Thư Viện Chùa Dược Sư
PHẬT HỌC CƠ BẢN
 
TẤT CẢ ĐỀU LÀ LẼ ĐƯƠNG NHIÊN
LỜI GIẢI ĐÁP CHO CON NGƯỜI
Tinh Vân Hoà Thượng
Hạnh Huệ soạn dịch từ Tinh Vân Bách Ngữ
---o0o---
            Dùng lửa dừng lửa, đổ nước nóng để ngưng sôi đều chẳng phải là hành vi đương nhiên. Từ - bi - hỉ - xả mới là sự tu hành đương nhiên nhất, tài sản quý báu nhất của đời người .
            Nhiều năm trước, một nhà viết tạp chí đến tôi mượn ba trăm vạn nguyên, tôi không có cách gì đáp ứng. Ông ta liền viết bài huỷ báng tôi, hàng đệ tử tức cành hông, một số chủ trương dùng bút để tranh luận, một số yêu cầu tố ra toà. Lúc đó tôi đang hoằng pháp ở Đài Bắc, nhân đây đến chùa Phổ Môn nhóm chúng thường trụ, bảo mọi người:
            - Người khác đối với chúng ta cung kính tôn trọng, không phải là chuyện đương nhiên, chúng ta phải dũng mãnh vươn lên để báo đáp. Còn khi chúng ta bị đả kích bị thương tổn, thì phải nhận rằng đây là lẽ đương nhiên. Vì cha mẹ nuôi nấng ta, thầy tổ giáo dục ta, xã hội thành tựu ta, quốc gia bảo bọc ta, bình thường chúng ta có nhiều nhân duyên tốt như thế, nói tương đối, một chút nghịch cảnh trắc trở bất ngờ như vậy đến, chính là để khảo nghiệm khí độ của chúng ta, có thể làm phong phú nội lực của chúng ta. Vì sự phá hoại làm thương tổn chán ngắt này là cái không đánh đổ được một cá nhân. Làm một người chân chính, cần phải ngăn cho được bát phong từ bốn mặt thổi đến, coi tất cả ngang ngược đều là lẽ đương nhiên…
            Nói một hồi, thấy sự tức giận của đại chúng đã dịu xuống, tôi cũng thừa cơ hội, tùy duyên lập khoá trình "Tư tưởng của tông môn", chỉ là đâu ai biết từ chẳng đương nhiên đến đương nhiên, tôi đã trải qua ít nhiều lịch trình tu chứng, mới có niềm tin và thể ngộ kiên cố như thế.
            Năm tôi mười hai tuổi, sau khi xuất gia ở Thê Hà Sơn Tự, là một thanh chúng nhỏ tuổi nhất trong chùa, da mặt lại rất mỏng. Lúc mới bắt đầu, lên lớp nghe chẳng hiểu, xuống lớp cũng không thích hỏi han. Đã không thể ra ngoài, lại không thể qua lại với người khác, thơ nhà viết được rồi, không có tiền mua tem, thật không dễ chịu nổi đến học kì kết thúc. Học viện cho nghỉ, mắt nhìn đồng học vác hành lí trở về nhà, tôi cũng theo bọn họ đến Đại Hùng Bảo Điện lễ Phật báo nghỉ, ngay lúc định bước ra cửa chánh điện, thầy tôi là Thượng nhân Chí Khai hét bắt tôi đứng lại, mắng rằng:
            - Đứng lại! Về nhà nào?
            Tôi chỉ đành chịu dừng tình cảm nhớ nhung quê nhà của một đứa bé mới lìa gia đình, cấm túc đóng cửa. Có lúc trong lòng rất khổ, nhưng nghĩ đi nghĩ lại: Không ai bắt ta xuất gia, chính tự ta tình nguyện, do đó cũng bèn xem là "đương nhiên" mà tiếp nhận. Đã là lẽ đương nhiên, vì sao lại cảm thấy khổ?
