                    
                    
                                Và trái lại, những hành động được thực hành với 
                    động cơ không chứa đựng những yếu tố tham, sân, si, trái lại 
                    mang những chất liệu của tình thương, của trí tuệ, bố thí 
                    giúp đỡ kẻ khác… sẽ chắc chắn đưa đến kết quả tốt lành.
                    
                  
                  
                    
                    
                                2- Một nhân không thể sinh ra quả 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Nhưng quả thiện hay ác không đơn thuần là một 
                    nhân mà được chi phối bởi nhiều nhân và các điều kiện khác 
                    nhau. Một nghiệp quả tốt đẹp hẳn phải được xuất phát từ trái 
                    tim từ bi, một hành động đầy nghĩa cử, một lời nói có tính 
                    cách xây dựng và hòa giải, một biểu hiện của một tấm lòng độ 
                    lượng, một sự hiểu biết, một sự cảm thông…  
                  
                  
                    
                    
                                Chỉ có một tâm từ bi, dù tốt đấy, vẫn chưa làm 
                    sao có thể thành tựu được một hành nghiệp tốt nếu không có 
                    các trợ duyên như thông qua những hành động, hay lời nói, 
                    v.v. để thể hiện nó. Cũng giống như chỉ có hạt đậu thì không 
                    thể sinh khởi thành cây đậu. Nó cần có các điều kiện làm 
                    nhân khác (mà chúng ta còn gọi là duyên) như nước, anh nắng, 
                    phân…  
                  
                  
                    
                    
                                Một kết quả tốt lành không thể có mặt nếu chỉ 
                    xuất hiện với một nhân, dù là tốt, duy nhất. 
                  
                  
                    
                    
                                3- Trong nhân có quả, trong quả có nhân 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Hạt đậu là nhân cho cây đậu trong tương lai, nó 
                    đồng thời cũng là quả của cây đậu trong quá khứ. Nó là nhân 
                    của sự tiêu thụ thán khí (CO2) trong không gian từ động vật 
                    thải ra, đồng thời cũng là nhân cho sự chuyển thành dưỡng 
                    khí (O2) vào không gian cho động vật hấp thụ trở lại. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Sự an vui là kết quả của việc làm thiện nhưng sự 
                    an vui, thanh thản của chính mình lại cũng là nguyên tố cho 
                    sự tạo phước tiếp tục nữa. Sự an vui như thế cũng đồng thời 
                    là nhân vì chính mình có an vui trong lòng nên không gây gổ 
                    với người khác, trái lại làm cho người khác cũng được vui 
                    lây.  
                  
                  
                    
                    
                                Đó là vì trong nhân đã bao hàm quả và quả cũng 
                    chứa đựng đầy đủ các yếu tố để làm nhân. Biết điều này chúng 
                    ta sẽ biết hướng đời sống tu tập của mình để là một nguyên 
                    tố an vui cho những người xung quanh, cho gia đình mình và 
                    cho xã hội. 
                  
                  
                    
                    
                                Với những tính chất trên chúng ta cũng có thể 
                    thấy được một cách khá rõ ràng đường đi của nhân quả. Gieo 
                    nhân lành sẽ đạt được một quả lành, nhân bất thiện sẽ có quả 
                    tương ứng cùng với những điều kiện hỗ trợ của nó.  
                    
                  
                  
                    
                    
                                Thế nhưng trong đời đôi khi chúng ta lại có thể 
                    có những nghi vấn. Vì những hiện tượng báo ứng đối với nhân 
                    được gieo dường như không khớp với với quả mà người ta phải 
                    gặt lấy trong một khoảng thời gian nhất định.  
                  
                  
                    
                    
                                Có người một đời làm việc thiện nhưng gia cảnh 
                    và bản thân lại gặp nhiều tai ương hạn ách, trong khi đó, có 
                    người không biết làm việc thiện, thậm chí làm những điều 
                    chuyên gây phiền nhiễu cho người khác mà lại gặp nhiều điều 
                    kiện thuận lợi.  
                  
                  
                    
                    
                                Từ những hiện thực như trên chúng ta bắt đầu 
                    nghi ngờ về nhân quả, niềm tin về luật nhân quả bắt đầu lung 
                    lay. Để giải quyết nghi vấn này chúng ta xem tiếp về tính 
                    chất thứ tư của những đặc tính của nhân quả. 
                  
                  
                    
                    
                                4- Sự phát triển nhanh hay chậm của nhân quả
                    
                  
                  
                    
                    
                                Sự thực thì, định luật nhân quả chi phối chúng 
                    ta không sai sót một tơ hào nào. Nó chi phối một cách âm 
                    thầm và tuyệt đối chính xác đến nỗi nó chỉ có thể được biết 
                    một cách trọn vẹn dưới con mắt của Phật mà thôi.  
                    
