TẤT CẢ ĐỀU LÀ LẼ ĐƯƠNG NHIÊN
                    
                  
                  
                    
                    
                    
                    LỜI GIẢI ĐÁP CHO CON NGƯỜI
                    
                  
                  
                    
                    
                    
                    Phải "Không" Mới Có Thể "Có"
                    
                  
                  
                    
                    
                    
                    Tinh Vân Hoà Thượng
                    
                  
                  
                    
                    
                    
                    Hạnh Huệ soạn dịch từ Tinh Vân Bách Ngữ
                    
                  
                  
                    
                    
                    
                    ---o0o---
                    
                  
                  
                    
                    
                                Phật pháp giảng "Không" là phải "không" các chấp 
                    trước, "không" các hai bên, "không" các giả tướng, "không" 
                    các đối đãi, để lại cấp cho chúng ta một thế giới chân thật.
                    
                  
                  
                    
                    
                                Lúc tôi mới xuất gia, vâng lệnh thầy là Thượng 
                    nhân Chí Khai đến Luật Học Viện Thê Hà học. Có một hôm, pháp 
                    sư Giác Dân là Giáo thọ Quốc văn viết lên bảng mười chữ: "Dĩ 
                    Bồ-đề vô pháp trực hiển Bát-nhã Luận", bắt chúng tôi lấy đó 
                    làm đề bài viết văn. Lúc ấy tôi mới mười hai tuổi, từ khi đi 
                    học chưa hề nghe hiểu qua một câu kinh, mà mười chữ này lại 
                    giống như Thiên thư, khiến tôi mò chẳng nhằm bờ mé, chỉ đành 
                    đông sao tây chép, mơ mơ hồ hồ mà nộp bài. Cho đến về sau, 
                    tôi trải qua bao thế sự tang thương, lại nhiều lần giảng Tâm 
                    kinh và kinh Kim Cang, ngay khi nhớ lại đề mục năm xưa, mới 
                    bỗng dưng đại ngộ: "Bồ-đề vô pháp" là "không", "trực hiển 
                    Bát-nhã" là "hữu", đúng ý nghĩa của câu nói chính là "phải 
                    không, mới có thể có". 
                  
                  
                    
                    
                                Người trên thế gian thường thường đem "không" và 
                    "có" chia thành hai vật chẳng đồng, cho rằng cái "không" 
                    chẳng phải là "có", cái "có" chẳng phải là "không". Nhưng 
                    khi Phật giáo giải thích chân lí vũ trụ nhân sinh, nhận là 
                    "không" rồi, mới có thể "có"; chẳng không thì chẳng có. Ví 
                    như tách trà không mới có thể đựng nước, ví da không mới có 
                    thể bỏ tiền, nhà cửa không mới có thể có người ở, đất đai 
                    không mới có thể xây lầu, thậm chí lỗ mũi không mới có thể 
                    hô hấp, lỗ tai không mới có thể nghe tiếng, cái miệng không 
                    mới có thể nhai nuốt, bao tử, ruột không mới có thể chứa 
                    thức ăn, chẳng "không" làm sao "có" được chứ? 
                  
                  
                    
                    
                                Không, sự thực là chân lí có tánh kiến thiết rất 
                    giàu có, chỉ vì rất nhiều người hiểu lầm ý nghĩa của 
                    "không", thậm chí cho rằng trời cũng không, đất cũng không, 
                    thế gian cũng không, là một sự việc đáng sợ biết bao! Kì 
                    thực, "không", nghe dường như là chẳng có gì cả, nhưng hư 
                    không chẳng phải là bao la vạn tượng, ưng có đều có đó sao? 
                    "Không", nhìn dường như là không hình không tướng, nhưng hư 
                    không vào vuông thì vuông, vào tròn thì tròn, chẳng phải là 
                    có đủ công dụng đối đãi siêu việt, không chỗ nào chẳng có 
                    tướng đó sao? 
                  