            Từ khi học xong ở viện Luật Học Thê Hà rồi, tôi lại đến Tiêu Sơn, Kim Sơn, Thiên Ninh… những danh sơn cổ sát để tham học. Nền giáo dục lúc đó không những là chuyên chế đóng kín, mà còn có thể nói không tình, không lí. Thường thường quét đất xong, lão sư không hài lòng, bắt quét nữa. Kiểm tra lại, thấy vài chiếc lá rụng, "không được" lại phải quét một lần nữa. Ăn cơm no rồi, vị sư kiểm soát đi qua, bắt anh ăn một chén nữa, anh phải phình bụng mà nuốt, nếu không thì một cái tát tai sẽ giáng xuống ngay, hoàn toàn không có được một lời tử tế. Bạn học nói người nọ cố ý tìm tôi để quấy rối, tôi lại biết được đây chính là giáo dục. Ông thầy chịu dạy, mình mới có cơ hội trưởng thành. Có trưởng thành mới có tương lai. Do đó, đối với tất cả gậy hét, cho đến oan khuất, tôi đều nghĩ "đương nhiên mà thôi" để tiếp nhận trọn vẹn. Cảnh thuận nghịch hễ gặp đều có thể đương nhiên tiếp nhận, sự sáng tối trong trời đất đều không giống nhau.
            Lúc mười lăm tuổi thọ giới, lại chịu đủ thứ khổ, vừa đến giới trường, giới sư trước hết tìm giới tử để hỏi han tra xét. Giới sư thứ nhất hỏi tôi:
            -Người nào muốn anh đến thọ giới ?
            - Thầy con muốn con đến.
            - Chẳng lẽ thầy anh không kêu anh đi thọ giới, thì anh sẽ không đến ư?
            Nói xong, cành dương liễu quất như mưa lên đầu. Đến giới sư thứ hai, ông lại hỏi y như thế, vì đã có kinh nghiệm lần thứ nhất, nên tôi đáp:
            - Tự chính mình con muốn đến.
            Đâu ngờ "phạch… phạch… phạch" trên đầu lại một trận khổ sở:
            - Đồ đáng ghét! Thầy không kêu mi đến, mi lại dám to gan tự mình chạy đến à!
            Giới sư thứ ba cũng lại hỏi vấn đề trước. Lần này kinh nghiệm phong phú, do đó cung cung kính kính trả lời:
            - Dạ tự con phát tâm đến, Sư phụ cũng kêu con đến.
            Tự cho là đáp án này phải rất viên mãn, kết quả, "Ngươi là đồ xảo trá!". Đương nhiên nhận chẳng ít một trận đánh bừa.
            Mang đầu óc đang nổ đom đóm, đến vị sư cuối cùng ngồi ở trước mặt, tôi không đợi Ngài hỏi, trực tiếp đưa đầu ra, thưa:
            - Lão sư từ bi, Thầy muốn đánh cứ đánh!
            Thời kì thọ giới, quỳ nghe khai thị, bị mắng, bị trách là sự huấn luyện "đương nhiên", thậm chí đến cả cầu tiêu cũng bị hạn chế, một người nhịn không nổi, giữa đường chuồn mất, cũng có số người một mặt oán trách càu nhàu, một mặt thọ hết giới kì. Nhưng tôi nhận rằng những điều này đều là đại từ đại bi của lão sư, do đó đem lòng cảm ơn, "nghĩ đương nhiên thôi" mà qua được năm mươi hai ngày khó quên.
            Năm mười chín tuổi, tôi đến học tại Phật Học Viện Tiêu Sơn. Nhớ được một vị giáo thọ từng có ý thúc đẩy tôi vào Học Viện Giáo Dục Quốc Lập để học, tôi cao hứng quá chừng về thưa lại với thầy, lại bị một trận trách mắng:
            - Hỗn láo! Giáo dục Phật giáo không chịu học, lại đòi ra ngoài nhận giáo dục xã hội cái gì?
            Về sau, tuy thầy tôi đưa một sư đệ khác đến trường này học, nhưng trong lòng tôi không có một chút bất bình, chỉ biết rằng "đây là lẽ đương nhiên!"
            Qua mấy năm về sau, sư đệ rời khỏi Phật Giáo, tôi mới thầm thầm thể hội sự kì vọng ân cần tha thiết của thầy tôi đối với mình. Nhân đây lại đem tất cả mài luyện trong quá trình học tập xem là "lẽ đương nhiên". Có cảm nhận "đương nhiên" là rất nhiều tốt đẹp vậy!