                  
                  
                    
                    
                                Nhưng nhờ có người làm con mắt cho thế gian thấy 
                    được như thế nên chúng ta mới có những phân định khá rõ ràng 
                    về nhân quả. Đó là từ nhân đến quả phải có một khoảng thời 
                    gian nhất định của nó.  
                  
                  
                    
                    
                                Có nhân đưa tới quả nhanh, như tay đánh vào mặt 
                    trống tức thời có âm thanh vang ra. Nhưng có nhân đưa tới 
                    quả chậm, như gieo lúa tháng chạp nhưng phải đợi đến tháng 
                    ba năm sau mới gặt hái. Từ đó nhân quả được phân biệt theo 
                    thời gian như sau: 
                  
                  
                    
                    
                                Nhân quả đồng thời: thời gian từ nhân dẫn đến 
                    quả rất nhanh, dường như cùng lúc. Ví dụ như "ăn thì no, nằm 
                    co ro thì ấm", những hiện tượng xảy ra tức thời, uống nước 
                    thì hết khát, giận hờn ai thì cảm thấy muộn phiền, lo trả 
                    thù thì bức não tâm trí… Đây cũng chỉ là một phân định nằm 
                    trong đặc tính thứ ba của nhân quả là trong nhân đã hàm chứa 
                    sẵn quả, nó là quả, và ngược lại. 
                  
                  
                    
                    
                                Nhân quả khác thời: là loại nhân quả mà từ nhân 
                    dẫn đến quả cần có một khoảng thời gian. Khoảng thời gian 
                    này được coi như ba giai đoạn thọ báo của nghiệp quả, đó là:
                    
                  
                  
                    
                    
                                - Hiện báo: Nghiệp nhân trong đời này sẽ đưa đến 
                    quả báo ngay trong đời này. Ví dụ tuổi nhỏ học hành về sau 
                    trở thành người hữu dụng cho gia đình xã hội. 
                  
                  
                    
                    
                                - Sinh báo: Tạo nhân trong đời này nhưng đến đời 
                    sau mới thọ quả báo. Ví dụ bố thí thì được phước báo giàu 
                    sang ở đời sau, tán dương Phật đời sau thì được giọng nói 
                    trong trẻo dễ mến, tướng mạo đoan trang. Người giữ gìn năm 
                    giới cấm cho tinh chuyên đời sau sẽ được làm người đầy đủ 
                    phước báo, thực hiện thập thiện giới sẽ được sinh thiên…
                    
                  
                  
                    
                    
                                - Hậu báo: Tạo nhân đời này, nhưng mãi đến những 
                    đời sau đó mới thọ quả báo. Hay những đời sống trước đó đã 
                    tạo những nghiệp nhân bây giờ kết quả đã chín muồi nên phải 
                    lãnh thọ. Như những chuyện tiền thân của đức Phật hay chuyện 
                    của ngài Ngộ Đạt Quốc sư trong kinh Thủy Sám, đến những mười 
                    đời ngài mới thọ quả báo là cái mụt ghẻ nơi chân… 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Ba thời nhân quả này dường như đã được định sẵn 
                    là có một khoảng thời gian nhất định nào đó cho nên cũng 
                    được coi như là định nghiệp (không lầm với định mệnh). 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Tuy nhiên nó cũng bị chi phối bởi các nhân duyên 
                    khác vì thế vẫn có thể làm thay đổi thời gian đưa đến sự thọ 
                    quả. Như chuyện ngài Ngộ Đạt, nghiệp lành của ngài đã dời 
                    thời gian thọ báo của ngài lui lại tới những gần mười kiếp, 
                    sau đó thay vì phải chết đúng theo nghiệp định nhưng chỉ đền 
                    tội với cái mụt ghẻ nhức nhối mà thôi. 
                  
                  
                    
                    
                                Tới đây chúng ta cũng có thể giải thích vì sao 
                    có những trường hợp dường như là mâu thuẫn với nhân quả như 
                    trên. Người làm lành mà đời sống luôn luôn túng quẩn là do 
                    những nghiệp quả bất thiện thuộc những đời trước, sinh báo 
                    và hậu báo, đã thành thục và buộc phải nhận lấy quả báo. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Còn người làm ác mà vẫn được phước lợi là những 
                    thiện nghiệp bằng cách nào đó mà người ta đã tạo được trong 
                    quá khứ, bây giờ thành thục và được hưởng.  
                  