                  
                    
                    
                                "Không" của Phật giáo, là dùng để thuyết minh: 
                    Sum la vạn tượng đều là do nhiều thứ điều kiện họp lại mà 
                    thành, do đó chẳng những trong vũ trụ không có sự vật nào 
                    tồn tại độc lập, mà giữa đây kia đều có đủ quan hệ hỗ tương 
                    dựa vào nhau mà sống còn. Quan hệ, điều kiện nói ở đây, 
                    trong Phật giáo gọi là "nhân duyên". "Trung Luận" của ngài 
                    Long Thọ nói: 
                  
                  
                    
                    
                                - Các pháp nhân duyên sanh 
                  
                  
                    
                    
                                - Tôi nói tức là không. 
                  
                  
                    
                    
                                Lại nói: "Vì có nghĩa không, nên tất cả pháp 
                    được thành. Vì không có nghĩa không, nên tất cả pháp chẳng 
                    thành". Do đây có thể thấy, Phật giáo giảng "không", là muốn 
                    "không" các chấp trước, "không" các hai bên, "không" các giả 
                    tướng, "không" các đối đãi, để đem lại cho chúng ta một thế 
                    giới chân thật. Nhân đây, "không" chẳng những không có tánh 
                    phá hoại, mà lại là bản thể xây dựng vũ trụ nhân sinh. Kinh 
                    nói: "Nếu muốn biết được cảnh giới Phật, nên tịnh ý mình như 
                    hư không". Chúng ta nếu như có thể triệt ngộ lí "không", 
                    khiến tâm lượng của chính mình rộng lớn được như hư không, 
                    bèn có thể lí sự viên dung, sự sự vô ngại. 
                  
                  
                    
                    
                                Đức Phật sau khi lên cung trời Đao Lợi thuyết 
                    pháp cho mẹ suốt ba tháng, trở về nhân gian, đệ tử nghe tin 
                    này, tranh nhau nghinh đón, Tỳ-kheo ni Liên Hoa Sắc vận dụng 
                    thần thông, đến trước mặt đức Phật đầu tiên, cung kính lạy 
                    dưới chân Phật và nói: 
                  
                  
                    
                    
                                - Đệ tử Liên Hoa Sắc là người đầu tiên tiếp đón 
                    Phật-đà. 
                  
                  
                    
                    
                                Đức Phật lại nói: 
                  
                  
                    
                    
                                - Người đầu tiên đến tiếp đón ta không phải 
                    ngươi, mà là Tu-bồ-đề đang ở trong hang núi tại thành 
                    Vương-xá ngồi yên quán không. Có thể thấy được chân lí 
                    "không" mới là người chân chính thấy Phật-đà. 
                  
                  
                    
                    
                                Lại có lần, đức Phật trên hội Linh Sơn, cầm một 
                    hạt châu như ý đổi màu, hỏi Thiên vương bốn phương: 
                    
                  
                  
                    
                    
                                - Các ông nhìn xem hạt châu như ý này màu gì?
                    
                  
                  
                    
                    
                    Thiên vương bốn phương xem xong, có người nói là màu xanh, 
                    có người nói là màu vàng, có người nói là màu đỏ, người thì 
                    nói là màu trắng, Phật-đà bèn thâu châu như ý lại, rồi xòe 
                    tay ra, hỏi bọn họ: 
                  
                  
                    
                    
                                - Hạt châu ma-ni hiện ở trong tay ta đây màu gì?
                    
                  
                  
                    
                    
                                Các Thiên vương không hiểu chỗ chỉ trong tâm 
                    Phật, không hẹn mà cùng trả lời: 
                  
                  
                    
                    
                                - Bạch Thế Tôn! Trong tay Ngài hiện tại căn bản 
                    không có gì, có bảo châu như ý nào đâu? 
                  
                  
                    
                    
                                Đức Phật bảo bốn Đại Thiên vương: 
                  
                  
                    
                    
                                - Ta đem châu thế gian tầm thường cho các ông 
                    xem, các ông đều biết phân biệt màu của nó. Nhưng lúc bảo 
                    châu đích thực ở trước mắt các ông, các ông lại nhìn mà 
                    chẳng thấy, thật là điên đảo biết bao! 
                  