            Lúc đó, Viện trưởng viện Phật Học Tiêu Sơn là Hoà thượng Tuyết Phiền. Trong khoá học, thầy chưa hề nói với tôi một câu, lúc nhìn đến tôi cũng đều là hai con mắt sáng quắt như đuốc hướng về tôi mà nhìn, có người nói: Lão ấy đang trừng tôi, tôi lại biết được Ngài không phải là người có ác ý; ngay cho như thế, tôi cũng nhận rằng đây là "lẽ đương nhiên".
            Tại giai đoạn học tập, tự mình chẳng biết gì, thì có tư cách gì yêu cầu thầy phải đối xử tốt với chúng ta? Hoặc cho nhân vì tôi đối với thầy cung kính nhất như, về sau thầy nói: Trong bao nhiêu học sinh ở đây, người mà Thầy khen ngợi nhất lại là tôi. Tôi tự biết mình không tài giỏi gì, ngoài lúc được yêu quý vừa mừng vừa lo ra, tôi cặn kẽ nhớ lại chuyện trước, rất may mắn cho chính mình lúc ban đầu, có thể "nghĩa đương nhiên rồi" ở trong giáo dục vô tình vô lí mà trưởng thành mạnh mẽ.
            Hơn mười năm sau, tôi mời pháp sư Chân Hoa viết bài "Tham học tỏa đàm"[1] cho báo Giác Thế, trong văn đối với đạo tràng tham học biểu lộ rất nhiều ý kiến bất mãn, kì thực những con người, sự việc, nơi chốn này tôi đã trải qua hết rồi, chỉ là lúc ấy đều biết rằng "đây là lẽ đương nhiên", do đó chưa hề biết nó không tốt, cũng khiến tôi ở trong chỗ biết được »đương nhiên« mà cảm thấy không có gì bất bình, vì chuyện đó là giáo dục mà!
            Mười năm trường tham học, chớp mắt đã qua, về sau, tôi cũng làm công tác dạy học, từ giảng dạy Phật học đến dạy về Quốc văn, từ dạy người xướng tụng đến chỉ đạo viết văn…, trong đó tôi từ lần này đến lần khác, trong sự ngang bướng của học sinh mà rèn luyện tánh nhẫn nại và từ bi của mình. "Nghĩ đương nhiên là vậy" điều hoà phương thức dạy học và tâm thái giảng bài của mình, để mong khế lí khế cơ, như nay có thể nói là cưỡi xe nhẹ đi đường quen. Từng có người hỏi tôi về tâm đắc sau nhiều năm dạy học, tôi biết rằng học sinh cố nhiên là phải tiếp nhận, ông thầy cũng ắt phải cải tiến, hai bên đều cần thung dung nhẫn nhận chỗ hay của nhau trong lúc dạy và học, nếu như có thể từ "chẳng cho là đúng" lúc ban đầu, đến "tất cả nghĩ đương nhiên như thế" cuối cùng. Đây chính là một loại tiến bộ, chính là một loại thành công.
            Thầm cảm thấy làm việc gì nếu cứ tự cho mình có lí, thì chẳng dễ trưởng thành. Ở quá khứ, có ông thầy ân cần dạy bảo tôi, như nay đệ tử, tín đồ cũng có lúc không tiếc lời "chỉ giáo". Đối với việc này, tôi đều "nghĩ đương nhiên vậy" để thừa nhận, vì "Ta yêu tôn nghiêm (Thầy), nhưng ta yêu chân lí hơn". Trước chân lí, không có thứ tự lớn nhỏ, cũng không có phân chia tôn ti.
            Thẳng đến hiện tại, tôi lại là một mực đem "tất cả đều là lẽ đương nhiên" ra để tự khích lệ mình, giáo dục đồ chúng. Trong số đệ tử từng có người hỏi tôi:
            - Thầy dạy chúng con nên "nghĩ đương nhiên vậy" để phục vụ chân lí. Cái gì là chân lí? Là tri thức khoa học kỹ thuật hiện đại? Hay là mười hai phần giáo trong kinh điển?
            Tôi biết rằng điều này đều đúng, nhưng cũng đều chẳng đúng. Vì chân lí không nhờ cầu bên ngoài, tại trong tự tánh vốn tự đầy đủ, cái trọng yếu nhất là ắt phải hiểu được sự tôn trọng và bao dung, nếu không thì ngay cho đọc khắp ngàn kinh muôn luận, học chứa đầy năm xe, cũng chẳng qua là người nghèo đếm của báu cho người, tự dối dối người, một mai cảnh giới xảy đến lại là bị ngũ dục trần lao chướng ngại mê hoặc như thường, có lúc thậm chí trở thành lầm lớn cũng chẳng tự biết. Tất cả "đương nhiên" đó chính là có thể tâm cảnh nhất như, vật ngã đều quên.