                  
                    
                    
                                Thế nhưng nghiệp đã tạo thì không bao giờ bị mất 
                    đi, nó sẽ tuần tự theo sự chi phối của định luật nhân quả mà 
                    rồi sẽ thành thục trong nay mai. Đừng cho rằng những người 
                    làm ác đời này tuy giàu sang mà không khổ, cũng đừng bảo 
                    những người làm lành tuy khốn đốn mà chẳng vui. Về khía cạnh 
                    này chúng ta còn xem xét tâm lý của nghiệp chủ khi sự đối 
                    diện với nghiệp quả. 
                  
                  
                    
                    
                                Một nhà sư vô sự, vô tội mà bị giam tù, ông ta 
                    có thể không thấy một chút sợ sệt nào, tâm hồn không bị cắn 
                    rứt, luôn được an định, giải thoát. Một người làm lành tuy 
                    nghèo khốn nhưng tâm tư thong thả, không cắn rứt và còn cảm 
                    thấy vui vì làm một người hữu ích cho xã hội.  
                  
                  
                    
                    
                                Đó có thể nói là nghiệp quả thô ác chỉ biểu hiện 
                    bên ngoài mà không mấy ảnh hưởng bên trong. Quả báo thuộc về 
                    thân tướng, đó là nhân quả biểu hiện ở thân.  
                  
                  
                    
                    
                                Còn nhân quả biểu hiện đối với tâm đó là nhân 
                    quả thuộc về tâm. Như có người tướng mạo xấu xí nhưng tâm 
                    hồn thì trong trắng, tốt lành và ngược lại. Nhưng cũng có 
                    trường hợp cả hai mặt đều biểu hiện đồng thời. Như chúng ta 
                    vẫn thường nói, đẹp người đẹp nết, hay mỉa mai hơn ta vẫn 
                    thường nghe, xấu mà còn đóng vai ác, ...  trong ngoài đều 
                    hung dữ. 
                  
                  
                    
                    
                                Một hiểu biết như vậy chúng ta không còn nghi 
                    ngờ về nhân quả nữa mà trở nên sáng suốt hơn trong việc lý 
                    giải những hiện tượng nhân quả báo ứng trong đời, từ đó niềm 
                    tin của chúng ta được xác quyết hơn, vững vàng hơn.  
                    
                  
                  
                    
                    
                                Tin nhân quả cũng có nghĩa là tin vào chính bản 
                    thân mình. Không ai có thể ban phúc giáng họa cho ai mà 
                    chính mình là chủ nhân ông của những hành động thiện ác và 
                    quả báo cho mình. Khi mới sinh không đem đến bất cứ một cái 
                    gì và khi chết đi cũng chỉ ra đi với hai bàn tay trắng. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Cho dù chết đi sống lại bao nhiêu lần thì cũng 
                    chỉ như vậy ngoại trừ những hành nghiệp mà mình đã gây tạo 
                    là cái duy nhất có thể đi theo với chúng ta mà thôi. Đức 
                    Phật dạy: Con người là chủ nhân ông của nghiệp, là kẻ thừa 
                    tự của nghiệp. Là chủ nhân cho nên chúng ta có thể nắm lấy 
                    vận mệnh của mình, chuyển hóa và tạo dựng những hành nghiệp 
                    tốt lành cho chính mình.  
                  
                  
                    
                    
                                Nghiệp báo xấu đến chúng ta có đầy đủ nghị lực 
                    và đức tin để tiếp nhận, không tránh né. Nó được coi như là 
                    trách nhiệm mà mình phải gánh chịu. Không sợ hãi, nhìn thẳng 
                    vào nghiệp quả của mình để rồi vượt qua chúng bằng những 
                    hành động tích cực.  
                  
                  
                    
                    
                                Quả báo tốt đến ta đón nhận một cách tự nhiên 
                    không tự phụ, kiêu căng và sử dụng nó như những phương tiện 
                    có sẵn, như đồng vốn có thể sinh lời, để tiếp tục tạo phước 
                    cho mình về tương lai, nuôi dưỡng lòng từ bi cho ngày một 
                    thêm lớn. Từ đó đưa hành nghiệp của mình đi lên mãi theo 
                    tiến trình tu tập giải thoát, hoàn thiện nhân cách của mình 
                    cho đến viên mãn. 
                  
                  
                    
                    
                                Quảng Thông
                    
                  
                  
                    
                    
                                (Hoàng Pháp)
                    
                  
                  
                    
                    
                                Xem Video liên hệ đến đề tài Nhân Qủa: 
                    
                  
                  
                  
                    
                    
                                09-30-2008 08:23:45