                  
                    
                    
                                Đích xác, người đời điên đảo, chấp trước cái có 
                    huyễn ảo, mê mình theo vật, nhân đây, lúc có thu hoạch thì 
                    vui mừng hớn hở, lúc có mất mát thì buồn rầu khổ não, lúc 
                    mọi việc thuận lợi thì hưng phấn vô cùng, lúc gặp khó khăn 
                    thì thất vọng gục đầu, tâm tính của chính mình hoàn toàn bị 
                    ngoại cảnh dẫn dắt mà chẳng biết. Nếu như chúng ta có thể 
                    nhận biết tất cả sự vật thế gian đều là vô thường chẳng 
                    thật, dùng chân lí "không" để điều hoà và thống nhiếp quan 
                    niệm đối đãi này, như thế bất kể có cũng tốt, không cũng 
                    tốt; khổ cũng tốt, vui cũng tốt; khó cũng tốt, dễ cũng tốt; 
                    vinh cũng tốt, nhục cũng tốt, chốn chốn nơi nơi đều có thể 
                    làm đến "nên không chỗ trụ mà sanh tâm kia" như trong kinh 
                    Kim Cang nói, thì bèn có thể không đâu chẳng trụ, cuộc đời 
                    như thế không phải là rất giải thoát tự tại sao? 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Nhớ lúc tôi vừa đến Đài Loan, trong mình không 
                    có một vật, nhưng tôi không thấy nghèo, cũng không thấy khổ. 
                    Vì được giáo dục trí huệ "không" của mười năm ở tùng lâm 
                    khiến tôi cảm nhận một cá nhân không cần lấy vật chất dồi 
                    dào làm đầy đủ, thử nghĩ trong bầu trời, trăng sao nhấp nháy 
                    khả dĩ cho tôi tự do thưởng thức; trong công viên, cây cối 
                    bông hoa chen chúc khả dĩ cho tôi mặc tình ngắm nghía; ở phố 
                    chợ, đường sá khả dĩ mặc tôi bước đi; thiên nhiên, chim, 
                    thú, trùng, cá khả dĩ tùy ý tôi kết duyên. Tôi cảm nhận sâu 
                    xa sự giàu có của ba ngàn đại thiên thế giới, lại từ đáy 
                    lòng cảm tạ đức Phật vĩ đại, Ngài ngàn cay muôn đắng thể 
                    nghiệm ra lí "không", để tôi có thể tuân theo, học tập, bắt 
                    chước, hưởng dụng. Do tôi có một trái tim "không" rỗng tiếp 
                    nạp tất cả, giờ giờ khắc khắc đều đem thái độ cảm ân, biết 
                    đủ ra phục vụ, dâng hiến. Kết quả vì chính mình mang đến rất 
                    nhiều cơ duyên. Do tôi dùng một trái tim "không" linh động 
                    tiếp đãi sự vật, nơi nơi chốn chốn đều đem pháp hỉ vô hạn 
                    đầy lòng ra hoằng pháp độ chúng, kết quả vì Phật giáo khai 
                    thác trời đất mới toanh. Tôi thể hội được chân đế "phải 
                    không mới có thể có", thực tại là kho báu cuộc đời lấy hoài 
                    chẳng hết, dùng hoài không cạn. 
                  
                  
                    