            Lúc còn bé, gia cảnh thập phần khốn khó, mấy người cậu của tôi tuy so ra giàu có nhưng cũng không có tâm ra sức tương trợ, tôi một mực biết đây là "lẽ đương nhiên". Sau này tôi đến Nhân Văn Hội Tuỵ ở Tiêu Sơn học, họ mấy lần nhờ tôi mua dùm bảng vẽ chữ, nhưng lại không hề đưa tiền, tôi lúc đó nghèo rớt mồng tơi, nhưng lại nhịn ăn bớt mặc, đem tiền cúng dường Phật sự từng chút từng chút dành dụm ra, y lời mua dùm. Cứ thế về sau mẹ tôi biết được đau lòng vì tôi không thôi, tôi lại nhận rằng cho người phương tiện, cho người lợi dụng đều là "lẽ đương nhiên".
            Biệt ly quê hương bốn mươi năm sau, tôi mới liên lạc được với người nhà. Thân thích lúc ấy đều gởi thơ đòi tôi gởi Mĩ kim cho họ xây nhà, tiếp theo lại bao nhiêu lần đòi tôi những vật dụng điện khí, mẹ tôi lấy tất cả, muốn tôi không cần phải bận tâm, mà tôi trước sau vẫn cho rằng, cho người là biểu thị sự giàu có của mình, là việc "đương nhiên". Do đó, mỗi lần về Đại Lục, tôi không những mua đồ tặng bạn bè chí thân, ngay dù vị lão sư, bạn đồng tham, học sinh, người làng ít quan hệ với mình, tôi đều giúp đỡ biếu tặng.
            Xuất gia học Phật, một lòng một dạ độ chúng lợi sanh, không nghĩ đến khoác cà-sa vào sự càng nhiều, rời Phật Học Viện Tiêu Sơn rồi gia nhập hạnh đàn (杏壇) lại vô cớ bị bên này cho là đặc nhiệm của bên kia, lại  bên kia cho là gián điệp của bên này, luôn luôn bị đến sưu tra gạn hỏi, có một lần lại chẳng hiểu làm sao bắt ngồi tù, xém một tí bỏ mạng.
            Năm 1949 đến Đài Loan, phút chốc lại bị giam cầm lâu đến hai mươi ba ngày, nạn lớn mà không chết, tuy còn sống sót lại vẫn bị liệt vào sổ đen,  Tôi biết được lúc đó sanh nhằm đời loạn, một chút oan uổng uỷ khúc này đều là "lẽ đương nhiên", nhân đây hoàn toàn có thể tâm bình khí hoà. Chỉ có trong lòng cầu nguyện: Mong đời loạn lạc bất công bất bình này sớm có ngày qua đi. Tôi biết đây cũng là ý nguyện "đương nhiên" của mình.
            Năm 1981, trước lúc quan hệ hai bên chưa được sáng sủa lắm, tôi ở tiệm cơm lớn Thái Bình Dương tại Nhật Bản, cùng mẹ già gặp lại lần đầu sau bốn mươi năm xa cách, bao nhiêu tình cảm biệt ly trong một sát-na đều trào lên tim, tôi đột nhiên cảm nhận rằng trên thế gian người với người, cho đến giữa nước này với nước khác, ân ân oán oán, tốt tốt xấu xấu, đều không phải là cái đối lập mà là cộng nghiệp của mọi người tạo thành, nếu như muốn cho thế giới được hoà bình an lạc vĩnh cửu, ắt cần phải dưới nguyên tắc hỗ tương bình đẳng, bao dung sự khác mình, mới có thể đạt thành, thậm chí quốc gia muốn làm được dân chủ tự do chân chính, cũng phải là ở dưới tiền đề người trong nước kia đây tôn trọng lẫn nhau, chiếu cố cả tình lẫn lí mới có thể thành công.