                    
                                Tôi đã hiểu ra chính mình đến thế gian, là 
                    "không không" mà đến.Sinh sống trên thế gian, là "không 
                    không" mà sống; nhân đây tôi đối với sở hữu trên thế gian, 
                    cũng hiểu là "không không" mà có. Năm 1947, tín đồ cúng 
                    dường tôi một biệt thự hoa viên tinh tế để dùng tiến tu. Tôi 
                    lấy tên là tinh xá Phổ Môn, đẹp thì đẹp, nhưng tôi không 
                    nhận làm sở hữu của mình. Nhân đây, tôi vào năm 1957, 
                    "không" bỏ cái phòng này rồi, ở phố Tam Trọng huyện Đài Bắc 
                    thành lập nơi phục vụ văn hoá Phật giáo, vì văn hoá Phật 
                    giáo mà nỗ lực, về sau nhân vì việc Phật sự hưng thịnh, 
                    không đủ sử dụng, dời đến bên cạnh Viên Hoàn đường Trung 
                    Chính phố Cao Hùng và phụ xây thêm một nhà Ấu Trĩ Viện. Ba 
                    năm sau, có xét việc bồi dưỡng Tăng tài mới là cơ sở căn bản 
                    của Phật giáo, tôi lại "không" bỏ phòng xá yên tĩnh và ấm 
                    cúng trên mảnh đất hoàng kim này đến Phật Quang Sơn hoang vu 
                    vắng vẻ. Theo lối này, đem "không" gian nhỏ đổi lấy "không" 
                    gian lớn. Như nay sự nghiệp Phật giáo được làm càng lúc càng 
                    lớn, đạo tràng Phật giáo xây dựng càng lúc càng nhiều, nhưng 
                    tôi chẳng thấy lớn, cũng chẳng thấy nhiều, thậm chí tôi 
                    chẳng thấy tự mình "có", nhân vì tôi nhận ra rằng tất cả 
                    những cái này đều là sở "hữu" của đại chúng, tôi chẳng qua 
                    chỉ là một nhân duyên trong đó mà thôi. 
                  
                  
                    
                    
                                Thường có người hỏi tôi: 
                  
                  
                    
                    
                                - Phật Quang Sơn có nhiều kiến trúc to lớn như 
                    thế, thậm chí có viện chia ra hơn một trăm gian. Kinh phí to 
                    tát như thế từ đâu ra? 
                  
                  
                    
                    
                                Tôi đều bảo họ: 
                  
                  
                    
                    
                                - Là từ "không" mà ra. 
                  
                  
                    
                    
                                Lấy ngay Phật Quang Sơn mà nói, nó vốn là một 
                    núi đất tre gai mọc đầy cỏ hoang lấp chân, không có người 
                    nào chịu khai khẩn, huống là nói chuyện ở, nhưng trải qua sự 
                    chai tay, chai chân của đại chúng, một phen nỗ lực rồi, 
                    chẳng phải là "trong không sanh diệu hữu" sao? 
                  
                  
                    
                    
                                Phật Quang Sơn sở dĩ có thể từ núi hoang trở 
                    thành thánh địa, đúng như lí niệm mà lúc vừa mới khai sơn 
                    tôi đã đề xuất: "Lấy không làm có, lấy lui làm tiến, lấy 
                    không làm vui, lấy chúng làm mình". Cũng như lúc khai quang 
                    ở Đại Phật Thành, tôi nói pháp: "Lấy nước suối Tây Lai, chọn 
                    đá cát Cao Bình, gộp sức người toàn cầu, xây dựng Đại Phật 
                    tối cao". Chính nhân vì là các duyên hoà hợp, do đó là nghĩa 
                    "không" tạo thành; chính nhân vì tôi "không" không nghèo 
                    thiếu, do đó đông tay nên việc, góp gió thành bão. Như nay 
                    tại Phật Quang Sơn, có ba ngàn người sinh hoạt, ăn uống, tôi 
                    đã không có điền sản ông bà để lại, lại không kinh doanh 
                    buôn bán như thế tục, thậm chí cổ phiếu, bán trả góp tôi đều 
                    dốt đặc cán mai, tôi chỉ là có lòng cất chùa, an Tăng, lo 
                    cho người. Nhưng mà thật lạ lùng, bất kể tôi đến đâu, đồ 
                    chúng đều rất sợ tôi nói một câu: 
                  
                  
                    
                    
                                - Tôi không muốn ở đây, tôi muốn đi! 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Có thể thấy nhân sinh thế sự đúng như Tâm kinh 
                    nói, không chỗ được mà được mới là thật được. Từ sự vật có 
                    hình có tướng mà tìm lấy, dù cho chiếm hữu cũng chẳng phải 
                    thật có. 
                  
                  
                    
                    
                                Trên xã hội, nhân vì người không hiểu rõ Phật 
                    pháp mà hiểu lầm nghĩa không, cố nhiên khó tránh khỏi, người 
                    đối với Phật pháp hiểu biết nửa vời mà chỉ lầm nghĩa không, 
                    cũng vẫn có nhiều người. Ví như có số người cho là tất cả 
                    đều không, vô thường huyễn hoá, chẳng nên chấp trước, do đó 
                    cái gì cũng chẳng còn; có số người hiểu được tất cả đều 
                    không, phải kịp xa lìa sớm, chẳng nên tham giữ, do đó chủ 
                    trương tự tu tự độ; thậm chí có số người khoe khoang thế trí 
                    biện thông, đem nghĩa "không" làm hoa tai mắt người. Kì 
                    thực, nếu như chấp trước vào cái không chấp trước, chẳng 
                    phải cũng là một loại chấp trước sao? Tham giữ sự thanh tịnh 
                    vô vi, cũng chẳng phải là một loại tham giữ sao? Không biết 
                    vờ ra vẻ biết, lại không phải là cách làm dối mình, dối 
                    người sao? Số người này đã không cách gì tương ưng với chân 
                    lí "không", lại làm sao có thể "có" Phật pháp chân thật thọ 
                    dụng chứ? 
                  
                  
                    
                    
                                Như đức Phật, xuân hạ thu đông đều mặc một y 
                    phấn tảo, cố nhiên thấy tự tại nhàn nhã, dù cho có khoác y 
                    đính vàng của vua ban, cũng không mảy may kiêu ngạo. Đã có 
                    thể trà thô cơm lạt qua ngày, cũng có thể dùng miếng ngon 
                    vật lạ; đã có thể ăn dưới gốc cây, gội sương dầm gió, cũng 
                    có thể an trụ lầu quỳnh điện ngọc; đã có thể chính mình ở 
                    riêng rừng núi, cũng có thể cùng ở chung với bốn chúng đệ 
                    tử; lúc được tôn sùng cúng dường trước sau như như chẳng 
                    động, lúc bị người huỷ báng dèm pha cũng không hầm hầm nổi 
                    giận. Đức Phật đối với phú quý bần tiện, cùng thông được 
                    mất, thiện ác sạch nhơ, tốt xấu cao thấp, đã chẳng bận tâm 
                    cũng không trôi xuôi theo đời. Tùy cảnh ngộ mà an như thế 
                    này, đem tinh thần lí "không" vào sinh hoạt thực tế chính là 
                    "sự giàu có" lớn nhất của Phật giáo, cũng là di sản lớn nhất 
                    mà đức Phật để lại cho người sau. 
                  
                  
                    
                    
                                Bồ Tát Đề-bà và những Cao tăng đại đức như đại 
                    sư Huệ Tư…, tuy nhiều lần bị người ác độc hại, thậm chí bị 
                    đặt vào chỗ chết, nhưng vẫn không giảm bi nguyện phá tà hiển 
                    chánh, hoằng pháp độ sanh, từ những trước tác của các ngài, 
                    chúng ta có thể biết được. Cái tinh thần "vô duyên đại từ, 
                    đồng thể đại bi", "nhẫn nhục vác nặng, sanh tử nhất như" 
                    này, cũng đều là bắt nguồn từ sự tu hành lâu dài đạt được 
                    trí huệ "không" của Bát-nhã. 
                  
                  
                    
                    
                                Tôi từng đã bị đồng đạo chèn ép, cũng từng bị 
                    giáo đồ đạo khác phá hoại; tôi từng trải qua vô số lần gặp 
                    cản trở, cũng từng qua nhiều lần bị người vu cáo mà trở 
                    thành đối tượng của đơn vị điều tra an ninh, thậm chí nhân 
                    vì bị hiềm nghi làm gián điệp mà nếm mùi lao ngục. Tôi sở dĩ 
                    có thể không oán thù, không hối hận, không khuất phục, không 
                    nhiễu loạn, nhiều lần ngã xuống đứng lên, vượt hiểm như 
                    chơi, là nhân vì tinh thần vô ngã phụng hiến của cổ Thánh 
                    tiên Hiền, trước sau như ngọn đèn sáng trong bóng tối chiếu 
                    soi lên tôi, để tôi khởi lòng tin và dũng khí vượt bực. Tâm 
                    kinh nói: Nếu có thể "chiếu kiến ngũ uẩn giai không", là có 
                    thể "độ nhất thiết khổ ách", thật chẳng phải lời hư dối.
                    