            Sự buồn vui ly hợp do thời cuộc tạo thành, cố nhiên phải chịu, xem tình người ấm lạnh của thế gian lại đủ để khám phá tất cả. Lúc mới đến Đài Loan, y phục lam lũ, đói không no bụng, đã không người cho ở, cũng không người tán thưởng. Dù cho người khác gây cho tôi nhiều bất tiện, khiến tôi khó kham đến cùng cực, nhưng tôi đều xem nó là "lẽ đương nhiên", vì họ với tôi chẳng phải thân, chẳng phải quen biết, không có lí do để họ để ý đến mình. Đó, tôi xưa nay cũng không hề ghi hận trong lòng. Một niệm "đương nhiên" tăng tiến công đức, kì thực đây cũng là việc tu hành trong sinh hoạt.
            Năm 1952, hội Phật Giáo Trung Quốc tại Đài Loan họp lại. Lần đầu cử hành bầu cử, lúc ấy tôi hai mươi sáu tuổi, được tuyển làm Thường vụ lí sự, vì tôi cho rằng mình trẻ tuổi, chẳng đủ tư cách, được chọn không cho là "đương nhiên", do đó tôi thẳng thắn quyết định từ chối, không dè lại đắc tội với hệ phái ở đây. Về sau tôi cứ chẳng gặp thuận lợi hoài.
            Năm 1965, Hội nghị Phật giáo thế giới phục vụ xã hội cử hành tại Việt Nam, tôi lại được kể là một trong những người được mời khai hội, theo đó lại tiếp đến hội Phật Giáo Trung Quốc ra thông tri mời hội nghị trong nước, tôi ngàn dặm xa xôi ngồi xe đêm từ Cao Hùng đến Đài Bắc, một lão pháp sư trông thấy tôi, lại nói: 
            - Nếu như ông đi thì tôi không đi.
            Tôi chỉ biết đáp lại:
            - Lão pháp sư, đương nhiên là Ngài đi.
            Ngay lúc tôi xoay mình ra khỏi nghị trường, Ủy viên lập pháp là tiên sinh Mạc Đạm Vân chận ngang cửa hỏi:
            - Thầy lại trở về như thế ư?
            Tôi đáp:
            - Kì thực, đây là "lẽ đương nhiên". 
            Nói xong, tôi lập tức trở về Nam. Lúc đến Cao Hùng, đã là lúc muôn nhà lên đèn, đêm khuya vắng vẻ.
            Đương nhiên! Đương nhiên! Đương nhiên cần có lực lượng gánh vác!
            Năm 1978, Phật giáo đồ thế giới hữu nghị lần thứ 12, hội tại Đông Kinh, lúc mới họp, Nhật Bản tính bãi bỏ tư cách dự hội của đoàn Đại biểu Trung Hoa Dân Quốc, Hội Phật Giáo Trung Quốc xưa nay bài trừ cơ hội làm đại biểu đến dự của tôi, lần này là suy cử tôi dẫn phái đoàn đến Hội Phật Giáo Nhật Bản kháng nghị. Nhớ được lúc đó có mấy vị pháp sư Tịnh Tâm, Thánh Ấn và cư sĩ Ông Già Đông, Từ Huệ thì đi theo phụ trách phiên dịch. Sau một lần trò chuyện, bằng hữu  Phật Giáo Hội Nhật Bản cuối cùng tiếp nhận ý kiến của tôi, vẫn mời đại biểu Phật Giáo Hội Trung Quốc đến dự. Tôi hoan hoan hỉ hỉ, không thẹn với sứ mạng, trở về Đài Bắc, không dè Phật Giáo Hội Trung Quốc đã cử một số pháp sư khác đi dự khai hội. Công lao khó nhọc của chúng tôi hoàn toàn không nói đến. Nhớ lúc ấy, pháp sư Thánh Ấn bực tức gọi điện thoại nói:
            - Chúng ta ở tiền phương gian khổ đấu tranh, bọn họ lại ở hậu phương ngồi hưởng thành công!
            Tôi an ủi ông:
            - Đi dự khai hội kì thực rất cay đắng, không đi tốt nhất…
            Năm 1980, Đại hội Hội viên hội Phật giáo đồ hữu nghị lần thứ 13, cử hành tại Chiêng Mai, Thái Lan. Pháp sư Thiền Định đại biểu Pháp quốc kiến nghị lên Tổng hội thế giới hội Phật giáo đồ hữu nghị thế giới, mời tôi với danh hiệu khách quý đến dự, nhưng lúc tôi xin xuất cảnh thì vì pháp sư Tịnh Lương ở hội Phật Giáo Trung Quốc đem công văn xếp lại không chuyển báo Bộ Nội Chính, nên đành chết trong trứng nước không đi được.