                  
                  
                    
                    
                                Có một học Tăng hỏi thiền sư Duy Khoan: 
                    
                  
                  
                    
                    
                                - Đạo ở đâu? 
                  
                  
                    
                    
                                Thiền sư Duy Khoan đáp: 
                  
                  
                    
                    
                                - Chỉ ở trước mắt. 
                  
                  
                    
                    
                                - Sao con không thấy? 
                  
                  
                    
                    
                                - Vì ông có "ngã" do đó không thấy. 
                  
                  
                    
                    
                                - Con còn "ngã" nên không thấy; như thế, Thiền 
                    sư thì sao? Ngài thấy rồi chăng? 
                  
                  
                    
                    
                                Thiền sư đáp: 
                  
                  
                    
                    
                                - Có "ngã", có "nhân", càng thấy chẳng được.
                    
                  
                  
                    
                    
                                - Nếu như không "ngã", không "nhân", thấy được 
                    chăng? 
                  
                  
                    
                    
                                - Không "ngã", không "nhân" ai có thể thấy đạo 
                    chứ! 
                  
                  
                    
                    
                                Chỗ nói: "mượn giả tu chân", trên thế gian, tất 
                    cả mọi sự vật cố nhiên là huyễn hoá đều không, đối đãi nhau 
                    mà có. Nhưng chúng ta cũng phải ở trong nhân sự mình người 
                    duyên khởi tạm có này mà tu trì. Bằng không, làm sao thể 
                    chứng chân đế "chân không chẳng ngại diệu hữu, diệu hữu 
                    chẳng ngại chân không" được? Nhân đây, khi tham học ở tùng 
                    lâm trong mười năm, tôi tuy lấy tham thiền đả toạ, lễ Phật, 
                    niệm Phật làm công khoá của mình, cũng từng có cảnh giới hồn 
                    nhiên vong ngã, mất cả thân tâm, nhưng tôi chỉ đem tôn giáo 
                    quý báu này thể nghiệm sự chân tu thực học vào trong sinh 
                    hoạt thực tế; hoàn toàn không vọng tưởng vào núi đóng cửa 
                    thất. Tôi từng đã chích máu chép kinh, cấm túc tịnh khẩu, 
                    quá ngọ không ăn, khổ hạnh làm việc, nhưng tôi đều xem chúng 
                    là quá trình rèn luyện thân tâm, hoàn toàn không chấp trước 
                    bất cứ việc gì trong đó. Tôi từng thăm viếng, học hỏi ở các 
                    danh lam cổ sát, trải qua luật, giáo, thiền, đối với việc tu 
                    trì chuyên môn của từng tông tôi nhận rằng có chỗ hay để 
                    thâm nhập một môn. Nhưng tôi vẫn chủ trương Phật giáo nhân 
                    gian, tám tông cùng hoằng dương; cho dù tôi chịu sự giáo dục 
                    vô tình vô lí, nhưng tôi về sau đối với đồ chúng của mình 
                    lại chọn lấy phương thức "từ nghiêm cùng trọng". 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Từng có một vị cư sĩ tại gia hỏi thiền sư Trí 
                    Tạng: 
                  
                  
                    
                    
                                - Có thiên đường, địa ngục hay không? 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Thiền sư trả lời rằng: 
                  
                  
                    
                    
                                - Có. 
                  
                  
                    
                    
                                - Có Phật Bồ Tát hay không? 
                  
                  
                    
                    
                                Thiền sư vẫn đáp:  "Có". 
                  
                  
                    
                    
                                Tóm lại, bất kể anh hỏi cái gì, thiền sư Trí 
                    Tạng đều đáp: "Có". 
                  
                  
                    
                    
                                Vị cư sĩ này nghe xong, nói: 
                  
                  
                    
                    
                                - Lạ thật! Con đem vấn đề này hỏi thiền sư Kính 
                    Sơn, Ngài đều nói: "Không". 
                  
                  
                    
                    
                                Thiền sư Trí Tạng hỏi ông ta: 
                  
                  
                    
                    
                                - Ông có vợ không? 
                  
                  
                    
                    
                                Cư sĩ đáp: 
                  
                  
                    
                    
                                - Có. 
                  
                  
                    
                    
                                - Ông có con cái không? 
                  
                  
                    
                    
                                Cư sĩ vẫn đáp:
                    
                  
                  
                    
                    
                                 - Có. 
                  
                  
                    
                    
                                - Thiền sư Kính Sơn có vợ không? 
                  
                  
                    
                    
                                Cư sĩ lại đáp: 
                  
                  
                    
                    
                                - Không có. 
                  
                  
                    
                    
                                - Thiền sư Kính Sơn có con cái không? 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Cư sĩ vẫn đáp: 
                  
                  
                    
                    
                                - Không có. 
                  
                  
                    
                    
                                Thiền sư Trí Tạng nghiêm trang nói: 
                  
                  
                    
                    
                                - Thiền sư Kính Sơn không có vợ con, do đó nói 
                    với ông "không". Ta nói với ông "có", vì cư sĩ có vợ con mà!
                    
                  
                  
                    
                    
                                Công án giống như thế cũng phát sinh ngay với 
                    thiền sư Triệu châu, người ta hỏi Ngài:  Con chó có Phật 
                    tánh không? Ngài cũng lúc thì trả lời "không", lúc thì đáp 
                    "có". Đây là vì chân lí chỉ có một, "có – không" chỉ là hai 
                    mặt của chân lí, nhưng chân lí là do người mà khác, thiền sư 
                    nói có hoặc nói không, chỉ là theo từng mặt bất đồng mà 
                    thuyết minh chân lí có ở khắp nơi. Do đó, người thọ giáo cố 
                    nhiên phải nên như "hư không", tiếp nhận tất cả, mới có thể 
                    tiếp thu học tập sự vật đã có. Người chỉ dạy, cũng cần phải 
                    giống như "hư không", có đủ mọi hình tướng mới có thể đạt 
                    được hiệu quả của đồng sự nhiếp thọ. 
                  
                  
                    
                    
                                Trong 50 năm hoằng pháp sinh nhai, tôi đã lội 
                    khắp các sự nghiệp Phật giáo: Giáo dục, văn hoá, từ thiện, 
                    cộng tu… tuy biết rõ chuyên làm một loại có thể giảm thiểu 
                    nhân lực, vật tư, nhưng tôi vẫn là nhiều hạng cùng làm. Tôi 
                    từng nhiều lần vùng thôn quê dân dã bố giáo, cũng thường đến 
                    thành thị đô hội hoằng pháp. Tôi chú trọng giáo dục thanh 
                    niên, thiếu niên, cũng vì phụ nữ, người già mở lớp dạy học. 
                    Tôi xếp đặt các loại hoạt động hiện đại, nhưng cũng chẳng bỏ 
                    lơ pháp hội truyền thống. Mặc dù để trù tính các thứ, ắt 
                    phải không từ rắc rối, động não không ngừng. Nhưng thật như 
                    kinh Lăng Nghiêm nói: "Quy nguyên vô nhị lộ, phương tiện hữu 
                    đa môn". Về nguồn không hai đường phương tiện có nhiều cửa. 
                    Chúng sanh chẳng phải ở trong phương tiện nhiều cửa này mà 
                    được khải phát sao? Phật giáo cũng chẳng ở phương tiện nhiều 
                    cửa này mà phát triển sôi nổi sao? 
                  