            Những chuyện chịu thiệt thòi như thế có thể nói không phải một mà thôi, tôi toàn xem là nghịch tăng thượng duyên "lẽ đương nhiên" mà ngoài ra lúc hoằng pháp gặp những gian nan trắc trở lại không thể kể xiết, tôi cũng đều biết là thực tướng Ta-bà "lẽ đương nhiên", do đó tôi không nhân đó mà hận đời chán tục, oán trời trách người, ngược lại lấy đây làm gương, rộng kết duyên lành, dựng lập cơ hội trước. Như nay, hội Phật giáo đồ hữu nghị thế giới, chẳng những từng trước sau tại chùa Tây Lai Mĩ Quốc và Phật Quang Sơn Đài Loan triệu tập Đại hội Hội viên lần thứ 16 và 18 mà lại còn tôn tôi làm Hội trưởng Danh dự. Năm gần đây, sự nghiệp Phật Quang ở Hội Phật Quang Quốc Tế khắp năm châu cũng đầy đủ nhân duyên, "đương nhiên" thành tựu. Do đó, đem tất cả xem là "lẽ đương nhiên" đều chẳng phải là sợ việc rút lui mà là ắt phải trước tiên nhận ra cùng thế gian này, hiểu rõ cách điều chỉnh hoàn cảnh về sau, theo ngay đó gánh vác, tự mình cải tạo làm nên, chỉ cần có thể vững trăm nhẫn này, phấn đấu vươn lên, nhất định có thể siêu vượt phàm trần, được như ý muốn!
            Đồ chúng thường hỏi tôi:
            - Người đó xấu như vậy, Thầy vì sao lại muốn giúp hắn?
            Vì tôi xưa nay biết rằng rộng rãi để đối với mình, nghiêm khắc để đãi người không phải là lẽ đương nhiên. Trung hậu tha thứ mới là lẽ đương nhiên, chỉ cần người này đối với người khác có một chút chút tốt, ngay cho đối với tôi tình nghĩa bạc bẽo, tôi cũng nghĩ thành tựu cho hắn. Tôi nhớ lúc nhỏ, có một người tên là Giải Nhân Bảo ở gần nhà, từng hãm hại cha tôi phải ở tù, về sau một độ thất nghiệp, sanh hoạt sa sút, mẹ tôi lại chẳng nhớ hiềm cũ, khuyên tôi xin Ân sư kiếm việc cho anh ta, lúc đó trong lòng tôi không cho là đúng, nhưng vì mẹ sai không dám cãi, phải vâng lời mà làm. Đài Loan Quang Phục Hội thắng lợi, Tưởng Công (Tưởng Giới Thạch) dùng đức báo oán, khiến người Nhật Bản thoát khỏi khổ mất nước diệt chủng. Tôi mới dần dần cảm nhận lấy lửa dẹp lửa, đổ nước nóng để ngừng sôi đều không phải là hành vi đương nhiên, từ bi hỉ xả mới là sự tu hành "lẽ đương nhiên" nhất, là tài sản quý báu nhất của người đời.
           Cổ Huấn có nói: "Hủ chi ẩu chi, xuân hạ sở dĩ sanh dục dã, sương chi tuyết chi, thu đông sở dĩ thành thục dã"[2] (Nhờ tươi nhờ tốt, xuân hạ do đó nuôi sống vậy, nhờ tuyết nhờ sương, thu đông do đó mà chín muồi vậy). Trong biển người chìm nổi, chịu khổ chịu nạn, oan uổng uỷ khúc đều là "lẽ đương nhiên", chỉ có kiên trì niềm tin, chúng ta mới có thể tùy cảnh ngộ mà an, tùy duyên sinh hoạt, tùy hỉ mà làm, tùy tâm mà ở, vì chính mình kiếm ra đường khai thông. Trên thế gian này, làm cho người hoan hỉ, cho người có lòng tin cũng đều là "lẽ đương nhiên", chỉ có ôm chặt quyết tâm này, chúng ta mới có thể chẳng kể được mất, chẳng quản nhục vinh, hết sức ở mình làm chỗ đáng làm, tất cả đều "đương nhiên" vậy.
--o0o--