                  
                    
                    
                                Đến nay tôi vì tuổi đã cao, mang theo thân già 
                    bịnh mới giải phẫu, mỗi ngày đối mặt với hành trình đã sắp 
                    đặt đầy ắp, nhưng tôi chẳng thấy bên thân có người, có việc, 
                    do đó tôi có thể đồng thời giải quyết rất nhiều việc, cũng 
                    có thể đồng thời tụ tập người bất đồng, thuyết giảng đề tài 
                    bất đồng. Tôi chẳng thấy đến nơi này, đến nơi kia, do đó tôi 
                    có thể nằm gối mà ngủ, cũng có thể ngồi xe mà ngủ. Tôi có 
                    thể ở trên máy bay thuyết pháp, cũng có thể ở trong tàu lặn 
                    khai thị. Có người hỏi tôi: 
                  
                  
                    
                    
                                - Có bí quyết nào mà có thể mặc tình tiêu dao 
                    như thế? 
                  
                  
                    
                    
                                Tôi thường đem chuyện thiền sư Đạo Thọ kể cho 
                    mọi người, thuyết minh chỗ hay của lí "không" thuận theo tự 
                    nhiên, thực tiễn: 
                  
                  
                    
                    
                                Chùa do thiền sư Đạo Thọ xây cất ở gần đạo quán 
                    của đạo sĩ. Các đạo sĩ vì thấy chùa ở bên cạnh chịu không 
                    nổi, do đó mỗi ngày đều tìm cách nhiễu loạn Tăng chúng. Lúc 
                    thì hô phong hoán vũ, sái đậu thành binh; lúc thì gió thổi 
                    điện xẹt, bóng ma chàng ràng. Quả nhiên không ít các Sa-di 
                    nhỏ tuổi sợ quá bỏ đi. Thiền sư Đạo Thọ chẳng hề sợ hãi, một 
                    mình ở đấy hơn mười năm. Cuối cùng pháp thuật của đạo sĩ đã 
                    dùng hết sạch, chỉ đành bỏ đạo quán, dời đi nơi khác. 
                    
                  
                  
                    
                    
                    Có người hỏi thiền sư Đạo Thọ: 
                  
                  
                    
                    
                                - Bọn đạo sĩ pháp thuật cao cường, Ngài làm thế 
                    nào thắng được họ? 
                  
                  
                    
                    
                                Thiền sư Đạo Thọ đáp: 
                  
                  
                    
                    
                                - Tôi chẳng có pháp thuật gì, chỉ dùng một chữ 
                    "không" thắng họ thôi. 
                  
                  
                    
                    
                                - "Không", làm sao có thể thắng họ được chứ?
                    
                  
                  
                    
                    
                                - Bọn họ có pháp thuật, "có" là có hạn, có cùng, 
                    có tận, có lượng, có bờ mé; còn tôi không pháp thuật, 
                    "không" là không giới hạn, không cùng, không tận, vô lượng, 
                    vô biên. Do đó cái "không" của tôi biến hoá, phải hơn cái 
                    "có" của bọn họ biến hoá. 
                  
                  
                    
                    
                                Tại đây xin khuyên người đời: "Có" thì có được, 
                    có mất, "có" là cái có hạn, có ngại. Nhân đây tìm cái "có" 
                    chân thật, chẳng thể tìm trong cái "có" hư ảo. Nếu như anh 
                    có thể có tư tưởng "không", dù cho gặp nguy nan bách hại, 
                    cũng chẳng có mất mát, ngược lại càng có thể hiển xuất chí 
                    khí lỗi lạc của anh. Đây có thể so với việc rút dao chém 
                    nước, không cách gì ngăn trở dòng sông trôi chảy. Nếu như 
                    anh có thể ôm giữ thái độ "không", dù cho sinh hoạt ngay 
                    trong ngũ dục lục trần, cũng không bị ảnh hưởng, ngược lại 
                    càng có thể thể hội ra sự hàm chứa phong phú bên trong. Đây 
                    bèn như mặt gương không bụi, có thể rõ ràng ánh hiện vạn 
                    vật. Nhân vì chỉ có "không", mới có thể "có" đấy!